Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổ Sư Liễu Quán Hành Tung & Thi Kệ Thị Tịch

20 Tháng Mười 201300:00(Xem: 4140)
Tổ Sư Liễu Quán Hành Tung & Thi Kệ Thị Tịch
tosulieuquan
Tổ Sư Liễu Quán
Hành Tung & Thi Kệ Thị Tịch


Thích Thái Hòa

Thân thế, Khí tiết Và Hiếu sự

 Tổ sư họ Lê, húy Thiệt Diệu, tự Liễu Quán, sinh giờ Thìn, ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi, tức ngày 01 tháng 01 năm 1668, tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

Mất mẹ năm sáu tuổi, Tổ muốn xuất gia, phụ thân liền đưa đến chùa Hội Tôn ở Phú Yên đảnh lễ Hòa Thượng Tế Viên để cầu thọ giáo.

Hòa Thượng Tế Viên viên tịch, trải qua bảy năm, Tổ đã băng đèo vượt suối từ Phú Yên ra đất Thuận Hóa đến núi Hàm Long tức là chùa Báo Quốc ngày nay đảnh lễ Giác Phong Lão Tổ thỉnh cầu tu học.

Đến năm Tân Mùi, năm 1691, sau khi xuống tóc vừa một năm, Tổ trở lại quê nhà hái củi nấu cháo, phụng dưỡng phụ thân, thắm thoắt bốn năm, thì phụ thân qua đời.

Con đường hướng thượngCông án

Năm Ất Hợi, tức năm 1695, Tổ trở lại Thuận Hóa đảnh lễ Hòa Thượng Trường ThọThạch Liêm cầu thọ Sa di giới tại chùa Thiền Lâm do Hòa Thượng Trường Thọ - Thạch Liêm làm đàn đầu.

Năm Đinh Sửu, tức năm 1697, Tổ cầu thọ cụ túc giới tại giới đàn chùa Từ Lâm, Thuận Hóa do Hòa Thượng Từ Lâm làm đàn đầu.

Năm Kỷ Mão, tức năm 1699, sau hai năm thành tựu giới thể cụ túc, Tổ sống đời đạm bạc và đi tham học với các bậc thạc đức cao tăng chốn Tòng lâmThuận Hóa. Bấy giờ Tổ thường tự nghĩ: “Hà pháp tối vi đệ nhất, ngã quyết xả thân mạng, y pháp tu hành = Pháp nào là vi diệu tối thượng bậc nhất, ta nguyện quyết xả thân mạng, y vào pháp đó tu hành”.

Năm Nhâm Ngọ, tức năm 1702, Tổ nghe danh Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung ở chùa Ấn Tôn, tức Từ Đàm ngày nay, là bậc Thầy số một, khéo dạy người tham thiềnniệm Phật. Tổ liền đến chùa Ấn Tôn đảnh lễ Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung để tham học.

Bấy giờ, Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung dạy Tổ tham công án: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ = Vạn pháp về một, một về chỗ nào?”.

Sau khi tiếp nhận công án, trải qua tám, chín năm dồn hết sức lực tham thiền quán chiếu, công án chưa được vỡ tung, tâm bỗng hoang mang, nhân khi đọc “Truyền đăng lục”, tới câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ = Chỉ vật để truyền tâm, ấy là chỗ mà người không lãnh hội”, thì Tổ liền hoát nhiên tự ngộ.

Năm Mậu Tý, tức năm 1708, Tổ liền đến chùa Ấn Tôn trình lên Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung về sự ngộ chỉ của mình.

Tổ trình chứng: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ = Chỉ vật để truyền tâm, ấy là chỗ mà người không lãnh hội”.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung hỏi: “ Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương, tuyệt hậu tái tô khi quân bất đắc = Vực thẳm buông tay, tự mình khẳng định thừa đương; chết đi sống lại không thể xem thường” là thế nào?

Tổ vỗ tay cười ha hả.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung bảo: Chưa phải ở đó!

Tổ đáp: “Bình truy nguyên thị thiết = Quả cân vốn là sắt”.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung bảo: Chưa phải.

Sáng hôm sau, Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung thấy Tổ đi ngang qua, lại liền gọi và bảo: “Công án hôm qua chưa xong, trình lại xem nào?”.

Tổ liền thưa: “Tảo tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thời! = Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi!”.

Bấy giờ, Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung mới có lời khen, nhưng chưa ấn chứng.

Từ đó, Tổ ẩn cư ở núi Thiên Thai ăn rong ở hồ, uống nước ở suối, để chuyên sâu thiền quánthỉnh thoảng đi hành cước để tham vấn lý đạo với các bậc cao đức ở trong chốn Tòng lâm.

Mùa hạ năm Nhâm Thìn, tức là năm 1712, Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung đến Quảng, sách tấn an cư toàn viện, Tổ liền trình lên bài kệ “Dục Phật = Tắm Phật”.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung hỏi:

“Tổ Tổ tương truyền, Phật Phật thọ thọ, vị thẩm truyền thọ cá thậm ma? = Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật trao nhận, vậy các Ngài truyền thọ với nhau cái gì?”.

Tổ đáp:

“Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,

Quy mao phất tử trọng tam cân”.

Nghĩa là:

“Măng đá nhảy ra dài một trượng

Lông rùa phe phẩy nặng ba cân”.

Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung:

“Cao cao sơn thượng hành thuyền

Thâm thâm hải để tẩu mã”.

Nghĩa là:

“Núi cao vời vợi chiếc thuyền chèo

Biển thẳm ngút ngàn con ngựa chạy”.

Tổ đáp:

“Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống

Một huyền cầm tử tận nhật đàn”.

Nghĩa là:

“Trâu đất sừng gãy thâu đêm rống

Cầm tử dây đứt suốt ngày đàn”.

Tổ sư đối ứng trong chớp mắt, lý sự tương dung bất nhất, bất nhị, như nước yên, tức thì trăng hiện không trước không sau, tâm cảnh nhất như không đến không đi, siêu việt niệm tưởng, nên đã được Hòa Thượng Minh Hoằng – Tử Dung ấn chứng tâm tông.

to_lieu_quan_0

to_lieu_quan_1

Chân dung Tổ sư Liễu Quán (Họa sĩ Phạm Đăng Trí vẽ lại từ ảnh trên)

 

 to_lieu_quan_2

Mở Rộng Tâm Tông

Từ đó, phong quang rực sáng, pháp thân độc lộ Tòng lâm, núi Thiên Thai tức là chùa Thuyền Tôn ở Huế ngày nay, nơi trú xứ Tổ đã chấn rung tích trượng liền trở thành một trung tâm tu họctruyền bá Phật Pháp ở đất Phú Xuân – Thuận Hóa bấy giờ.

Tại Phú Xuân – Thuận Hóa, Tổ đã chu du giáo hóa thuyết pháp tại nhiều trú xứ, từ núi Thiên Thai - Phú Xuân đến Đồng Xuân - Phú Yên và các vùng phụ cận.

Tổ đã mở nhiều giới đàn để truyền giới pháp cho hàng xuất giatại gia.

Giới đàn đầu mùa xuân năm Nhâm Tuất, tức năm 1742 được Tổ tổ chức tại chùa Viên Thông dưới chân núi Ngự Bình là giới đàn sau cùng, trước khi Tổ viên tịch.

Trên bước đường hành đạo, Tổ đã xuất thi kệ truyền thừa như sau:

“Thiệt tế đại đạo

Tánh hải thanh trừng

Tâm nguyên quảng nhuận

Đức bổn từ phong

Giới định phước huệ

Thể dụng viên thông

Vĩnh siêu trí quả

Mật khế thành công

Truyền trì diệu lý

Diễn xướng chánh tông

Hạnh giải tương ưng

Đạt ngộ chân không”.

Nghĩa là:

“Thực tế đường lớn

Biển tánh lắng trong

Nguồn tâm nhuần khắp

Gốc đức từ phong

Giới định phước huệ

Thể dụng viên thông

Trí quả vĩnh siêu

Thầm hợp thành công

Truyền giữ lý mầu

Tuyên dương chánh tông

Biết làm đồng nhất

Đạt ngộ chân không”.

Bấy giờ, các chúa Minh Vương - Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725), Ninh Vương - Nguyễn Phúc Chú (1725 -1738), Võ Vương - Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765), nghe danh đứcđạo phong của Tổ, đã nhiều lần cung thỉnh Tổ vào phủ Chúa để tham học, nhưng Tổ đều từ chối, vì chỉ ưa thích sống với núi rừng.

• Những ngày cuối cùng

Cuối mùa Thu năm Nhâm Tuất (1742), Tổ chỉ bệnh nhẹ. Vào giữa tháng mười, Tổ gọi đồ chúng mà bảo: “Ngô tương quy hĩ, thế duyên dĩ tận = Duyên đối với thế gian đã hết, Tôi sắp về vậy!”. Mọi người đứng bên đều khóc. Tổ dạy: “Quý vị tại sao lại buồn khóc? Chư Phật xuất thế còn thị hiện Niết bàn. Tôi nay đến đi rõ ràng, về ắt có chỗ. Quý vị hãy vâng hành đừng có buồn khóc!”.

Vào tháng 11 năm Nhâm Tuất, trước khi mất vài ngày, Tổ ngồi ngay thẳng viết thi kệ thị tịch như sau:

“Thất thập dư niên thế giới trung

Không không sắc sắc diệc dung thông

Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý

Hà tất bôn mang vấn Tổ tông”.

Nghĩa là:

“ Hơn bảy mươi năm giữa cõi đời

Không không sắc sắc thảy dung thông

Sáng nay nguyện mãn về quê cũ

Nào phải bôn ba hỏi Tổ Tông”.

Sau khi viết xong thi kệ thị tịch, Tổ dạy môn đồ rằng: “Câu nói sau cùng của Lão Tăng sống đạo là gì? Lồng lộng nguy nga, huy hoàng rực rỡ. Xưa đến, nay đi. Muốn hỏi chỗ trọng yếu đến đi thế nào? Kìa trời biếc lắng trong, trăng thu vằng vặc, toàn thân hiển lộ nơi sa giới đại thiên. Lời pháp sau cùng của ta, quý vị hãy nghĩ suy, vô thường nhanh chóng, Bát nhã phải tinh cần học tập. Đừng vội quên lời ta, mỗi vị hãy tự mình tinh tấn lên!”.

Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất, tức ngày 18 tháng 12 năm 1742, sau khi uống trà, pháp thoạihành lễ buổi sáng xong, Tổ hỏi mấy giờ? Môn đồ đáp là giờ Mùi, Tổ liền an nhiên thị tịch.

Tổ hưởng thọ 76 tuổi, ghi theo bia ký; Tổ hưởng thọ 74 tuổi, tính theo niên đại sinh và tịch, 43 năm được truyền y bát, 34 năm thuyết pháp độ sanh, đệ tử xuất gia kế thừa pháp có 49 vị, đệ tử tại gia có đến ngàn, vạn người.

Chúa Võ Vương - Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) quý trọng đạo hạnh của Tổ, cung kính dâng lên Tổ thụy hiệu: “Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng” để khắc vào bia.

Sau khi Tổ viên tịch gần ba tháng, nhục thân của Ngài đã được môn đồ cung tiễn đến nhập bảo tháp vào ngày 19 tháng 2 năm Quý Hợi (1743).

 

to_lieu_quan_3

Bảo tháp Tổ sư Liễu Quán

Tổ sư Thiệt Diệu – Liễu Quán truyền thừa Chánh Pháp Nhãn Tạng đời 72 từ Tổ Ca Diếp Ấn Độ; đời thứ 35 từ phái thiền Lâm Tế - Nghĩa Huyền ở Trung Hoa và là vị Sơ Tổ của phái thiền Liễu QuánViệt Nam.

Thi kệ thị tịch với kinh Kim Cang

Đọc thi kệ Thị tịch của Tổ sư Thiệt Diệu – Liễu Quán, thấy Tổ đã chỉ cho ta rõ, Ngài từ đâu đến và đi về đâu.

Kệ rằng:

“Thất thập dư niên thế giới trung

Không không sắc sắc diệc dung thông

Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý

Hà tất bôn mang vấn Tổ tông”.

Nghĩa là:

“ Hơn bảy mươi năm giữa cõi đời

Không không sắc sắc thảy dung thông

Sáng nay nguyện mãn về quê cũ

Nào phải bôn ba hỏi Tổ Tông”.

Kinh Kim Cang nói rằng: “Nếu có thế giới, thì đó chỉ là một tướng tập hợp. Như Lai nói một tướng tập hợp, vốn không phải là một tướng tập hợp, nên gọi là một tướng tập hợp”.[1]

Kinh Kim Cang nói, thế giới chỉ là “một tướng tập hợp”, thì ở trong thi kệ thị tịch, Tổ Liễu Quán dạy: “Không không sắc sắc diệc dung thông”. Tại sao Tổ dạy, “Không không sắc sắc diệc dung thông”? Vì thế giới nầy chỉ là một tướng tập hợp mà tự tính của nó là Không, là rỗng lặng, không hề mang tính ngã và pháp, nên không có mặt trong sắctự thể của sắc ấy là không; không làm nền tảng cho mọi sắc tướng biểu hiện và mọi sắc tướng biểu hiện là biểu hiện từ nơi không, nên Tổ dạy “không không sắc sắc diệc dung thông”.

“Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý = Sáng nay nguyện mãn về quê cũ”. Các phiền não thuộc về ngã tưởng, phi ngã tưởng; thuộc về pháp tưởng và phi pháp tưởng đều đã bị nhiếp phục và chặt đứt bởi Tuệ giác Kim cang, khiến cho tâm hoàn toàn ở vào trạng thái yên tịnh, quê hương đích thực hiện ra. Quê hương ấy là tự tánh thanh tịnh hay Niết bàn tuyệt đối.

Gốc rễ của phiền não bị Tuệ giác Kim Cang nhiếp phục và chặt đứt, Niết bàn hay quê hương đích thực hiện ra, đó là nguyện mãn của người tu và giây phút nguyện mãn đó, chính là “kim triêu”.

Tổ tông của muôn vật ở đâu? Chính là tánh - không ở ngay nơi muôn vật. Tổ Nguyên Thiều dạy: “Đường đường vật phi vật; Liêu liêu không vật không”, còn Tổ Liễu Quán lại chỉ ra cho ta rằng: “Không không sắc sắc diệc dung thông”.

Mỗi khi đã giác ngộ “vật phi vật, không vật không” hay “không không sắc sắc diệc dung thông”, thì chính ngay nơi đó là Tổ tông, là Như Lai mà ở Kinh Kim Cang, đức Phật dạy cho Tôn giả Tu bồ đề rằng: “Nếu có người nói rằng, Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm là người ấy không hiểu được ý nghĩa lời nói của Như Lai. Tại sao? Vì Như Lai không đến từ đâu, cũng không đi về đâu”. Và cũng vì vậy mà Tổ Liễu Quán dạy “hà tất bôn mang vấn tổ tông?”. Tổ Tông ấy, chính pháp thân thường trú của hết thảy thân, là tự tánh thanh tịnh ở nơi tâm và là pháp tánh thanh tịnh bất sanh diệt ở nơi muôn vật, là “đại thiên sa giới lộ toàn thân”, chứ không phải Tổ tôngẤn độ, ở Trung hoa hay ở nơi bất cứ Tông phái, Tông môn nào để phải nhọc công kiếm tìm!

Thời Chúa Nghĩa - Nguyễn Phúc Thái (1687 – 1691), đã cho sứ giả sang Trung Hoa thỉnh Thạch Liêm Hòa Thượng phái thiền Tào Động đến Thuận Hóa để hoằng hóa và mở đại giới đàn, nhưng không thành, rồi đến chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725), cũng đã cho sứ giả sang Trung Hoa cầu thỉnh Thạch Liêm Hòa Thượng đến Thuận Hóa để hoằng hóa và mở đại giới đàn tại chùa Thiền Lâm, năm Ất hợi (1695), Chúa đã quy y và thọ Bồ tát giới với Thạch Liêm Hòa Thượng phái Tào Động tại giới đàn nầy.

Trước khi Thạch Liêm Hòa Thượng được chúa Nguyễn Phúc Chu thỉnh đến Thuận Hóa để hành đạo, mở giới đàn, thì bấy giờ trên đất Thuận Hóa phái Thiền Lâm Tế đã được phát triển với sự có mặt của các Ngài như: Hoán Bích – Nguyên Thiều khai sơn chùa Vĩnh Ân, tức là chùa Quốc Ân hiện nay; Minh Hoằng – Tử Dung, khai sơn chùa Ấn Tôn, tức Từ Đàm hiện nay; Minh Hải – Pháp Bảo, khai chùa Chúc Thánh, ở Hội An, Quảng Nam và nhiều vị cao Tăng khác của Thiền phái Lâm Tế, ở Đàng trong.

Trong những biến động lịch sử của thời chúa Nguyễn Phúc Chu, các Thiền sư ở trong phái thiền Lâm Tế, có thể đã bị Chúa nghi ngờ, nên Chúa phải nhọc công tìm kiếm một phái thiền khác để ủng hộ mình, ấy là phái Thiền Tào ĐộngThạch Liêm Hòa Thượngtiêu biểu cho một trong những khuôn mặt sáng của Thiền học Trung Hoa bấy giờ.

Chính do nghi tâm của chúa Nguyễn Phúc Chu, đối với các Thiền sư phái Thiền Lâm Tế, khiến Chúa phải nhọc công, nhọc tâm tìm kiếm Tổ tông ở bên ngoài.

Nên, bài kệ thị tịch của Tổ sư Liễu Quán vừa có tính tác dụng giác tỉnh nội quán, để thể chứng pháp thân thường trú hay thể tính không, bất sinh, bất diệt, nơi tự tâmvạn hữu, đồng thời cảnh báo cho học trò và những thế hệ tiếp sau, đừng dong ruổi tìm cầu Thầy Tổ bên ngoài, mà luống uổng công phu tu tậpđồng thời cũng cảnh báo cho những người lãnh đạo xã hội đương thời, không nên biến Tổ tông trở thành một công cụ sắc thanh, danh tướng để phục vụ cho thời đại, mà cụ thểdanh tướng cho bản ngã của chính mình.

Tổ tôngbản thể rỗng lặng xưa nay, tại thánh không tăng, tại phàm không giảm, tại sinh không sinh, tại diệt không diệt, nghiễm nhiên độc lộ, rõ ràng như vậy mà không thấy, nên khi gặp Tổ Minh Hoằng – Tử Dung, Ngài Liễu Quán mới than: “Tảo tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thì = Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi”. Và trước đó gần cả ngàn năm, Tổ Huệ Năng đã từng than: “Nào ngờ đâu tự tánh vốn thanh tịnh, tự tánh vốn không sanh diệt, tự tánh vốn đầy đủ hết thảy thiện pháp, tự tánh vốn không lay động, tự tánh năng sanh vạn pháp…”.[2]

Như vậy, Kinh Kim Cang đến Tổ Liễu Quán, ta thấy nằm gọn ở trong câu kệ thị tịch của Ngài là “không không sắc sắc diệc dung thông” vậy.

Từ khi Tổ Thiệt Diệu – Liễu Quán viên tịch đến nay, đã trải dài 268 năm. Đạo mạch do Tổ quật khai, tâm tông do Tổ lãnh hội từ Ngài Minh Hoằng – Tử Dung và tuyên dương, ngày nay với dòng kệ Thật Tế Đại Đạo - Tánh Hải Thanh Trừng – Tâm Nguyên Quảng Nhuận – Đức Bổn Từ Phong… không những đã tỏa rộng khắp mọi miền đất nước mà còn tỏa rạng đến nhiều châu lục trên thế giới.

Đúng như lời Tổ dạy, trước khi viên tịch: “Kìa trời biếc lắng trong, trăng thu vằng vặc, toàn thân hiển lộ nơi sa giới đại thiên!”.

Nhân kỷ niệm lần thứ 268 năm, Tổ sư viên tịch, đệ tử chúng con thành kính dâng lên Tổ sư bài cảm niệm về hành tung và thi kệ thị tịch của Ngài với tất cả lòng thành kính.

Ngưỡng vọng Tổ sư phủ thùy chứng giám.

 Thích Thái Hòa

______

Chú thích:

[1] Đại Chính 8, tr 752b.

2 Pháp bảo Đàn Kinh, Đại Chính 48, tr 349a.

Tư liệu tham khảo:

-Liễu Quán Thụy Chánh GiácViên Ngộ Hòa thượng Bi Minh, Pháp điệt Thiện Kế Hòa Thượng soạn, Cảnh Hưng Cửu Niên, Tứ Nguyệt Nhật.

Lịch Truyện Tổ Đồ.

-Việt Nam Phật giáo sử lược – Thích Mật Thể.

-Việt Nam Phật giáo sử luận – Nguyễn Lang.

-Lịch sử Phật Giáo Đàng Trong – Nguyễn Hiền Đức.

-Lịch sử Phật Giáo Xứ Huế - Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8013)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35544)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19675)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11693)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23179)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13347)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5841)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10616)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10354)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10052)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20862)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6204)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6852)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8892)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6014)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18154)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6351)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6729)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6552)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13014)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5871)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7885)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10203)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7871)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9863)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9078)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5983)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24545)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36391)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7722)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11547)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10045)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5228)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5420)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10003)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7882)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9359)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8654)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46520)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6899)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12308)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5798)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14497)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12979)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12424)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14559)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12425)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10954)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9633)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16696)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8473)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5963)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9955)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6375)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11349)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7045)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46704)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13498)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8394)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6858)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9174)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6180)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6905)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17850)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18173)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15794)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6952)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31240)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9574)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7688)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21621)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34171)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33317)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14237)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35648)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13006)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15771)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13683)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33036)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26362)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41413)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40353)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20046)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33705)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29683)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33730)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18871)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22699)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22427)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49001)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11968)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11161)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22514)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18002)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15117)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22685)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16000)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13115)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19720)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12066)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant