Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Truyền Thừa Của Thiền Phái Liễu Quán

20 Tháng Mười 201300:00(Xem: 4826)
Truyền Thừa Của Thiền Phái Liễu Quán
tosulieuquan

Truyền Thừa Của Thiền Phái Liễu Quán

HT Thích Nhất Hạnh


Ở Huế có một dòng sông tên là sông Hương và một ngọn núi tên là núi Ngự. Dưới chân núi có chùa Viên Thông, trong chùa có một vị thiền sư nuôi dạy đồ chúng, đó là thiền sư Liễu Quán. Hồi đó đất nước Việt Nam cũng bị chia đôi, từ sông Gianh ra ngoài Bắc là Chúa Trịnh cai trị còn trở vào Nam là chúa Nguyễn. Các Chúa ở trong Nam tuy gọi là Chúa nhưng kỳ thực họ là những ông vua, xưng là An Nam quốc vương. Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng đạo, nhưng vì thiền sư Liễu Quán không ưa lui tới tới phủ Chúa cho nên chúa thường hay tới chùa Viên Thông dưới chân núi để học đạo và cũng vì lý do đó nên người ta gọi ngọn núi đó là núi Ngự, tức là núi mà vua hay tới để nghe pháp.

Thiền sư sinh năm 1670, ở tỉnh Phú Yên, đến năm 6 tuổi thì mẹ mất. Chú bé ấy thường được cha dắt lên chùa Hội Tôn ở Phú Yên. Trong chùa có một thầy tên là Tế Viên rất cưng chú bé đó và chú bé đó cũng rất mến thầy. Năm 12 tuổi chú đòi đi tu và được cha cho phép. Chú tập sự xuất gia, làm chú điệu nhỏ ở chùa Hội Tôn dưới sự dẫn dắt của thầy Tế Viên. Bảy năm sau thì thầy Tế Viên viên tịch, lúc đó chú vẫn chỉ là điệu, còn để chỏm, chưa thọ mười giới (giới Sa Di). Chú điệu đó nghe nói ở Huế có nhiều thầy giỏi cho nên tìm đủ mọi cách ra Huế tầm sư học đạo. Hồi đó làm gì có xe bus, xe lửa, máy bay như bây giờ, vì vậy chú điệu từ Phú Yên phải vượt núi băng ngàn mà đi, cả mấy tháng mới ra tới Huế và tới Huế thì tìm tới được chùa Thiên Thọ (Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự). Chùa này là một trong những ngôi chùa cổ ở Huế, nằm trên một ngọn đồi cao, gọi là Hàm Long Sơn và sau đó đổi tên là Chùa Báo Quốc.

Hồi còn làm Sa di, tôi cũng được đi học ở Chùa Báo Quốc (Chùa Thiên Thọ). Hồi đó Phật Học Đường được tổ chức ở Chùa Báo Quốc. Tôi xuất gia tại chùa Từ Hiếu, mỗi tháng chùa Từ Hiếu phải đóng hai giạ lúa để cho tôi đi học. Chùa Từ Hiếu có ruộng, có lúa, thay vì đóng tiền thì đóng lúa, thành ra tôi đi học cũng tốn lúa của chùa lắm đấy. Hiện giờ chùa Từ Hiếu cũng vẫn còn ruộng, mỗi năm các thầy các sư cô cũng đi gặt lúa. Năm 2007 khi các thầy, các sư cô Tây phương về Huế cũng đã có dịp đi gặt lúa chung với các thầy, các sư cô của mình ở chùa Tổ rồi, rất là vui.

Chú điệu trẻ tuổi ra chùa Thiên Thọ tu học được một năm thì nghe tin cha bị bệnh nên phải về nuôi cha. Ngày ngày phải đi vào rừng đốn củi đem bán để đổi lấy gạo nấu cơm cho cha ăn và chăm sóc cha cho đến khi cha mất. Tang lễ cho cha xong thì chú ra lại Huế để tiếp tục tu học. Vào năm 1697 thì có Đại giới đàn ở Chùa Thiền Lâm và chú được thọ giới Sa di. Đại giới đàn do thiền sư Thạch Liêm ở Quảng Đông qua tổ chức, dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn Phúc Chu. Thiền sư Thạch Liêm còn để lại một cái bình bát ở Chùa Trúc Lâm (Huế). Năm 27 tuổi chú mới được thọ giới Sa Di, được làm một sư chú và hai năm sau đó thì được thọ giới lớn tại chùa Từ Lâm. Đó là năm 1697.

Lúc đó tại chùa Ấn Tôn (nằm trên ngọn đồi còn cao hơn ngọn Hàm Long là Long Sơn, tên mới là Từ Đàm) có một vị thiền sư đang giảng dạy và hướng dẫn thiền tập ở đó, vị thiền sư này tên là Minh Hoằng Tử Dung. Chùa Ấn Tôn được khánh thành năm 1702 nhưng thực ra hai mươi năm trước đó đã được thành lập. Đầu thế kỷ thứ 18 tức là vào năm 1702 thầy Liễu Quán được gặp thiền sư Tử Dung và thiền sư có trao cho thầy một công án, công án đó là:

- Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?
tất cả các pháp chảy về một pháp vậy cái một đó chảy về đâu? Mười ngàn pháp đi về cái một, vậy cái một đi về chỗ nào? Sau khi nhận công án, thầy Liễu Quán về Phú Yên và tu tại đó. Sau năm sáu năm tham cứucông án đó chưa vỡ ra được, thầy chưa chứng ngộ được. Tự nhiên một hôm đó, đang đọc cuốn Truyền Đăng Lục, ngang qua câu:
- Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ.
(Chỉ vào sự vật với mục đíchtruyền tâm mình cho người đệ tử thì điều này có thể là chướng ngại cho người đệ tử) tự nhiên thầy hiểu được, và thầy đặt cuốn kinh xuống. Thầy nhất định phải đi ra Huế trở lại để trình cho thầy biết là mình đã thấy được đạo rồi và cũng để xem thử là thầy có thấy mình đã thật sự đạt đạo hay chưa. Thầy vượt núi băng ngàn ra Huế trở lại, đó là vào năm 1708. Sau khi trình bày công phu của mình, thầy nghe thiền sư Tử Dung nói:
Hố thẳm buông tay
Một mình cam chịu
Chết đi sống lại
Ai dám chê mình

Thầy Liễu Quán vỗ tay cười. Thiền sư nói:
- chưa được.
Thầy Liễu Quán chỉ vào trái cân để gần đấy và nói
- Trái cân vốn là sắt.
Thiền sư vẫn lắc đầu. Thầy Liễu Quán buồn lắm. Nhưng qua ngày hôm sau, thấy thầy Liễu Quán đi ngang, Thiền Sư gọi lại. Thiền Sư bảo:
- chuyện ngày hôm qua nói chưa xong, hôm nay hãy nói tiếp đi.
Lúc bấy giờ thầy Liễu Quán mới mỉm cười và đọc:

Sớm biết đèn là lửa
Thì cơm chín đã lâu rồi!

Thiền Sư Tử Dung rất vui mừng và hết lời khen ngợi. Thầy Liễu Quán đã được đắc pháp.

Khi nghe thầy Liễu Quán đọc câu: “Trái cân vốn là sắt ta có thể nhớ tới con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng. Con sư tử vàng chỉ là một huyễn tướng, chỉ có vàng mới thật sự là chân thực. Đó là giáo lý tánh khởi, từ bản thể mà biểu hiện ra hiện tượng. Có thể là thầy Liễu Quán đã muốn trình kiến giải trong cái thấy tánh khởi của kinh Hoa Nghiêm, nhưng thiền sư đã không ấn chứng, có lẽ vì đấy chỉ mới là cái thầy của khái niệm. Đến khi nói chuyện đèn lửa nấu cơm thì mới thực sự là cái thấy thực chứng.

Liễu là hiểu được, quán tức là quán chiếu, là nhìn cho sâu. Tên hiệu là Liễu Quán, pháp danh là Thật Diệu. Thật là sự thật, diệu là sáng tỏ, chiếu sáng, sự thật chiếu sáng. Thầy truyền đăng cho mình là Minh Hoằng, bắt đầu chữ Minh (Minh Hoằng Tử Dung) và khi mình đắc pháp thì được chữ Thật. Bài kệ là:

Minh Thật Pháp Toàn Chương
Ấn Chân Như Thị Đồng.

Thầy là chữ Minh, trò là chữ Thật. Thật Diệu là pháp danh của thiền sư Liễu Quán và khi thiền sư Liễu Quán đặt tên cho đệ tử thì ngài đặt tên theo bài kệ này:

Thật Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong …

Tên thầy Liễu Quán bắt đầu bằng chữ Thật cho nên tên tất cả các đệ tử xuất giatại gia của thầy bắt đầu bằng chữ Tế. Tất cả đệ tử của các thầy có chữ Tế thì có pháp danh chữ Đại. Tất cả đệ tử thế hệ thứ tư đều có pháp danh chữ Đạo và thế hệ thứ năm là chữ Tánh. Hòa thượng Tánh Thiên Nhất Định khai sinh chùa Tổ của mình ở Huế là thuộc về thế hệ thứ năm. Thiền sư Tánh Thiên Nhất Định có nhiều vị đệ tử giỏi với pháp danh bắt đầu chữ Hải như Hải Thiệu Cương Kỷ và các đệ tử của thế hệ chữ Hải có pháp danh bắt đầu bằng chữ Thanh. Thầy của tôi, tức là sư ông của các vị ngồi đây là Hòa thượng Thanh Quý Chân Thật, thuộc thế hệ thứ bảy. Tôi là Trừng Quang, thế hệ thứ tám, pháp danh của tôi bắt đầu bằng chữ Trừng. Trừng là lắng đọng lại. Tất cả đệ tử xuất gia cũng như đệ tử cư sĩ của tôi đều có pháp danh bắt đầu bằng chữ Tâm, thuộc về thế hệ thứ chín của phái Liễu Quán.

Thiền thuộc tông Lâm Tế truyền sang Việt Nam nhiều lần và lần đầu tiên vào khoảng thế kỷ thứ 12, 13. Vua Trần Thái Tông cũng có tiếp nhận truyền thừa của tông Lâm Tế. Vào Thế kỷ thứ 17, thiền tông Lâm Tế lại vào Việt Nam thêm một lần nữa (không biết là lần thứ mấy). Hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung là người đã trao truyền thiền tông Lâm Tế lại cho thiền sư Liễu Quán. Thiền sư Liễu Quán đặt ra một pháp phái mới, một ngành mới của tông Lâm Tế, pháp phái đó về sau lấy tên là phái Liễu Quán.


Tôi là thế hệ thứ tám của phái Liễu Quán còn quí vị ở đây nếu có pháp danh chữ Tâm là thế hệ thứ chín của phái Liễu Quán. Đệ tử của quí vị sẽ có pháp danh bằng chữ Nguyên. Thành ra các vị nào mà có pháp danh Nguyên phải kêu tôi bằng ông, có pháp danh Tâm mới được kêu bằng thầy. Sư thúc Chí Mậu (vừa mới viên tịch) cũng thuộc về chữ Trừng. Những người có chữ Trừng hiện nay còn ít lắm. Bây giờ còn có khá nhiều chữ Tâm. Sau đó là chữ Nguyên, Quảng, Nhuận, Đức. Mình là con cháu Lâm Tế, mình là con cháu của thiền sư Liễu Quán, mình phải học thuộc bài này để biết các tổ tiên tâm linh của mình thuộc về chữ gì và thuộc thế hệ nào

Thật tế đại đạo
Tánh hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận
Đức bổn từ phong
Giới định phước huệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Mật khế thành công
Truyền trì diệu lý
Diễn xướng chánh tông
Hạnh giải tương ưng
Đạt ngộ chơn không

Dịch:

Đường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định phước huệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công
Truyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông
Hành giải song song
Đạt ngộ chân không.
(Thiền Sư Nhất Hạnh dịch)

Đó là dòng kệ của mình, mỗi chữ đại diện cho một thế hệ. Quí vị thuộc thế hệ thứ chín và thứ mười. Nếu truyền đạt tâm tông tại Tây phương thì mình không có dùng chữ Hán mà phải dùng chữ Anh, chữ Pháp: Of The Heart, Of The Source.

Thật Tế Đại Đạo

con đường lớn của thực tại. Đại đạo là đường lớn (the great way), Thật Tế là danh từ chuyên môn, có nghĩa là lĩnh vực của sự thật, tiếng Phạn là bhutakoti, dịch ra tiếng Anh là reality. Trong biên tế, chữ tế có nghĩa là biên giới (Frontier), là phạm vi (Domain). Chữ thật là reality, tức chân như (Reality as is it, Suchness). Bản thể, chân như không phải là ý niệm mà là sự thậtsự thật đó không thể nào diễn tả được bằng lời nói, bằng ý niệm, cái đó gọi là Bhutakoti (the Realm of the Ultimate). Con đường đưa mình về cái đó, gọi là đường lớn thực tại (the great Way that leads us to the Ultimate Reality).

Tánh Hải Thanh Trừng

Đó là biển thể tính, trong và lắng lại. Con đường lớn đưa về sự thực tuyệt đối, nó là biển thể tánh (the Ocean of True Nature). Đứng về phương diện hiện tượng thì thấy có sóng gió, còn đứng về phương diện bản thể thì dưới lòng biển rất yên, không có sóng gió. Sự yên lặng, sự bình an đó mình đi tìm ngay trong thể tánh (True Nature) của mình. Đứng về hiện tượng thì giống như có sanh, có diệt, có lên, có xuống, có yên tĩnh, có ồn ào, có có, có không, nhưng đứng về phương diện bản thể thì nó lắng và trong. Bản chất của mình là vừa trong vừa lắng. Khi mặt nước lặng yên, nó phản chiếu được hình ảnh của mặt trăng, không bị lung lay, cái đó gọi là trừng. Trừng tức là lắng lạị, lắng lại cho nên trong. Sư Ông đặt cho tôi pháp danh là Trừng Quang, nghĩa là khi lắng lại rồi thì nó phát ra hào quang, phát ra ánh sáng (Trừng Quang). Con đường lớn đưa mình tới chân lý nhiệm mầu của thực tại đó, nó vốn là cái biển của thể tánh, nó vốn là trong, là lặng và nếu mình tu tập cho đàng hoàng thì mình có thể tiếp xúc được với thể tánh trong và lắng đó ở trong con người của mình.

Tâm Nguyên Quảng Nhuận

Tâm của mình là một nguồn suối. Nếu tu tập cho thành công thì nguồn suối đó là nguồn suối của trí tuệ, của từ bi, của hiểu và của thương. Nguồn suối đó sẽ đi khắp nơi và nó sẽ thấm nhuần vào trong cuộc đời, gọi là tâm nguyên quảng nhuận. Quảng là rộng lớn, nhuận là thấm (Penetrate, Absorbing). Một giòng sông có thể chảy thấm vào hai bên ruộng đồng, tưới mát cho ruộng đồng, nhưng nguồn tâm này thấm rất là sâu rộng. Tu học cho giỏi thì tâm của mình thành một nguồn suối của hiểu biết, của thương yêu và nguồn suối của hiểu biếtthương yêu đó thấm vào trong xã hội, thấm vào loài người, thấm vào loài vật, thấm vào loài cây cỏ, loài đất đá. Nguồn tâm thấm vào sự sống rất là rộng rãi.

Đức Bổn Từ Phong

Nguồn suối của hiểu biết, thương yêu đó cũng là gốc rễ của đạo đức. Một bên là nguồn suối, một bên là gốc rễ. Một bên là cội, một bên là nguồn. Cây có cội, nước có nguồn, mình cũng vậy, mình có cội và nguồn của mình. Mình phải trở về để tiếp nối được cội nguồn ấy. Nguồn ấy có thể do mình khơi mà chảy khắp, thấm nhuận trong cuộc đời. Cội đó có thể do mình trồng lên mà tạo thành một phong cách, một nếp sống từ hòa đẹp đẽ, gọi là từ phong. Từ phong tức là một nền văn minh, một nếp sống từ bi. Phong ở đây là phong cách, là một nếp sống, một truyền thống. Khi lập phong trào Wake Up cho người trẻ thì mình đặt tên là Young Buddhists and Non-Buddhists for a Healthy and Compassionate Society - để tạo dựng một xã hội lành mạnh và một nếp sống từ bi. Mình phải tạo ra một phong cách, một nếp sống, một nền văn minhtừ bi, gọi là từ phong. Cái gốc của mình là gốc đức hạnh, gọi là đức bổn. Đức ở đây tức là virtue, trước hết là đức hiểu, rồi đến đức thương (Understanding and Love). Mình có cái gốc đó và nếu biết vun trồng cái gốc đó thì mình có thể giúp tạo ra một nếp sống từ bi trong xã hội, gọi là đức bổn từ phong. Nếp sống bây giờ có quá nhiều bạo động, hung dữ, hận thù và làm cho bao nhiêu người đau khổ, thành ra chúng ta phải tu tập để cho nguồn suối cũng như gốc rễ đem tới từ bi cho xã hội.

Giới Định Phúc Tuệ

Đây là bài kệ bốn chữ cho nên thay vì giới định tuệ (tam học) thì thiền sư đã thêm vào chữ phước. Khi mình tu huệ thì tự nhiên có phước. Tu phướctu huệ đi đôi với nhau, giới định phước tuệ. Chữ phước ở đây có thể hiểu là hạnh phúc.

Thể Dụng Viên Thông

Cái thể và cái dụng của giới định tuệ tròn đầy và bao trùm lấy nhau. Trong giới có định, trong định có giới, trong giới có tuệ, trong tuệ có giới và có định, gọi là viên thông, cả ba bao trùm lấy nhau. Ba cái đó (giới, định, tuệ) không phải là ba cái riêng biệt mà chúng chứa đựng nhau, trong một có ba, trong ba có một, gọi là thể dụng viên thông

Khi tới với nhau để tu tập, ví dụ như ngồi thiền chung sáng nay thì trước hết mình dùng hơi thở để điều hòa thân thể của mình. Mình ngồi như thế nào để cho những căng thẳng trong cơ thể được buông bỏ và có an bình. Mình phải tập thở như thế nào để tới phút thứ hai, thứ ba là cơ thể của mình lắng dịu xuống, những căng thẳng của cơ thể được buông bỏ, rồi những lo lắng, buồn phiền cũng tiêu tanthân tâm của mình trở nên êm dịu. Khi hai ba trăm người ngồi với nhau mà người nào cũng làm cho thân tâm êm dịu thì năng lượng mà mình chế tác chung đó rất tốt, nó là thức ăn của mình trong khi ngồi thiền và cái đó là do giới, định mà có. Giới tức là chánh niệmchánh định. Khi đã làm cho thư giãn thân thể, đã làm cho nhẹ bớt những nỗi khổ niềm đau trong lòng rồi thì mình bắt đầu quán chiếu.

Mục đích của quán chiếu là đạt tới tuệ giác. Tên của Tổ là Liễu Quán, tức là thành công trong sự quán chiếu. Quán chiếu để làm gì? Quán chiếu là để đạt tới tuệ giác mà có tuệ giác thì tháo gỡ được những khổ đau, những khó khăn trong cuộc đời. Có những hệ lụy, khổ đau, những trái ngang, bế tắc thì những khổ đau đó chỉ có thể giải quyết được khi có tuệ giác. Muốn có tuệ giác thì phải có định, định đưa tới tuệ giác mà muốn có định thì phải có niệm, tức là phải có giới. Giới định tuệ hay niệm định tuệ thì cũng vậy. Khi thực tập hơi thở hay bước chân có ý thức thì mình thực tập chánh niệm, mình đi vào giới, rồi mình sử dụng định của mình. Mình quán chiếu về vô thường, về vô ngã, về tương tức, về duyên sinh, tất cả những cái đó gọi là định. Nương vào những cái định đó mà quán chiếu thì một lúc nào đó mình sẽ đạt tới cái tuệ mà khi đạt được cái tuệ thì mình tháo gỡ được những khó khăn, những khổ đau của mình.

Thực tập ở trong truyền thống thiền là như vậy. Mình tới tu tập chung với nhau, giữ giới, giữ chánh niệm chung với nhau là để làm chuyện đó. Mình sử dụng những phương pháp như là quán vô thường, quán vô ngã, quán không, quán vô tướng, quán vô tác, quán tương tức, đó đều là những phương pháp, gọi là định (Samadhi). Khi sử dụng một trong những phép quán đó thì thế nào mình cũng đạt tới cái thấy, tức là tuệ mà có tuệ rồi thì mình tháo gỡ được những khó khăn, những bế tắc rất là dễ dàng. Theo lời dạy của Tổ thì cái thể và cái dụng của giới định tuệ vốn tròn đầy, nó dung chứa nhau. Hễ có niệm là bắt đầu có định, hễ có định là bắt đầu có tuệ. Thí dụ như mình thở vào thì mình biết mình đang thở vào, mình chuyên chú vào hơi thở vào, tức là có niệm và có định. Có niệm và có định thì tự nhiên mình thấy được liền một cái gì đó: Thở vào, a mình đang còn sống đây! Mình biết mình đang còn sống, đó đã là tuệ rồi. Hễ có niệm, có định là có tuệ. Niệm càng vững thì định càng kiên cố và tuệ càng lớn mạnh.

Thành ra trong mỗi bước đi, trong mỗi hơi thở, trong mỗi hành động của mình mà nếu có niệm, có định thì mình đang ở trên con đường đạt tới tuệ giác. Ban đầu là những cái tuệ nho nhỏ rồi từ từ tới những cái tuệ lớn. Niệm và định làm cho chín củ khoai tuệ giác mà mình nấu ở trong nồi. Niệm là lửa ở dưới cái nồi, định là cái nắp, nó giữ hơi nóng đừng thất thoát ra ngoài và càng ngày nó càng tạo ra sức nóng nhiều hơn để cho củ khoai đó chín. Niệm và định là năng luợng đưa tới tuệ, nếu không có niệm, không có định thì không bao giờ có tuệ cả mà hễ có niệm và có định thì chắc chắn thế nào cũng có tuệ. Tuệ tức là hoa trái mà mình gặt hái khi mình tu tập. Mình không cầu xin cái tuệ đó từ một vị thần linh, mình biết cái tuệ đó có sẵn ở trong mình dưới dạng những hạt giống và nếu mình cho phép những hạt giống đó được tưới tẩm, được nâng niu thì nó sẽ bắt đầu nẩy mầm. Một người tu giỏi thì ngày nào cũng có thêm tuệ, mỗi ngày mỗi thông minh, mỗi ngày mỗi sáng suốt và khi mình có tuệ rồi mình giải quyết được những vấn đề trong đời sống hàng ngày rất dễ dàng và giúp cho người khác chung quanh giải quyết những vấn đề của họ dễ dàng hơn, đó là cái mà mình chế tác ra.

Ba nguồn năng lượng giới, định và tuệ, tuy có ba tên khác nhau nhưng mà cái thể của nó cùng chung. Trong niệm có định và có tuệ, hễ có niệm là bắt đầu có định và có tuệ, hễ có tuệ tức là đã có niệm, có định rồi. Công dụng của niệm, định, tuệ là khả năng tháo gỡ những khổ đau, những khó khăn cho mình. Ví dụ như mình từ thiền đường đi về phòng trong buổi sáng mai, đi từng bước thảnh thơi và thở trong chánh niệm. Nhờ thở trong chánh niệm, đi trong chánh niệm cho nên mình tiếp xúc được không khí trong lành của buổi ban mai. Mình thấy không khí trong lành ban mai có đó và mình đã được thở, được bước đi những bước chân rất nhẹ nhàng, thảnh thơi. Công dụnglợi ích của chánh niệm là giúp cho mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm như vậy để mình tự nuôi dưỡng mình, tự chữa trị cho mình, đó gọi là dụng, dụng là công dụng.

Nhìn vào tờ giấy ta thấy cái thể của nó là bột giấy, còn công dụng của nó là để viết chữ, in chữ. Như cây bút thể của nó bằng plastic và cái dụng của nó là để viết chữ. Cái gì cũng có thể và có dụng. Thật ra ta có thể nói tới ba cái : thể, tướng và dụng. Thể tức là bản chất, tướng là hình tướng, dụng là công dụng. Bột giấy là thể, tờ giấy mỏng là tướng và để dùng in sách gọi là dụng. Niệm, định và tuệ đều có thể, có tướng và có dụng của chúng. Khi thiền sư nói thể dụng viên thông, mình có thể hiểu : thể, tướng, dụng viên thông. Nếu để thêm tướng vào đây thành năm chữ, thành ra để hai chữ thể và dụng là đủ rồi cũng như bên này (giới, định, tuệ) có ba chữ thôi, cho nên thêm chữ phúc vào giữa để đọc cho êm tai. Thể dụng viên thông, tức là thể, tướng và dụng, đi chung với nhau, cái này ôm lấy cái kia, cái này chứa đựng cái kia. Ba nguồn năng lượng giới định tuệ và thể tướng dụng của ba cái chung với nhau và thông với nhau.

Vĩnh Siêu Trí Quả

Hoa trái của trí tuệ mà mình đạt tới giúp mình vượt thoát vĩnh viễn những hệ lụy, những khổ đau, gọi là vĩnh siêu. Siêu tức là vượt thoát, vĩnh có nghĩa là vĩnh viễn.

Mật Khế Thành Công

Mật tức là âm thầm không lộ liễu, còn khế nghĩa là ăn khớp với nhau, mật khế nghĩa là không cần phải nói ra nhưng rất ăn khớp với nhau, giống như hai thầy trò, tuy họ không nói năng nhưng họ rất hiểu nhau, làm gì cũng có hòa điệu.

Giới định tuệ là một bộ ba với nhau, rất sít sao, phù hợp nhau,chúng đưa tới sự thành công của trí tuệ. Hoa trái của trí tuệ giúp ta vượt thoát vĩnh viễn những khổ đau và khi phối hợp lại đưa chúng ta tới sự thành công lớn. Vậy thì sau khi đạt đạo rồi phải làm gì?

Truyền Trì Diệu Lý

Truyền tức là trao truyền cho thế hệ kế tiếp. Trì tức là giữ gìn, đừng để mất. Mình đạt được tuệ giác nhiệm mầu đó rồi thì phải nắm cho vững và phải trao truyền lại cho hậu thế.

Diễn Xướng Chánh Tông

Diễn xướng tức là làm cho nhiều người biết tới, giới thiệu làm cho nó hưng thạnh. Chánh tông tức là tông phái chánh thức, tông chỉ của thiền tông. Chánh tông ở đây là thiền tông (True Zen).

Ở bên Nhật Bản có loại rượu Sake gọi là Cúc chánh tông. Ở Việt Nam hồi xưa có loại nước ngọt chánh hiệu con nai vàng và ở Sài gòn có một tiệm cơm chay Phật Hữu Duyên chánh tông. Chánh tông tức là một truyền thống. Tông ở đây là tông phái, tức thiền phái chánh tông. Thiền phái của mình có nội dung, có bản chất, có tuệ giác. Vì vậy mình phải nắm cho được, truyền lại cho được và phải đem công bố ra, gọi là diễn xướng chánh tông. Và nên nhớ, đây là lời dặn của Ngài.

Hạnh giải tương ưng
Đạt Ngộ Chân Không


Mình nói chánh niệm thì mình phải sống chánh niệm, mình nói hiểu thì mình phải hiểu, mình nói thương thì mình phải thương, mình dạy sư em như thế nào thì mình phải làm như thế đó, cái đó gọi là hành giải tương ưng, tức là nói và làm đi đôi với nhau, cái hiểu và cái làm đi đôi với nhau, lý thuyết với thực hành đi đôi với nhau.

Hồi tôi còn học tiểu học có cô giáo dạy chúng tôi là không nên đi giày cao gót vì có thể bị trẹo chân và đi đứng không tự nhiên trong khi đó thì cô giáo lại đang đi giày cao gót. Khi học sinh hỏi : « Sao cô dạy là không đi giày cao gót mà cô lại đi ? » Cô giáo trả lời : « Em hãy làm những gì cô nói, đừng làm những gì cô làm » (Fais ce que je dis, pas ce que je fais). Cái đó không phải là hành giải tương ưng. Hành giải tương ưng tức là cái mình nói, cái mình rao giảng và cái mình làm nói phải đi đôi với nhau. Đạt ngộ tới thực tế, chân không, nó chính là thực tế đó.

Vào đầu thế kỷ thứ 18, thiền sư Liễu Quán có lập thêm một ngôi chùa lớn ở Huế, gọi là Chùa Thiền Tôn. Nếu ai có dịp về Huế thì có thể đi thăm mộ của thiền sư Liễu Quán sát Chùa Thiền Tôn ở tháp Tổ. Ở Huế mỗi năm đều tổ chức tảo tháp và tất cả các con cháu của tổ đều tới để lượm rác, quét tước, nhổ cỏ, rất là vui. Tại Làng Mai một số các thầy, các sư cô ở đây đã từng được về Chùa Thiền Tôn và đã được tới thăm tháp của tổ Liễu Quán. Hiện bây giờ 95 % các thầy, các sư cô, các Phật tửThừa Thiên và các tỉnh lân cận đều là con cháu của Tổ Liễu Quán. Chúng ta đã nối tiếp được Tổ tới mười mấy thế hệ rồi, quý vị ngồi đây là thuộc thế hệ thứ chín và bây giờ đã tới thế hệ thứ mười, thứ mười một, thứ mười hai. Chùa Viên Thông ở dưới chân núi Ngự và chùa Thiền Tôn ở trên núi Thiên Thai là hai ngôi chùa mà Tổ đã thành lập ở Huế. Ngoài ra Tổ cũng có lập nhiều chùa ở Phú Yên. Cái gốc của phái Liễu QuánLâm Tế. Ban đầu thì được các thầy từ Quảng Đông truyền sang nên có tính cách rất Quảng Đông, nhưng từ thiền sư Liễu Quán trở về sau thì truyền thống này càng ngày càng được Việt hóa. Bây giờ đây nghi lễ, kiến trúc, thực tập đều đã được Việt Nam hóa. Có những bài tán, những bài tụng có giọng Huế, những bài Cực Lạc Từ Hàng xướng lên đúng là giọng Huế, không còn giọng Quảng Đông nữa. Cho nên phái Liễu Quán này đã Việt hóa thiền Lâm Tế tới cái mức rất hay. Chùa Tổ Từ Hiếu đã ấn hành sách Thiền Môn Nhật Tụng bằng chữ Hán, còn Mai Thôn Đạo Tràng tiếp nối đã ấn hành Nhật Tụng Thiền Môn toàn bằng quốc văn. Mình tiếp tục Việt hóa thiền và hiện bây giờ đây trong Nhật Tụng Thiền Môn mình có rất nhiều bài Sám, bài Kinh quốc ngữ rất hay. Sáng nay thầy Pháp Niệm hô canh rất hay, bài hô canh hoàn toàn nhạc Việt Nam và lời Việt Nam, đó cũng là một công trình nối tiếp sự nghiệp hoằng pháp của chư tổ. Chúng ta đã hết lòng để nối tiếp sự nghiệp của chư tổ, là con cháu của tổ bây giờ mình phải học thuộc lòng bài này kệ truyền thừa này.

 

Thầy Làng Mai giảng ngày 17.12.2009 - chùa Từ Nghiêm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7969)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35350)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19534)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11603)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23063)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13269)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5809)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10557)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10291)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 9957)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20760)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6176)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6823)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8845)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 5979)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18109)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6316)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6699)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6522)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12936)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5835)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7843)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10131)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7827)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9811)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9038)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5920)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24484)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36274)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7666)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11474)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 9982)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5203)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5399)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9938)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7833)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9326)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8582)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46369)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6872)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12168)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5765)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14409)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12916)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12351)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14411)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12322)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10921)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9588)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16612)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8434)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5929)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9893)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6346)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11282)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7002)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46569)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13459)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8328)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6836)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9134)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6163)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6869)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17745)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18058)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15689)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6915)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31104)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9544)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7654)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21517)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34086)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33189)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14178)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35548)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 12979)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15738)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13636)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 32920)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26252)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41304)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40238)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19998)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33620)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29643)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33697)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18794)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22321)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48914)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11938)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11139)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22408)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17937)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15071)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22618)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15968)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13084)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19661)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12037)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant