Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 2

20 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 2633)
Phần 2


Du Tăng Cầu Pháp


Thích Hằng Ðạt

---o0o---


du_tang_cau_phap


 Phần 2

 

D. Trí Nghiêm, sang Tây Vực cầu pháp.

Trí Nghiêm vốn là người Lương Châu. Lương Châu là cửa ngõ giao lưu giữa nền văn hóa Trung Thổ và Thiên Trúc, Tây Vực, Trung Á. Do đó, Phật giáo được du nhập vào nơi ấy rất sớm. Các dịch gia như ngài Cưu Ma La Thập và Ðàm Vô Sấm đã từng trú nơi đó.

Thuở nhỏ Trí Nghiêm đã được thấm nhuần sự giáo hóa của Phật pháp. Năm hai mươi tuổi xuất gia, tinh cần tu tập thiền định, lại lập chí nguyện tầm cầu kinh điển. Do đó, Trí Nghiêm đăng lộ trình, sang Tây Vực cầu pháp. Ðến nước Kế Tân, gặp được thiền sư Phật Ðại Tiên mà thọ thiền pháp. Kế đến, Trí Nghiêm gặp được ngài Phật Ðà Bạt Ðà La, rồi cầu thỉnh sang Trung Thổ truyền pháp. Trí Nghiêm cùng với ngài Phật Ðà Bạt Ðà La đến Trường An, cư trú tại Trường An Ðại Tự. Vì bị giáo đoàn của ngài Cưu Ma La Thập đuổi xua, nên ngài Phật Ðà Bạt Ðà La phải rời Trường An mà đến Lô Sơn. Trí Nghiêm cũng vì đó mà qua trú tại một tịnh xá ở Sơn Ðông để tu tập thiền quán, cùng tụng kinh.

Năm 417, công phá Trường An xong, Lưu Tống Võ Ðế trở lại Kiến Khang mà đi ngang qua vùng Sơn Ðông. Bấy giờ Thủy Hưng Vương, Vương Khôi theo Tống Võ Ðế du ngoạn sơn thủy, chợt đến tịnh xá của Trí Nghiêm. Ông ta thấy trong chùa có ba vị tăng đang ngồi tham thiền trên giường thiền an nhiên tịch tĩnh. Vương Khôi đến gần mà ba vị tăng cũng không hay biết. Qua ba giờ sau, ba vị tăng mới mở mắt mà chẳng nói năng lời nào. Có một người trong vùng bảo Vương Khôi:

- Ba vị cao tăng này, đã bao năm dài xả tục, không rời khỏi rừng núi mà tu hành. Thật là những vị pháp sư đạo hạnh thanh cao.

Vương Khôi bèn đem lời này bẩm tấu cho Tống Võ Ðế nghe. Tống Võ Ðế bèn thỉnh cầu họ xuống núi để về kinh đô, nhưng bị họ từ chối. Sau ba lần được khẩn thỉnh, hai vị tăng kia thúc Trí Nghiêm xuống núi. Vì sùng tín Phật pháp thâm sâu, nên Vuơng Khôi bèn thỉnh Trí Nghiêm sang trú tại chùa Thủy Hưng. Lại nữa, tại nơi vắng lặng, Vương Khôi cho xây một tịnh xá, tên là Chỉ Viên. Trí Nghiêm bèn đến đó mà tịnh trụ tu hành thiền. Trí Nghiêm không thọ sự cúng dường mà thường cầm bình bát đi khất thực. Nhờ tu tập thiền định, nên Trí Nghiêmnăng lực thần dị, khống chế đươc yêu ma quỷ quái cùng trị bịnh cho dân chúng, nên được người người trong vùng tôn sùng. Mỗi khi được dường vật chi, Trí Nghiêm đều đem bố thí lại cho người khác. Trí Nghiêm tự tinh trì giới luật cẩn mật.

Trước khi xuất gia, Trí Nghiêm đã từng thọ năm giới, nhưng không giữ được trọn vẹn. Sau khi xuất gia thọ giới cụ túc, sợ giới hạnh không đủ, nên Trí Nghiêm thật hành thiền quán lâu dài, nhưng vẫn không mãn ý nguyện. Sau này Trí Nghiêm quyết tâm vượt biển đến Thiên Trúc. Nơi đó, gặp được một vị A La Hán, Trí Nghiêm bèn hỏi rằng mình có đủ giới hạnh không. Vị A La Hán kia không dám trả lời, mà nhập định, thăng lên cung trời Ðâu Suất để thỉnh vấn Bồ Tát Di Lặc phán đoán. Bồ Tát Di Lặc tán thán Trí Nghiêm tinh trì giới đức. Nghe vị A La Hán thuật lại lời này, Trí Nghiêm vui mừng vô hạn. Chẳg bao lâu Trí Nghiêm trở về đất Tàu, rồi vì già bịnh mà thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi. Chúng tăng y cứ theo lễ nghi của Thiên Trúcan táng một vị cao tăng. Mới đầu, tuy biết Trí Nghiêm khổ hạnh cần tu, nhưng chúng tăng không biết Thầy đã đắc đạo hay chưa, nên định xây phần mộ tại vùng đất thường an táng các phàm tăng. Song, tuy có nhiều người đồng khiêng linh cữu, nhưng di thể của Trí Nghiêm nặng vô cùng, nên không thể nâng lên nổi. Do đó, chúng tăng bèn cho đặt linh cữu tại vùng thường an táng các vị cao tăng đắc đạo. Lúc ấy, chỉ có bốn người mà khiêng được linh cữu. Di Thể của Trí Nghiêm chợt nhẹ nhàng như bong bóng. Việc này hiển thị công đức tu hành và nghiêm trì giới luật cẩn mật của Trí Nghiêm.

Theo ngài Phật Ðà Bạt Ðà La từ nước Kế Tân trở về bổn quốc, tuy đem theo rất nhiều kinh điển, nhưng Trí Nghiêm chưa phiên dịch bộ kinh nào. Ðến lúc trú tại chùa Chỉ Viên tại Kiến Khang vào năm 427, Trí Nghiêm mới cùng với Bảo Vân phiên dịch kinh: Phổ DIệu (6 quyển), Tứ Ðại Thiên Vương (1 quyển), Quảng Bác Nghiêm Tịnh (4 quyển), Pháp Hoa Tam Muội, Vô Tận Ý Bồ Tát.

E. Bảo Vân.

Theo gót chân của ngài Pháp HiểnTrí Nghiêm, Bảo Vân sang Thiên Trúc cầu pháp.

Xuất sanh tại Hà Bắc vào năm 376, và trưởng thành tại Lương Châu, Bảo Vân đi tu từ thuở niên thiếu, chuyên cần tận tụy hành trì Phật pháp, chẳng chạy theo phong tục tập quán của thế tục.

Năm mười tám tuổi (388), đến Lô Sơn, tham gia vào công tác xây Bác Nhã Ðài. Ðương thời, Bảo Vân mang một tảng đá lớn, đập vào tảng đá khác, khiến một hòn đá vụt bay ra, văng trúng vào đầu của một con nghé, nên con ghé đó liền chết ngay lập tức. Do đó, Bảo Vân hối hận vô ngần.

Năm 397, lúc ngài Pháp Hiển từ Trường An xuất phát, thì năm vị Bảo Vân, Trí Nghiêm, Huệ Giản, Tăng Thiệu, Tăng Cảnh đang lưu trú tại Trương Dịch cũng đồng chí hướng sang Thiên Trúc cầu pháp. Sau này, Bảo Vân đi qua những bãi sa mạc, vượt ngọn Tuyết Lãnh, rồi trải qua bao gian nan khổ cực, mà đến được Thiên Trúc, chu du các quốc vương lân cận, để lễ bái Phật tích, Phật tượngbình bát của Phật. Lúc Bảo Vân đang trú tại nước Phất Lầu Sa (Peshawar) thì Huệ Ðạt cùng Tăng Cảnh đã trở về bổn quốc. Ðến Thiên Trúc, Bảo Vân tận tâm học tiếng Phạn, nên thông đạt các ngôn ngữThiên Trúc. Vì thỉnh được một số kinh điển bằng tiếng Phạn, Bảo Vân quyết định trở về bổn quốc. Từ Thiên Trúc, sang Tây Vực, rồi trở về Trường An, Bảo Vân gặp được ngài Phật Ðà Bạt Ðà la bèn đi theotu hành thiền pháp cùng đọc tụng kinh điển. Bị giáo đoàn của ngài Cưu Ma La Thập bài xích, nên ngài Phật Ðà Bạt Ðà La phải qua Lô Sơn. Bảo Vân cùng Trí Nghiêm cũng đi theo đến Lô Sơn. Lúc ngài Phật Ðà Bạt Ðà La đến trú tại chùa Ðạo Tràng ở Kiến Khang, Bảo Vân cũng đi theo và khởi công phiên dịch kinh điển.

Bảo Vân vốn thích những cảnh yên tịnh an nhàn u tịch. Lần nọ, đi ngang qua Sơn Tự ở núi Lục Hòa, Bảo Vân dịch được quyển 'Phật Sở Hạnh Tán'. Trên núi có rất nhiều bọn côn đồ du đãng tụ hội, thường làm những việc ti tiện bất lương. Nhờ sự giáo hóa của Bảo Vân, chúng đều bỏ tà quy chánh.Trong mười gia đình trên núi, có tám gia đình luôn qua lại cúng dường Bảo Vân.

Trước lúc lâm chung, Huệ Quán có để lại di chúc là cầu thỉnh Bảo Vân trở về chùa Ðạo Tràng để lo việc Phật sự. Bất đắc dĩ, Bảo Vân phải trở lại chùa Ðạo Tràng ở Kiến Khang. Hơn một năm sau, Bảo Vân bèn trở lại núi Lục Hòa. Năm 449, Bảo Vân thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi.

Khả năng phiên dịch kinh điển của Bảo Vân có thể sánh ngang hàng với Trúc Phật Niệm. Quyển 'Cao Tăng Truyện' viết:" Vùng Giang Tả, phiên dịch kinh điển tiếng Phạn, không ai vượt nổi Bảo Vân."

Do đó, thấy rõ Bảo Vân vốn là một nhà dịch giả cự phách. Bảo Vân dịch được kinh Phật Sở Hạnh Tán, kinh Tân Vô Lượng Thọ, Kinh Phật Bổn Hạnh.

G. Trí Mãnh, tham bái Phật tích.

Khoảng năm năm sau khi ngài Pháp Hiển từ Trường An khởi hành sang Thiên Trúc cầu pháp, Trí Mãnh cũng theo gót chân mà khởi đăng trình vào năm 404 từ Trường An. Ðầu tiên, ngài Pháp Hiển có bốn pháp lữ đồng hành, còn Trí Mãnh lại có mười lăm pháp lữ đồng hành. Ngài Pháp Hiển đi du hành cầu pháp mười lăm năm. Trong nhóm mười sáu người, chỉ có Trí Mãnh và Ðàm Soạn là trở về Lương Châu sau hai mươi hai năm du hành.

Trí Mãnh vốn là người huyện Tân Phong, quận Kinh Triệu, ở Ung Châu, xuất gia từ thuở nhỏ, chí chuyên tâm tu hành. Mỗi lần nghe đạo nhân ngoại quốc kể về các thánh tích của Phật Thích Ca tại Thiên Trúc, cùng kinh điển đại thừa tại Tây Vực, Trí Mãnh đều nôn nóng sang những nơi đó.

Năm 404, cùng với mười lăm vị pháp lữ, Trí Mãnh xuất phát từ Trường An, hướng về phía Thiên Trúc. Lúc đó, ngài Cưu Ma La Thập đã vào Trường An được ba năm, và danh tiếng đã vang lừng khắp nơi. Ðấy là thời điểm mà sự nghiệp phiên dịch kinh điển của ngài Cưu Ma La Thập được tổ chức đại quy mô, do vua Dao Hưng bảo trợ với hơn ba ngàn tăng chúng hỗ trợ. Song, ngài Cưu Ma La Thập xuất thân từ nước Quy Từ. Vì muốn hiểu rõ hiện tình Phật giáoThiên Trúc vào thời đó, và lễ bái các thánh tích của đức Thế Tôn, nên Trí Mãnh mới quyết tâm sang Thiên Trúc.

Trí Mãnh không theo tuyến đường mà ngài Pháp Hiển đã đi. Xuất phát từ Lương Châu, ra khỏi Dương Quan, vượt qua các bãi sa mạc. Trạng huống của đường lộ vào đương thời, được miêu tả như sau: "Ðất không có nước hay cây cỏ, đường đi tuyệt dấu chân người, mùa đông lạnh rét, mùa hè nóng oi ả, xuơng của người chết, làm dấu trên đường đi, lạc đà chở lương thực, lộ trình thật gian nan."

Từ đường lộ ở Thiện Thiện, Trí Mãnh đi thẳng đến núi Thủ Thiên, phía nam nước Quy Từ, rồi trở lại phía tây nam vượt bãi sa mạc. Vượt đường lộ phía nam của nước Vu Ðiền ở Tây Vực. Ðây là con đường mà năm năm trước ngài Pháp Hiển đã vượt qua, và cũng là con lộ chủ yếu của xứ Tây Vực vào đầu thế kỷ thứ năm. Tu nước Vu Ðiền, Trí Mãnh đi thẳng đến nước Kiệt Xoa (Tashkurgan), và tới nơi tảng đá thờ ống nhổ của Phật, rồi lại tham bái bình bát của Phật. Trí Mãnh thành tâm dâng hương khấn nguyện:

- Chí hướng của con nếu cảm ứng được bình bát, thì xin nguyện bình bát hãy có lúc nặng có lúc nhẹ.

Nói xong, Trí Mãnh bèn bưng bình bát lên, nhưng cảm giác thật là nặng nề. Song, lúc sắp bỏ xuống thì Trí Mãnh cảm giác bình bát thật nhẹ nhàng. Ðây chính là bình bátngài Cưu Ma La Thập cũng đã từng thử nghiệm qua.

Ðến nước Kiệt Xoa chẳng bao lâu, Trí Mãnh bèn vượt qua ngọn núi Thông Lĩnh. Trong đoàn mười sáu người, đã có chín người bỏ ý định sang Thiên Trúc, mà xoay trở về bổn quốc vì khiếp sợ trước hình thế cao chót vót của ngọn núi Thông Lĩnh. Bảy người còn lại tiếp tục đến được nước Ba Lộ. Trên đường đi ngang qua nước Ba Lộ, Trúc Ðạo Sung thị tịch. Lúc định làm lễ trà tỳ, thì đột nhiên họ không thấy thi thể của Trúc Ðạo sung. Trí Mãnh rơi lệ xót xa, rồi lại cố gắng cùng đồng bạn tiếp tục vượt núi Tuyết Sơn. Núi cao sừng sửng, trên không thấy trời, dưới không thấy đất, gió hàn lạnh rét. Họ phải lần theo những sườn núi mà đi. Vào đời Hán, sứ giả Trương Khiên (140 tr.TL-87 tr.TL) và Cam Anh (89-105) chưa từng vượt qua vùng núi cao chót vót này. Chẳng bao lâu, Trí Mãnh vượt qua sông Tân Ðầu (Indus), rồi phải leo qua những núi non hiểm trở, cùng đi ngang qua những vùng danh lam chướng khí, rồi đến nước Kế Tân. Trong nước đó tại A Nậu Bạt Trì (Anavatapta), tức mạch nguồn của dòng sông Tân Ðầu, có năm trăm vị A la Hán thường qua lại. Chư đại đức A La Hán thường thuyết pháp bằng tiếng Phạn. Nhờ lưu trú lại nước Kế Tân lâu ngày, nên Trí Mãnh từ từ hiểu rõ những lời dạy của các vị A La Hán. Từ nước Kế Tân, Trí Mãnh đi thẳng đến nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), được thấy tóc, răng, đảnh nhục kế của Phật. Trí Mãnh lại qua trung Thiên Trúc, lễ bái các thánh tích, cùng triều bái rừng Sa La Song Thọ, (nơi Phật nhập niết bàn), cội Bồ Ðề, v.v... Trí Mãnh lại đến Hoa Thị Thành, tức cố đô của vua A Dục. Nơi đó, có đại trí bà la môn La Duyệt Gia, toàn gia tộc đều hoằng dương Phật pháp. Tại đó lại có tháp Phật bằng bạc, cao ba mươi thước. Ngài Pháp Hiển đã từng thỉnh được sáu quyển kinh Niết Bàn tại nơi này. Gia tộc La Duyệt thấy Trí Mãnh đến bèn hỏi:

- Ðất Tàu có người học Phật giáo đại thừa chăng?

Trí Mãnh đáp:

- Tất cả đều theo học đại thừa giáo.

- Thật là điều bất khả tư nghì. Sao lại không có Bồ Tát sang bên đó giáo hóa!

Tại nhà gia tộc La Duyệt, Trí Mãnh thỉnh được một bản kinh Niết BànMa Ha Tăng Kỳ Luật bằng tiếng Phạn, rồi thệ nguyện rằng sẽ lưu hành kinh luật khắp miền Trung Thổ.

Chẳng bao lâu, vào năm 424, từ Thiên Trúc xuất phát, Trí Mãnh cùng Ðàm Soạn trở về Lương Châu. Bốn vị pháp lữ lần lượt thị tịch trên đường đi.

Mục đích của ngài Pháp Hiển sang Thiên Trúc là muốn tìm cầu kinh luật cho tăng đoàn ở đất Tàu. Mục đích của Trí Mãnh sang Thiên Trúc là đi lễ bái các thánh tích của Phật Thích Ca. Do đó, sau khi mãn nguyện đi khắp bắc Thiên Trúctrung Thiên Trúc, Trí Mãnh trở về cố quốc, xuyên qua tuyến đường của Tây Vực.

Năm 421, ngài Ðàm Vô Sấm đã dịch kinh Niết Bàn tại Lương Châu, nhưng vẫn còn thiếu phần cuối. Thế nên, ngài Ðàm Vô Sấm định trở qua Tây Vực để thỉnh phần cuối của kinh Niết Bàn, nhưng lại bị Mông Tốn sát hại. Sau này, nghe Trí Mãnh mang toàn bộ kinh Niết Bàn về đến Cao Xương (Turfan), Mông Tốn bèn phái sứ giả sang đó rước về Lương Châu. Nơi đó, Trí Mãnh dịch được hai mươi quyển kinh Niết Bàn, cùng một bộ Ma Ha Tăng Kỳ Luật.

Từ Luơng Châu, Trí Mãnh sang đất Thục vào năm 437. Mồng bảy tháng bảy năm 439 tại chùa Ðịnh Lâm ở núi Chung Sơn, Trí Mãnh soạn viết quyển truyện ký về Thiên Trúc tức quyển 'Du Hành Ngoại Quốc Truyện'. Năm 453, Trí Mãnh thị tịch.

H. Pháp Dũng vượt ngọn Thông Lĩnh.

Pháp Dũng tục danh Quý, là người nước Hoàng Long ở U Châu, xuất sanh tại Bắc Yên, xuất gia từ thuở nhỏ, chuyên cần nghiêm trì giới luật cùng đọc tụng kinh điển. Nghe ngài Pháp Hiển, Bảo Vân, Trí Mãnh,v.v... đã từng qua Thiên Trúc, nên Pháp Dũng cũng thệ nguyện xả thân sang Thiên Trúc cầu pháp. Năm 420, Pháp Dũng cùng với hai mươi lăm pháp lữ như Tăng Mãnh, Ðàm Lãng, v.v... xuất phát từ U Châu, đi về hướng nam, qua quận Hà Nam, đén quận Hải Tây, theo sông Trường Giang, đến Thành Ðô ở Tứ Xuyên, tới Cam Túc, sang Yên Tuyền, tới Thiên Sơn ở nam lộ, qua Cao Xương, đến nước Quy Từ, tới nước Sa Lặc, vượt ngọn Thông Lĩnh, leo núi Tuyết Sơn. Trải qua bao hiểm nguy gian khổ, vượt qua núi Tuyết Sơn xong, trong số hai mươi sáu người, chỉ còn lại mười hai người tiếp tục cuộc hành trình. Chẳng bao lâu, Pháp Dũng đến nước Kế Tân, rồi trú ở đó hơn một năm để học tiếng Phạn. Nơi đó, Pháp Dũng thỉnh được quyển kinh 'Quán Thế Âm Thọ Ký' bằng tiếng Phạn, cùng lễ bái bình bát của Phật. Tiếp tục đi về hướng tây, Pháp Dũng vượt qua sông Tân Ðầu Na Ðề (Sindha-nadi), rồi vào biên cảnh nước Ðại Nhục Chi, lễ bái đảnh nhục kế cùng Phật đảnh cốt. Từ từ, Pháp Mãnh đến chùa Thạch Lưu, phía nam núi Ðàn Ðặc (Dandakaparvata). Trong chùa có hơn ba trăm vị tăng, đều học theo giáo pháp ba thừa. Tại đó, Pháp Mãnh phát tâm thọ giới cụ túc. Lúc đang hành lễ truyền giới, sa môn người Thiên Trúc là Phật Ðà Ða La (Buddhatara) bảo chúng tăng:

- Pháp Mãnh đã chứng thánh quả.

Song, Pháp Mãnh vẫn thỉnh cầu chư tăng truyền giới cụ túc. Thọ giới xong, Pháp Mãnh trú tại chùa Thạch Lưu để an cư kiết hạ trong ba tháng. Từ đó, Pháp Mãnh sang trung Thiên Trúc. Trên đường, dùng thạch mật mà làm thức ăn. Trong mười ba người đồng hành, có tám người đã chết trên dọc đường. Tiếp tục đi, cuối cùng chỉ còn năm người. Mỗi lần gặp những tai nạn nguy hiểm, Pháp Mãnh đều thành tâm tụng kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Ký. Lúc qua nước Xá Vệ (Sravasti), trên đường gặp một đàn voi rừng, Pháp Mãnh khẩn thành niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mà được thoát nạn. Từ trung Thiên Trúc, Pháp Mãnh đi về nam Thiên Trúc, rồi theo thuyền trở về Quảng Châu, rồi từ đó, không ai biết Pháp Mãnh thị tịch tại nơi đâu.

Pháp Mãnh có dịch quyển kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Ký, cùng soạn viết năm quyển 'Ngoại quốc truyện'.

I. An Dương Hầu.

Mông Tốn (vua nước Bắc Lương) có một người em, tên là An Dương Hầu. Ông ta tụng đọc rất nhiều kinh điển, và thường giữ năm giới cẩn mật. Vì có chí cầu pháp, nên Ông sang nước Vu Ðiền, đến chùa Cù Ma Ðế Ðại Tự, theo học với sa môn Phật Ðà Tư Na (Buddhasena) người Thiên Trúc. Sau này, Ông đến nước Cao Xương, thỉnh được kinh Quán Thế Âm và Quán Di Lặc, rồi phiên dịch hai quyển kinh này. Sau này, Ông trở về Lương Châu. Năm 439, lúc Bắc Ngụy công phá Lương Châu, Ông lánh nạn sang miền Giang Nam, và không giao tiếp với ai, chỉ thường đi tham quan các cảnh chùa chiền tự tháp. Thể theo lời cầu thỉnh của sư cô Huệ Tuấn ở chùa Trúc Viên, Ông dịch kinh Thiền Yếu Bí Mật Trị Bệnh, vào năm 455. Vì thông thạo tiếng Phạn và tiếng Tàu, nên Ông dịch rất nhiều kinh như: Phật Thuyết Bát Trai Giới, Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Ðâu Suất Thiên, Phật Thuyết Tịnh Phạn Vương Bát Niết Bàn, Phật Thuyết Mạt La Vương, Phật Thuyết Chiên Ðà Việt Quốc Vương, Phật Thuyết Ma Ðạt Quốc Vương, Phật Thuyết Phật Ðại Tăng Ðại Kinh, Phật Thuyết Da Kỳ, Phật Thuyết Ngũ Vô Phản Phục, Phật Thuyết Tấn Học, Ðệ Tử Tử Phục Sanh, Phật Thuyết Ca Diếp Cấm Giới, Phật Thuyết Ngũ Khủng Bố Thế, Thiền Yếu Bí Mật Trị Bịnh.

K. Khương Pháp Lãng.

Thầy vốn là người ở Trung Sơn, xuất gia từ thuở nhỏ, giới tiết tinh nghiêm. Lần nọ, xem kinh, thấy cảnh rừng Ta La Song Thọvườn Lộc Uyển, Thầy than:

- Ta sanh ra không gặp được thánh nhân, sao lại chẳng sang chiêm bái thánh tích?

Do đó, Thầy thệ nguyện sang Thiên Trúc để chiêm bái các thánh tích. Kế đến, Thầy đồng hành với bốn pháp lữ, xuất phát từ Trường Dịch, đi về phía tây, tới các bãi sa mạc. Ði cả ba ngày mà trên đường lộ, họ chẳng thấy một dấu chân người. Giữa đường, họ thấy một ngôi chùa, xây cất bên dưới một ốc đảo, xung quanh chẳng có cỏ cây. Trong chùa có hai gian phòng. Gian phòng thứ nhất có một thầy đang tụng kinh. Gian phòng thứ hai có một vị tăng đang bị bịnh, thân hình hôi thúi, lở loét. Thấy vậy Thầy tự nhủ thầm:

- Xuất gia đồng đạo, thân nhau vì pháp. Thà không thấy, mà đã thấy rồi sao nhẫn tâm không giúp đỡ!

Suy nghĩ như thế, nên Thầy tự ở lại chăm sóc, tắm rửa, thay quần áo nấu cơm nước, lo lắng tươm tất cho vị tăng bị bịnh trong sáu ngày. Qua ngày thứ bảy thì trong phòng chợt có mùi hương lạ tỏa khắp. Thầy mới biết đó là thần tăng hóa thân bị bịnh lở loét để thử tâm từ bi nhẫn nại của mình. Vị thần tăng đó bảo:

- Vị tăng đang tụng kinh bên phòng kia chính là thầy bổn sư của ta. Ngài đã chứng quả vị vô học (tức quả vị A La Hán). Thầy nên sang bên đó mà thỉnh vấn hỏi đạo.

Nghe lời này, Thầy bèn đi sang bên đó để cầu thỉnh đạo. Vị tăng thường tụng kinh kia bảo:

- Người có tâm chân thành thì dễ dàng nhập vào đạo, mà không cần phải đi sang tạn các nước khác để cầu đạo.

công nghiệp chưa thành và chưa toại ý nguyện, nên Thầy quyết chí tiếp tục lên đường sang Thiên Trúc cầu pháp. Bốn người pháp lữ đồng hành thối tâm, không dám đi xa, mà chỉ lưu lại nơi đó để chuyên tu tịnh nghiệp.

Sau bao năm lặn lội qua Thiên Trúc cầu thỉnh kinh điển, Thầy trở về lại Trung Sơn, giáo hóa hằng trăm môn đồ. Không ai biết Thầy thị tịch vào lúc nào.

L. Tăng Duệ.

Tăng Duệ người Trường Lạc ở Ngụy Quận, xuất gia từ thuở nhỏ. Năm mười tám tuổi làm đệ tử của pháp sư Tăng Hiền.Năm hai mươi hai tuổi bác thông kinh luận. Lúc Tăng Lãng giảng kinh Phóng Quang, Tăng Duệ thường đề cử những câu hỏi để chất vấn và phê bình. Do lý do này mà Tăng Lãng và Tăng Hiền kết tình pháp hữu. Tăng Lãng bảo Tăng Hiền:

- Tăng Duệ, đồ đệ của sư huynh, thật là thông minh!

Năm hai mươi bốn tuổi, xuất ngoại du phương cầu đạo. Khi đến vùng biên giới Tây Thục thì bị người bắt, và cưỡng ép đi chăn dê. Thương nhân thấy dáng dấp, nghi là sa môn, nên hỏi vấn ý nghĩa kinh điển. Từ Tây Thục, Tăng Duệ đến Vân Nam, qua Giao Chỉ (Việt Nam), rồi tiếp xúc với thương nhân mà theo họ đến nam Thiên Trúc. Nhờ vậy mà khả năng tri thức về tiếng Phạn rất kiệt xuất. Ðến năm hai mươi bảy tuổi thì kết thúc cuộc sống du phương.

Năm hai mươi tám tuổi, Tăng Duệ đã từng đến dưới tòa của Ðạo An tại Trường An, và giúp Ðạo An nhuận bút bản dịch kinh Tứ A Hàm. Năm ba mươi ba tuổi, lúc nhà Tiền Tần bị diệt vong, cùng với sự nhập tịch của Ðạo An, Tăng Duệ lánh nạn vào núi Lô Sơn, học phương pháp niệm Phật dưới tòa của Huệ Viễn.

Vào Lô Sơn chẳng bao lâu, nghe ngài Cưu Ma La Thập đã đến Trường An, nên Tăng Duệ tức tốc tìm đến cầu đạo. Tại Trường An, do Tăng Duệ cầu thỉnh, ngài Cưu Ma La Thập dịch quyển 'Thiền Pháp Yếu'. Nhân cách Tăng Duệ cao tột, và kiến thức thâm sâu, khiến vua Dao Hưng cùng Dao Sùng phải tôn kính. Dao Sùng khen Tăng Duệ là bậc tùng bá của Nghiệp Vệ (vùng đất Ngụy Huyện, nơi Tăng Duệ xuất thân), còn vua Dao Hưng tôn xưng Tăng Duệ là vị thủ lãnh, và là ngọn cờ tiêu biểu của bốn bể. Lúc ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch kinh Pháp Hoa, Tăng Duệ nhuận sắc, trau chuốt lời văn hoa mỹ.

Sau khi phiên dịch xong quyển 'Thành Thật Luận, ngài Cưu Ma La Thập bảo Tăng Duệ:

- Luận này có bảy chỗ để bẻ gãy lời văn Tỳ Ðàm, mà chỉ tại nơi văn luận phân biệt không rõ ràng. Nếu không cần hỏi Ta, mà có khả năng phân biện bảy chỗ đó, thì mới gọi là anh tài!

Tăng Duệ không chút nghi ngờ, đề xuất ra bảy chỗ đó rất dễ dàng, khiến ngài Cưu Ma La Thập khen ngợi:

- Ta chuyên dịch kinh điển, được ngươi lãnh hội hiểu rõ. Thật không hối hận!

Tăng Duệ viết rất nhiều kinh tự của các bộ kinh luận do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch, như: Tiểu Phẩm Kinh Tự (thứ tư), Pháp Hoa Kinh Hậu Tự (thứ chín), Tư-ích Kinh Tự (thứ mười một), Tỳ Ma La Cật Ðề Kinh Nghĩa Sơ Tự (thứ mười bốn), Tự tại Vương Kinh Hậu Tự (thứ mười lăm), Quan Trung Xuất Thiền Kinh Tự (thứ mười ba).

Sau khi ngài Cưu Ma La Thập nhập tịch, Tăng Duệ từ từ hướng về pháp môn cầu vãng sanh qua cõi tây phương. Ðến cuối đời Hậu Tần, do thế đạo loạn ly, Tăng Duệ sang Giang Nam lánh nạn, lại theo học dưới tòa của Huệ Viễn tại Lô Sơn. Năm 416, Huệ Viễn nhập tịch, Tăng Duệ không nhắm mục tiêu trú lại Lô Sơn, mà lại qua kinh đô Kiến Nghiệp ở Giang Nam, trụ trì chùa Ðiểu Y. Vào năm 420, lúc gần bảy mươi tuổi, Tăng Duệ thường giảng kinh thuyết pháp. Vua Nghị Khang ở Bành Thành ba lần khẩn thỉnh, Tăng Duệ mới nhận làm đồ đệ. Ðáp lời cầu thỉnh của Tạ Linh Vận, Tăng Duệ viết quyển 'Thập Tứ Âm Huấn' để minh hiển sự đồng dị giữa tiếng Phạn và tiếng Tàu. Lúc ấy, Tăng Duệ cũng trước tác quyển 'Dụ Nghi'.

Từ khi qua Lô Sơn, Tăng Duệ đã từng ước vọng vãng sanh qua cõi Tây Phương. Khi tự biết tánh mạng sắp tận, bèn vân tập đồ chúng, bảo:

- Bình sanh Ta thường thệ nguyện vãng sanh Tây Phương. Tự nghĩ ba nghiệp thân khẩu ý, chẳng bao giờ trái ngược với giới luật, nên nhất định sẽ được vãng sanh, chẳng có chút nghi ngờ. Nguyện đức đại từ (Phật A Di Ðà), rũ lòng thương xót, khiến muôn kiếp vì pháp, mà vãng sanh qua cõi Tây Phương!

Nói xong, bèn vào tăng phòng, đi tắm gội, rồi dâng hương lễ bái, chắp tay hướng về tây phươngthị tịch. Ngày đó, trong tăng phòng của Tăng Duệ, có mây hương năm màu đột nhiên bay lên. Bấy giờ là năm 433; hưởng thọ tám mươi lăm tuổi.

Tư tưởng của Tăng Duệ được biểu hiện rõ ràng nhất qua quyển 'Dụ Nghi'. Lúc làm môn hạ của ngài Cưu Ma La Thập tại Trường An, Tăng Duệ đã từng học tập nghĩa lý tinh túy của kinh Bát NhãPháp Hoa. Ở tại Giang Nam, gặp quyển kinh Ðại Bát Nê Hoàn do ngài Pháp Hiển từ Tây Vực mang về, Tăng Duệ bèn nghiên cứu, so sánh sự quan hệ của ba bộ kinh Bát Nhã, Pháp HoaNê Hoàn, rồi viết thành bộ luận 'Dụ Nghi' để đối đáp với những nghi vấn của các nhân sĩ. Ngoài ra, Trúc Pháp Ðộ do tín phụng giáo nghĩa tiểu thừa, nên thường bài bác những kinh điển đại thừa do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch. Huệ Ðạo và Ðàm Lạc chất vấn và phỉ báng kinh điển đại thừa như kinh Ðại Phẩm Bát Nhã, kinh Pháp Hoa, v.v..., nên tại Trường An, phạm vô số tội, khiến bị đại chúng chỉ trích. Do phỉ báng kinh Niết Bàn tại Trường AnBành Thành, nên lưỡi của Tăng Uyên bị cháy tiêu, mà nhận ra đó là quả báo của sự phỉ báng kinh điển. Tăng Uyên vốn theo Tăng Sùng học Thành Thật Luận và Tỳ Ðàm, mà trở thành học giả của luận Thành Thật.

Thấy những sự bài báng kinh điển đại thừa, Tăng Duệ đau xót vô ngần. Hầu mong phò chánh dẹp tà, nên Tăng Duệ mới viết ra quyển luận 'Dụ Nghi' để xiển minh nghĩa lý của kinh Bát Nhã, Pháp HoaNê Hoàn (tức Niết Bàn), mà đặc biệt chú trọng nhắm về kinh Nê Hoàn.

Vào thời ngài Cưu Ma La Thập, kinh Nê Hoàn chưa được phiên dịch, mà chỉ có kinh Pháp Thân, thuyết rõ bao loại pháp thân của chư Phật. Ngài Cưu Ma La Thập bảo rằng chúng sanh nghe Phật thuyết là có chân ngã, và tất cả đều có Phật tánh, thì là đã đầy đủ lắm rồi!

Kinh Pháp Hoa chủ trương là thấy Phật tri kiến thì đều thành Phật, mà chưa chưa hiển thị lý tất cả chúng sanh sẽ thành Phật.

Kinh Ðại Bát Nê Hoàn do ngài Pháp Hiển mang từ Thiên Trúc về đến Dương Ðô, rồi vân tập hơn một trăm chư sa môn đại đức nghĩa họcphiên dịch. Kinh Nê Hoàn mang giáo nghĩa mới đến cho Phật giáo Trung Quốc: Phật tánh của tất cả chúng sanh đều tồn tại, hay tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ðiều này, kinh Pháp Hoa chưa từng thuyết rõ ràng. Tăng Duệ chủ trương pháp thân trong kinh Pháp Thân tương đương với Phật tánh của kinh Nê Hoàn, mà viết ra quyển 'Dụ Nghi'. Ðối với sự phán xét trạch quyết về giáo tướng, bộ luận này có địa vị quan trọng trong sử Phật giáo Trung Quốc.

M. Ðạo Thái.

Ðạo Thái vốn là sa môn người Tây Lương. Lúc trẻ đã từng vượt ngọn thông Lĩnh, đi chu du khắp các nước, và thỉnh được bộ Tỳ Bà Sa, có một trăm ngàn câu kệ, rồi quày trở về Cô Tạng. Khi sa môn Phù Ðà Bạt Ma đến Lương Châu vào năm 437, Ðạo Thái bèn cung thỉnh vị tăng đó phiên dịch quyển luận này. Quyển Tỳ Bà Sa được du nhập vào đất Tàu, thật do công của Ðạo Thái.

N. Ðàm Học và Oai Ðức.

Hai thầy vốn là người Hà Tây, sang Thiên Trúc cầu thỉnh kinh điển vào cuối đời Ðông Tấn. Lúc đến nước Vu Ðiền, hai thầy chợt gặp đại hội Bàn Giá Vượt Xa (tức Ðại pháp hội Vô Giá trong năm năm-Pancha-parisad) mà các vị du tăng thường nhắc đến (xin xem ở phần trên, truyện du hành của ngài Pháp Hiển). Sau này, hai thầy trở lại Cao Xương, sao chép kinh Hiền Ngu, rồi cùng nhau phiên dịch.

O. Ðạo Phổ.

Thầy vốn là người nước Cao Xương. Thầy thường đi chu du khắp các nước ở Tây Vức và Thiên Trúc, cúng dường chiêm bái đảnh lễ Phật Ảnh Quật (hang có bóng hình của đức Phật), bình bát của Phật, bốn đại tháp thờ xá lợi Phật, cây Bồ Ðề, cùng tất cả thánh tích khác. Thầy giởi về tiếng Phạn và thông thạo ngôn ngữ của các nước tại Tây Vức. Năm 433, ngài Ðàm Vô Sấm vừa bị Mông Tốn giết hại (xin xem truyện Thần Tăng Thiên Trúc). Thầy mang kinh điển về đến Kiến Nghiệp. Tại chùa Ðạo Tràng, Huệ Quán vì muốn tầm cầu phần sau của kinh Niết Bàn, nên dâng sớ xin vua Tống Văn Ðế cấp lương thực cho thầy Ðạo Phổ sang Tây Vực cầu kinh điển. Ðược nhà vua chấp thuận, Ðạo Phổ dẫn đoàn sứ giả hơn mười người lên đường sang Thiên Trúc bằng đường biển. Thuyền vừa đến Trường Quận ở Thanh Châu thì bị sóng đánh tan vỡ. Ðạo Phổ cũng bị thương nơi bàn chân, rồi từ từ cảm bịnh mà thị tịch. Thật là một vị hy sinh thân mạng của mình cho đạo pháp. Trước khi nhập tịch, Ðạo Phổ nói:

- Ðất Tống thật chưa có duyên với phần sau của kinh Niết Bàn.

P. Huệ Lãm.

Thầy Huệ Lãm, tên tục là Thành, người Tửu Tuyền, chu du sang Tây Vực, đảnh lễ bình bát của Phật. Tại nước Kế Tân, Thầy gặp sa môn Ðạt Ma truyền trao cho giới phápthiền pháp bí yếu. Sa môn Ðạt Ma cũng sang truyền giới pháp cho chư tăng ở nước Vu Ðiền. Sau này, thầy Huệ Lãm trở về cố quốc, và thị tịch vào đời Tống Ðại Minh (457-465).

Q. Mười vị thầy của Bắc Tề (549-577) như Bảo Xiêm, Tăng Oai, Pháp Bảo, Trí Chiêu, Tăng Luật, v.v...

Họ tương kết đồng hành sang Tây Vực tìm cầu kinh điển. Trong bảy năm, họ thỉnh được 260 quyển kinh. Khi về đến nước Ðột Quyết thì nhà Tề đã bị diệt vong. Lúc ấy, gặp được sa môn bắc Thiên TrúcXà Na Quật Ða, họ bèn cầu thỉnh giảng kinh cùng phiên dịch danh đề của các bộ kinh. Sau này, họ đem kinh về Kinh Ấp. Nhà vua ra sắc lịnh cho các vị tăng khác phiên dịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1202)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1515)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 2097)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5855)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3667)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4900)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4637)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6824)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18317)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3903)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 2989)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5666)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9168)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2632)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6853)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3264)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 5961)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 4015)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5516)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18433)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6401)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5865)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3542)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2519)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13664)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5397)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2741)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 4008)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4560)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3951)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2645)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4397)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3349)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4728)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7654)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3460)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3787)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3468)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7662)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12647)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16252)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4565)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52760)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8692)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16140)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4078)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3812)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8701)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4037)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12714)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12546)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17268)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7233)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5922)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7280)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8428)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5354)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6729)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8769)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5442)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6492)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4720)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14189)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5629)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5773)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9961)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8794)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7248)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35180)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5539)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10681)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13159)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7679)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17863)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6636)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19950)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13506)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16287)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 27085)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 28977)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10899)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7645)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7096)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10205)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10231)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8090)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8134)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6899)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10055)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20904)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24250)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15321)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8233)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18828)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16680)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10940)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7356)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7940)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14329)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant