Du Tăng Cầu Pháp
Thích Hằng Ðạt
---o0o---
Phần 3
R. Nghĩa Tịnh.
Tên tự của Thầy là Văn Minh, họ Trương, người Phạm Dương. Lúc còn nhỏ đã
từ biệt song thân mà xuất gia. Thầy đi khắp nơi để tầm sư học đạo. Do đó, Thầy
thông suốt các sách luận thế tục và nội điển. Năm mười lăm tuổi, vì ngưỡng mộ
cao phong của ngài Pháp Hiển và Huyền Trang, nên ước muốn sang Tây Vực cầu
pháp.
Niên hiệu Hàm Hanh thứ hai (671), lúc ba mươi bảy tuổi, Thầy đến Phiên
Ngu, cùng đồng kết giao với hơn mười pháp lữ để đi cầu pháp. Song, vừa lúc lên
thuyền thì tất cả pháp lữ đều thối tâm. Vì vậy, đơn độc một mình Thầy sang Tây
Vực cầu pháp. Thầy đi chiêm ngưỡng lễ bái hết các thánh tích, qua hơn ba mươi
nước. Mười năm trú tại tu viện Na Lan Ðà, Thầy nghiên cứu tu học luật tạng, y
dược, và tiếng Phạn. Thầy gom góp thỉnh được khoảng bốn trăm bộ kinh và mang
trở về cố quốc. Mang kinh điển đến nước Bà Lỗ Sư (Srivijaya), Thầy trú lại đó
trong bốn năm để phiên dịch. Năm 689, ra thương cảng để định gởi thơ, tình cờ
Thầy lên thuyền trở về bổn quốc ngoài ý muốn. Tất cả kinh điển và những bản
phiên dịch đều để lại nước Bà Lỗ Sư (Srivijaya). Vì vậy, vừa về cố quốc, Thầy
liền trở lại nơi đó trong cùng năm, và ở nước đó thêm năm năm. Vào mùa hè, niên
hiệu Chứng Thánh nguyên niên (695), Thầy mang bốn trăm bộ kinh luật luận cùng
năm trăm ngàn câu kệ bằng tiếng Phạn, một bức tranh chân dung tượng Phật tại
Kim Cang Tòa, và ba trăm (?) hột xá lợi, trở về kinh đô. Thiên Hậu đích thân ra
cửa thành phía đông mà ngưỡng thỉnh. Chư tăng trong các chùa chiền tại kinh
thành đều sắp theo đội ngũ mà mang tràng phan bảo cái, cùng trống nhạc mà cung
nghinh. Thiên Hậu ban sắc cho Thầy trú tại chùa Phật Thọ Ký.
Ðầu tiên, Thầy cùng với tam tạng pháp sư Thật Xoa Nan Ðề (người nước Vu
Ðiền) phiên dịch kinh Hoa Nghiêm. Sau này, tại chùa Phước Tiên ở Trường An,
chùa Tây Minh ở Ủng Kinh, v.v... Thầy tự phiên dịch kinh Kim Quang Minh Tối
Thắng Vương, Năng Ðoạn Kim Cang Bát Nhã, Di Lặc Thành Phật, Nhất Tự Chú Vương,
Trang Nghiêm Vương Ðà La Ni, Trường Trảo Phạm Chí, Căn Bổn Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ
Nại Da, Ni Ðà Da Mục Ðắc Ca, một trăm luật Yết Ma Nhiếp, các luận về Lục Môn
Giáo Thọ, các kệ tụng của ngài Long Thọ, v.v... Tổng cộng là năm mươi sáu bộ và
hai trăm ba mươi quyển kinh luật luận. Thầy được hơn hai mươi chư tăng, kẻ tục
người Thiên Trúc và Ðông Ðộ, cùng các quần thần hỗ trợ trong công việc phiên
dịch, như kiểm thảo, trau chuốt, nhuận sắc, kiểm chứng văn dịch. Thầy lại soạn
viết quyển Ðại Ðường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, Nam Hải Kỳ Quy Nội Pháp
Truyện, Biệt Thuyết Tội Yếu Hành Pháp, Thọ Dụng Tam Pháp Thủy Yếu, Pháp Hộ Mạng
Phóng Sanh Nghi Quy. Thầy tuy dịch ba tạng kinh luật luận, nhưng lại chú trọng
nhiều nhất vào tạng luật. Thầy tịch vào năm 713, thọ bảy mươi chín tuổi, được
năm mươi chín hạ lạp.
Dưới đây là lời tự thuật của Thầy về chuyến hành hương cầu pháp sang
Thiên Trúc và các nước lân cận của mình cùng với các vị du tăng đồng đạo vào
đương thời.
Ðại Ðường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng
Truyện.
Sa môn Nghĩa Tịnh
từ Tây Quốc trở lại Nam Hải Thất Lợi Phật Thệ, soạn viết quyển Kỳ Quy Bính Na
Lan Ðà Tự Ðồ.
Lời dẫn nhập:
Từ xưa, có rất nhiều vị cao tăng ở đất Thần Châu (nước Tàu) đã từng đi qua
Tây Vực để cầu pháp mà không tiếc thân mạng. Ngài Pháp Hiển là vị đầu tiên mở
đường, vượt qua bao gian nan hiểm trở để đến Thiên Trúc và các nước lân cận.
Ngài Huyền Trang, theo dấu chân ngài Pháp Hiển, khai mở chánh lộ đường đến
Thiên Trúc.
Những người Tàu du hành sang Thiên Trúc sớm nhất là bằng hai cách: Thứ
nhất, độc hành theo đường bộ, vượt qua vùng biên giới phía tây. Thứ hai, đi
bằng đường biển.
Chư cao tăng du hành, dẫu đi bằng đường bộ hay đường biển, luôn nhớ đến
những thánh tích của Phật đà, năm vóc lễ bái quy mạng. Các ngài luôn hoài vọng
trở về báo tứ trọng ân.
Tuy là duyên may, đại phước mới đến được Thiên Trúc, nhưng cuộc hành
trình rất gian nan nguy hiểm. Không ai có thể mang theo hương hoa tràng phan
bảo cái để cúng dường Phật đà, chỉ có vài vị là hoàn thành cuộc hành trình.
Nguyên nhân là vì sự chướng ngại nơi các bãi sa mạc khô cằn và những dòng
sông lớn của đất Tượng (Thiên Trúc), cùng ánh nắng chói chang, hoặc những gợn
sóng cuồn dâng đến bầu trời do những con cá voi phun lên, hay những dòng nước
chảy xuống tận đáy biển. Những khi đơn độc du hành đến vùng Thiết Môn [1],
người bộ hành đi lạc vào muôn ngàn núi non hiểm trở. Hoặc bị rơi xuống những
vực sâu, hoặc vừa lúc vượt qua cột Ðồng Trụ [2]
phải lội qua trăm sông ngàn suối, để rồi mất mạng.
Tôi đã trải qua bao ngày nhịn đói, ngay cả không có một giọt nước. Tôi
thật lấy làm lạ rằng không biết làm thế nào các du tăng có thể giữ vững ý chí
tu hành cùng tinh thần dõng mãnh và giới đức thanh bạch trong điều kiện vô vàn
khó khăn như thế. Vì cuộc hành trình gian nan hiểm trở, người du hành thường
thay đổi quan niệm sống.
Khi quyết định khởi hành rời nước, tôi có năm mươi pháp hữu, nhưng hầu
hết họ đều ở lại Thiên Trúc. Song, nếu có một vị tăng nào đến được Thiên Trúc,
sau cuộc hành trình gian nan hiểm trở, vị đó sẽ không tìm được một ngôi chùa
Tàu nào cả tại nơi đó. Do đó, không có nơi cố định để chúng tôi cư trú, mà chỉ
đi từ chỗ này qua chỗ khác như những luống cỏ bị gió thổi trôi. Tuy hoàn cảnh
có khó khăn gian nan trắc trở, nhưng sự nghiên tầm học hỏi Phật pháp cùng kinh
luật là việc hệ trọng nhất. Thật vậy, sự chân thành và tín tâm của họ thật rất
được ngưỡng mộ và ca tụng.
Hiện tại, tôi viết về những kinh nghiệm về chuyến hành hương cầu pháp,
hầu mong để lại cho hậu thế. Tôi đã từng nghe bằng tai, thấy bằng mắt, chứng
kiến những sự khó khăn mà chư du tăng đã từng trải qua. Do đó, Tôi viết quyển
sách này theo trình tự niên biểu thời gian của những sự kiện xảy ra trong
chuyến hành hương cầu pháp. Ðầu tiên, tôi ghi lại tiểu sử của các vị còn sống
và sau đó viết về các vị đã qua đời.
1. Pháp sư Huyền Chiếu ở Thái Châu
2. Pháp sư Ðạo Hi ở Tề Châu.
3. Luật sư Sư Tiên ở Tề Châu.
4. Pháp sư A Nan Da Bạt Ma ở Tân La.
5. Pháp sư Huệ Nghiệp ở Tân La.
6. Pháp sư Huyền Thái ở Tân La.
7. Pháp sư Huyền Khác ở Tân La.
8-9. Hai vị pháp sư ở Tân La.
10. Phật Ðà Bạt Ma ở Ðổ Hóa La.
11. Pháp sư Ðạo Phương ở Tịnh Châu.
12. Pháp sư Ðạo Sanh ở Tịnh Châu.
13-14. Thiền sư Thường Mẫn (Nityadaksa Dhyanacarya) ở Tịnh Châu và một đệ
tử.
15. Thầy Mạt Ðề Tăng Ha ở Kinh Sư.
16. Pháp sư Huyền Hội ở Kinh Sư.
17. Thầy Chất Ða Bạt Ma.
18-19. Hai vị tăng từ nước Ni Ba La (Nepal).
20. Pháp sư Long.
21. Pháp sư Minh Viễn ở ích-châu.
22-23-24. Luật sư Nghĩa Lương (Arthadipta) ở ích-châu và một đệ tử, cùng
Trí Ngạn.
25. Luật sư Hội Ninh ở ích-châu.
26. Pháp sư Vận Kỳ ở Giao Châu (Việt Nam).
27. Pháp sư Khuy Xung ở Giao Châu (Việt Nam).
28. Pháp sư Huệ Diễm ở Giao Châu (Việt Nam).
29. Pháp sư Giải Thoát Thiên ở Giao Châu (Việt Nam).
30. Pháp sư Tín Trụ.
31. Pháp sư Trí Hành ở Ái Châu (Việt Nam)[3].
32. Thiền sư Ðại Thừa Ðăng ở Ái Châu (Việt Nam).
33. Sa môn Tăng Già Bạt Ma ở Khương Quốc.
34-35. Pháp sư Bỉ Ngạn và Trí Ngạn ở Cao Xương.
36. Pháp sư Ðàm Nhuận ở Lạc Dương.
37. Luận sư Nghĩa Huy ở Lạc Dương.
38-39-40. Ba vị từ nước Tàu.
41. Pháp sư Huệ Luân ở Tân La.
42. Pháp sư Ðạo Lâm ở Kinh Châu.
43. Pháp sư Ðàm Quang ở Kinh Châu.
44. Thiền sư Huệ Mạng ở Kinh Châu.
45. Luật sư Huyền Quỳ ở Nhuận Châu.
46. Pháp sư Thiện Hạnh ở Tấn Châu.
47. Pháp sư Linh Vận ở Nhưỡng Dương.
48. Thiền sư Tăng Triết ở Phong Châu.
49. Huyền Du đệ tử của Tăng Triết ở Cao Ly.
50. Luật sư Trí Hoằng ở Lạc Dương.
51. Thiền sư Vô Hành ở Kinh Châu.
52. Thiền sư Pháp Chấn ở Kinh Châu.
53. Pháp sư Ðại Luật ở Phong Châu.
54. Tỳ kheo Trinh Cố ở Vĩnh Xuyên.
55 Tỳ kheo Ðạo Hoằng ở Biện Châu.
56. Tỳ kheo Pháp Lãng Nhưỡng Dương.
Những vị tăng được kể ở phần trên (của danh sách) hầu hết đều phân tán đi
rải rác. Tôi (Nghĩa Tịnh) chỉ gặp năm vị tăng như Vô Hành, Ðạo Lâm, Huệ Luân,
Tăng Triết và Trí Hoằng. Thùy Cùng nguyên niên (685), Tôi (Nghĩa Tịnh) cùng với
thiền sư Vô Hành từ biệt đất Tàu để đến Tây Quốc. Cho đến hôm nay (lúc Nghĩa
Tịnh ghi chép quyển này) không có một phái đoàn nào tìm kiếm xem họ còn sống
hay đã tịch rồi.
1. Pháp sư Huyền Chiếu.
Pháp sư Huyền Chiếu vốn là người Tiên Chưởng ở Thái Châu. Tên tiếng Phạn
của Pháp Sư là Bàn Già Xá Mạt Ðề (Parkasamati); tiếng Tàu dịch là Chiếu Huệ. Tổ
phụ (ông nội và cha) của Pháp Sư liên tiếp giữ chức thừa tướng trong triều.
Song, lúc còn nhỏ Pháp Sư đã xuống tóc xuất gia.
Lúc thành niên, Pháp Sư ước muốn đi lễ bái thánh tích. Thế nên, Pháp Sư
lên kinh sư tham dự và bàn luận về kinh luận. Giữa niên hiệu Trinh Quán
(627-649), tại chùa Ðại Hưng Thiện, Pháp Sư bắt đầu học Phạn ngữ với thầy Huyền
Chứng. Kế đến, Pháp Sư chống tích trượng, tiến về hướng Tây, nghĩ tới tịnh xá
Kỳ Viên (Jetavana). Rời Kim Phủ (Lan Châu), Pháp Sư vượt qua bãi sa mạc Lưu Sa
và Thiếc Môn, rồi leo lên núi Tuyết Lãnh. Pháp Sư tắm gội trong ao nước hương,
rồi tự nhủ rằng phải hoàn thành bốn hoằng thệ nguyện. Pháp Sư leo lên ngọn núi
Hốt Phụ (hay Thông Lĩnh-Pamir) và giữ vững tinh thần cùng sự tinh tấn. Pháp Sư
thệ nguyện cứu độ Tam Hữu (ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới). Pháp Sư
băng qua Tốc Lợi [4],
đến Ðỗ Hóa La [5],
rồi đi ngang qua biên giới của người Hồ và tiến vào nước Thổ Phiên (Tây Tạng).
Vì ngưỡng mộ, công chúa Văn Thành cúng dường tiền lệ phí cho Pháp Sư trên đường
đến bắc Thiên Trúc. Pháp Sư hướng đến nước Ðồ Lan Ðà [6].
Thật là một cuộc hành trình đầy gian nan nguy hiểm. Trước khi vào vương
thành của nước Ðồ Lan Ðà, Pháp Sư bị giặc cướp bắt. Không có ai để cho thương
nhân cùng du khách mách cáo hay cầu cứu. Thất vọng vì không có người cứu giúp,
Pháp Sư tụng thầm thần chú. Ðêm hôm sau, Pháp Sư mơ thấy ước vọng của mình được
toại nguyện. Pháp Sư chợt tỉnh dậy, thấy bọn cướp đều ngủ mê say, bèn vội lén
lút bỏ đi, rồi lập tức chạy khỏi nơi đó, tức được thoát nạn.
Pháp Sư trú lại nước Ðồ Lan Ðà trong bốn năm. Nơi đó Pháp Sư được quốc
vương ân cần tiếp đãi cúng dường cùng cung cấp nơi ăn chốn ở. Pháp Sư chuyên
cần học kinh luận và Phạn ngữ nhưng rất ít tiến bộ.
Từ từ Pháp Sư đi về hướng nam đến Ma Ha Bồ Ðề (Mahabodhi sangharama) và ở
đó bốn năm. Pháp Sư tự hận mình sanh không gặp Thánh hiền (tức Phật Thích Ca),
nhưng cảm thấy may mắn được lễ bái thánh tích của Phật đà. Pháp Sư lại lễ bái
chân dung thánh tượng Từ Thị Di Lặc (Maitreya). Thánh tượng này được điêu khắc
rất tỉ mỉ và oai nghiêm, khiến cho người xem phải khởi lòng cung kính. Thật
vậy, thánh tượng đó là một tác phẩm xuất phát từ lòng chân thành tuyệt đối của
người thợ điêu khắc.
Pháp Sư nghiên cứu tu học thâm sâu luận Câu Xá [7],
luận A Tỳ Ðàm (Abhidharma) tức Giải Ðối Pháp (Abhidharma) và hiểu biết tinh
tường về luật nghi (Vinayas) của hai thừa, tức đại thừa và tiểu thừa (Mahayana
and Hinayana).
Sau đó, Pháp Sư đến tu viện Na Lan Ðà (Nalanda) và lưu trú lại trong ba
năm. Nơi đó, Pháp Sư học Trung Luận [8]
với ngài Thắng Quang (Vijayarasmi), rồi học Du Già Thập Thất Ðịa [9]
với đại đức giáo thọ Bảo Sư Tử (Ranasimha).
Pháp Sư lại học nhiều môn thiền định, quán tưởng trừu tượng (khiến tâm
được thoát khỏi sự trói buộc của tất cả năng và sở), tinh tấn quán sát cội
nguồn tâm thức, để thấu suốt tận cùng chân nghĩa bao la.
Kế đến, Pháp Sư đi dọc theo phía bắc sông Hằng (Ganga) và được tiếp đón
nồng hậu bởi quốc vương nước Thiêm Bộ. Pháp Sư trú tại chùa Tín Giả và những tự
viện khác trong ba năm.
Sứ giả nhà Ðường, Vương Huyền Sách[10],
trên đường trở về nước Tàu, tấu trình rõ ràng về du tăng Huyền Chiếu. Liền sau
đó, nhà vua phái người qua Thiên Trúc tìm kiếm và đưa Pháp Sư về kinh đô. Trên
đường trở về, quốc vương nước Ni Ba La (Nepal) giúp đỡ Pháp Sư tiến về nước Thổ
Phiên (Tây Tạng), và gặp lại công chúa Văn Thành[11].
Bà rất vui mừng rồi lại cúng dường Pháp Sư tư lương cần thiết để trở về nước
Tàu.
Sau cuộc hành trình dài dẳng dọc theo phía tây của nước Thổ Phiên
(Tibet), Pháp Sư về đến nước Tàu. Vào tháng chín, Pháp Sư rời nước Thiêm Bộ và
đến Lạc Dương vào tháng giêng. Năm tháng trường Pháp Sư đi hơn vạn dặm. Vào
niên hiệu Lân Ðức (664), Pháp Sư vào hoàng cung yết kiến nhà vua và được sắc
lịnh đến Yết Chập Di La (Kashmir) để đón một vị trưởng lão bà la môn tên là Lô
Ca Dật Ða (Lokaditya).
Lúc ở Lạc Dương, Pháp Sư gặp rất nhiều vị đại đức và cùng họ thảo luận về
huyền lý của Phật pháp. Tại chùa Cung Ái [12],
Pháp Sư bắt tay vào công việc phiên dịch quyển luật Tát Bà Ða Bộ Nhiếp
(Sarvastivada) với sự giúp đỡ của Ðạo luật sư (Vinayacarya), Quán pháp sư (Dharmacarya),
cùng những vị khác. Song, sau một thời gian ngắn, Pháp Sư phải qua Thiên Trúc
theo lịnh của nhà vua. Do đó, bổn hoài của Pháp Sư chưa được hoàn thành. Pháp
Sư phải để những bản kinh luật bằng tiếng Phạn tại kinh đô.
Pháp Sư lại phải vượt qua những bãi sa mạc cát đá, và băng qua những ngọn
núi cao chót vót. Pháp Sư đi lần theo đường mòn chung quanh các vách núi; nơi
cầu đá để vượt qua chỗ vách núi nguy hiểm, Pháp Sư tìm thấy một con đường mòn
dốc lài và băng qua đó được. Ðến một con sông, nọ, tuy có cầu giây, nhưng Pháp
Sư lại tự lội sang sông, nên tránh được bọn cướp ở nước Thổ Phiên (Tibet). Ðược
an toàn một đỗi, rồi Pháp Sư lại bị bọn Hung Nô cướp bóc, nhưng may mắn trốn
thoát. Sau đoạn đường dài, Pháp Sư tiến vào biên giới của bắc Thiên Trúc.
Trên đường Pháp Sư gặp đoàn sứ giả của nước Tàu đang hộ tống ngài Lô Già
Dật Ða. Ðược đoàn sứ giả giao trọng trách, Pháp Sư dẫn dắt họ theo đoàn thương
buôn đến nước La Trà [13]
ở phía tây Thiên Trúc, để lấy thuốc trường sanh. Trên đường, Pháp Sư đến chùa
Nạp Bà Tỳ Ha La (Nava Vihara), tức Tân Tự (Nava Sangharama) ở Phược Khát La
(Bukhara). Nơi đó, Pháp Sư chiêm lễ bình bát và các thánh tích của đức Như Lai.
Kế đến, Pháp Sư tới Ca Tất Thí (Kapisa) và đảnh lễ cùng cúng dường hương hoa
cho xá lợi xương đầu của Phật (Như Lai Ðảnh Cốt- Usnisa). Nơi đó, Pháp Sư viết
lại ấn văn, quán lai sanh thiện ác (xem lại những chuyện lành xấu xưa nay).
Pháp Sư lại đi qua Phương Ðạt La của nước Tín Ðộ, và được quốc vương tiếp
đón nồng hậu, nên ở lại đó bốn năm. Từ đó, Pháp Sư đi về hướng nam Thiên Trúc.
Nơi ấy, Pháp Sư thường gởi nhiều loại thuốc về nước Tàu.
Trên đường du hành, Pháp Sư đến Kim Cang Tọa, tức Bồ Ðề Mạn Ðà
(Bodhimada), và trú lại nơi đó trong một thời gian. Tại tu viện Na Lan Ðà, Pháp
Sư gặp Nghĩa Tịnh. Chí nguyện thuở bình sanh đã được hoàn thành. Cả hai chúng
tôi đồng khế ước gặp nhau tại hội Long Hoa.
Ðường đi từ nước Ni Ba La (Nepal) đến nước Thổ Phiên và đường đi xuyên
qua nước Ca Tất Thí đến Ðại Thực không thông, bế tắc. Vì vậy, nghỉ ngơi một
đỗi, Pháp Sư tiến đến núi Thứu Phong (Grdhrakuta) và tịnh xá Trúc Lâm
(Venuvana). Những nơi đó, Pháp Sư rất mến thích và khởi tâm cung kính tột bậc.
Dầu Pháp Sư có chí nguyện truyền đăng, nhưng ước muốn này tiêu diêu như
lá rụng. Than ôi! Pháp Sư khổ hạnh du hành mà nguyện lợi sanh chưa toại. Sao
Pháp Sư lại muốn cỡi mây xuống trung Thiên Trúc bằng đôi cánh chim! Tại nước Am
Ma La Bạt (Bha-va) ở trung Thiên Trúc, Pháp Sư viên tịch vào lúc sáu mươi tuổi.
Ðể truy điệu Pháp Sư, Nghĩa Tịnh viết bài tán thán:
"Tráng chí cao ngất
Thông minh tuyệt đỉnh
Từng vượt muôn trùng
Xa thẳm quê mẹ
Trú nơi Trúc Lâm
Ngắm lá tre lay
Khởi tâm niệm niệm
Khát ngưỡng đạo huyền
Mãi giữ giới đức
Thường mong trở về
Hoằng diễn chánh pháp
Ðề cao đức hạnh
Than ôi! Bất toại
Vận mạng mong manh
Chôn xương nơi sông
Bát Thủy danh lừng
Chết vẫn an lạc."
2. Pháp sư Ðạo Hy ở
Tề Châu (Sơn Ðông).
Pháp sư có tên tiếng Phạn là Thất Lợi Ðề Bà (Dharmacarya). Tàu dịch là
Kiết Tường Thiên (Srideva). Pháp Sư thuộc dòng dõi quý tộc. Tôn tộc thường làm
quan tại triều nội.
Từ thuở bé, Pháp Sư rất hiền hòa lễ nghĩa, và đã từng theo học huyền môn
cùng được thấm nhuần giáo lý Phật đà, nên thường có chí nguyện du hành sang
trung Thiên Trúc.
Trên đường du hành, Pháp Sư vượt qua bao núi non hiểm trở mà không màng
đến thân mạng, chỉ một lòng cầu pháp. Pháp Sư tiến đến nước Thổ Phiên (Tibet)
nhưng đường lộ rất nguy hiểm, nên không dám đi theo hướng đó, mà xoay bước về
hướng tây, rồi lại gặp thêm bao gian nan khổ nhọc. Sau khi vượt qua bao vương
quốc, Pháp Sư đến Ma Ha Bồ Ðề, rồi ở lại nơi đó hai năm để nghiêm tầm kinh điển
và lễ bái thánh tích của Phật đà. Pháp Sư trú tại tu viện Na Lan Ðà và nước Câu
Thi [14]
trong một thời gian. Quốc vương nước Am Ma La Bạt rất tôn kính và tiếp đãi Pháp
Sư nồng hậu. Tại tu viện Na Lan Ðà, Pháp Sư chuyên cần học giáo lý Ðại Thừa.
Nơi chùa Thâu Bà Bạn Na, tức chùa Niết Bàn (Nirvana), Pháp Sư chuyên chú nghiên
cứu tu học luật tạng (Vinayapitaka) và luận Thanh Minh (Sabdavidyshatra).
Pháp Sư là vị học giả tri thức tài hoa. Trên một tảng đá tại chùa Ðại
Giác, Pháp Sư khắc chữ Tàu lên đó, và tại tu viện Na Lan Ðà, Pháp Sư đã để lại
hơn bốn trăm quyển kinh luật cũ mới bằng chữ Tàu.
Nghĩa Tịnh không được gặp Pháp Sư ở Thiên Trúc. Lúc năm mươi tuổi, Pháp
Sư cảm bệnh và qua đời tại nước Am Ma La Bạt (Amraka). Sau này, Nghĩa Tịnh đến
đó và lễ bái căn phòng của Pháp Sư. Nghĩa Tịnh rất cảm kích và thương tiếc cho
Pháp Sư, cùng viết kệ tán thán:
"Cô đơn tiến bước trăm khổ nhọc
Chân thành chất trực đức tánh cao
Hằng nguyện báo đền bốn ân trọng
Thương thay chưa thắp ngọn đèn pháp
Mà phải bỏ mình giữa đường xa."
3. Pháp sư Sư Tiên
(Sri Kasa) ở Tề Châu.
Pháp Sư thông suốt Phạn ngữ (Sanskrit) và chú Vinh Nhàn (Vidyamantra),
tức chú Ðà La Ni. Pháp Sư đã từng cùng với ngài Huyền Chiếu đi sang bắc và qua
tây Thiên Trúc. Ðến vương thành của nước Am Ma La Bạt, họ được quốc vương cung
kính tiếp đón niềm nở. Khi trú tại chùa Vương Tụ (Raja Vihara), Pháp sư gặp
ngài Ðạo Hy. Vì hai ngài vốn đồng hương nên đối đãi nhau rất thân mật. Ðang
sống chung với ngài Ðạo Hy, Pháp sư nhiễm bịnh và qua đời vào lúc ba mươi chín
tuổi.
4. Pháp sư A Nan Da
Bạt Ma (Anandavarman) ở Tân La (Triều Tiên).
Pháp Sư vốn là người Tân La (Triều Tiên). Trong niên hiệu Trinh Quán,
Pháp Sư khởi cuộc du hành từ thành Quảng Nhiếp (một vương thành nhỏ) ở Trường
An để tầm cầu chánh giáo và đích thân lễ bái thánh tích. Trú tại tu viện Na Lan
Ðà, Pháp Sư chuyên chú tu học luật luận và sao chép rất nhiều kinh điển.
Thương thay, Pháp Sư không thể đạt được chí nguyện. Pháp Sư xuất phát từ
biên giới phía đông nước Kê Quý (tức Triều Tiên), và an tường thị tịch tại
hướng tây của hồ Long Tuyền ở tu viện Na Lan Ðà vào lúc hơn bảy mươi tuổi.
5. Pháp sư Huệ Nghiệp (Jananasampada) ở nước Tân La (Korea).
Vào niên hiệu Trinh Quán, Pháp Sư du hành qua Tây Vực, rồi trú tại chùa
Bồ Ðề cùng lễ bái thánh tích. Trong vài năm trú tại tu viện Na Lan Ðà, Pháp Sư
thường tu học Phật pháp và dành rất nhiều thời giờ để lắng nghe cùng viết lại
những bài thuyết giảng.
Lúc đang đọc và kiểm thảo lại những bản sao chép, Nghĩa Tịnh chợt thấy
một bản sao Lương Luận [15].
Cuối quyển luận ghi rõ là pháp sư Huệ Nghiệp, vị tăng của nước Tân La (Triều
Tiên), sao chép kinh bên dưới cội cây Phật Xỉ Mộc (cây tăm xỉa răng của Phật).
Khi hỏi thăm chư tăng ở tu viện đó, Nghĩa Tịnh được biết là Pháp Sư đã
viên tịch nơi ấy vào lúc trên sáu mươi tuổi. Những bản kinh tiếng Phạn được
Pháp Sư sao chép lại vẫn còn lưu giữ trong chùa.
6. Pháp sư Huyền Thái ở
nước Tân La.
Pháp Sư có tên tiếng Phạn là Tát Bà Chân Nhã Ðề Ba (Sarvajnadeva); tiếng
Tàu dịch là Nhất Thiết Trí Thiên. Trong niên hiệu Vĩnh Huy (650-655), Pháp Sư đến
nước Thổ Phiên (Tibet), băng qua nước Ni Ba La (Nepal), rồi vào trung Thiên
Trúc. Pháp Sư hành hương đến cây Bồ Ðề và tinh tường nghiên cứu tu học kinh
luật. Pháp Sư cũng đi du hành rất nhiều nơi tại vùng phía đông. Trên đường trở
về, đến Thổ Cốc Hồn, Pháp Sư gặp ngài Ðạo Hy, rồi cả hai cùng đến chùa Ðại
Giác. Sau này, Pháp Sư trở về nước Tàu, nhưng không ai biết được việc Pháp Sư
thị tịch như thế nào.
7. Pháp Sư Huyền Khác (Paramapujya) ở Tân La.
Vào niên hiệu Trinh Quán, Pháp Sư khởi hành cùng với ngài Huyền Chiếu. Họ
đến chùa Ðại Giác. Pháp Sư chân thành lễ bái thánh tích Phật đà, nhưng sau vài
ngày bị cảm bệnh và qua đời vào lúc năm mươi tuổi.
8-9. Hai vị tăng ở nước Tân
La.
Không ai biết được danh tánh của hai vị tăng này. Họ rời Trường An và đến
Nam Hải. Kế đến, họ đi tới nước Bà Lỗ Sư (Srivijaya), ở phía tây nước Thất Lợi
Phật Thệ (Sribhoga), rồi lâm bịnh và thị tịch tại đó.
10. Phật Ðà Ðạt Ma (Bodhiarma) ở Ðổ Hóa La.
Thân hình của Ngài vạm vỡ, đủ để chịu đựng những gian nan khổ nhọc trên
các cuộc du hành. Ngài theo học giáo lý tiểu thừa, và thỉnh thoảng đi khất
thực. Nhờ ăn ít nên Ngài đi đứng thuận tiện. Ngài đến Thần Châu (nước Tàu), và
xuất gia tại chùa ích-phủ. Tánh tình thích đi viễn du, và thường hành cước rất
nhiều nơi ở Cửu Châu cùng những vùng khác.
Ngài đến tu viện Na Lan Ðà và gặp Nghĩa Tịnh. Khi năm mươi tuổi Ngài đến
bắc Thiên Trúc và thị tịch vào lúc hơn năm mươi tuổi.
11. Thầy Ðạo Phương
(Dharmadesa) ở Tịnh Châu.
Thầy xuất gia xong, bèn vượt qua những bãi sa mạc và đồi núi, rồi đến
nước Ni Ba La. Thầy đến và làm trụ trì chùa Ðại Giác trong vài năm. Sau này,
Thầy trở lại nước Ni Ba La cho đến khi gặp Nghĩa Tịnh.
12. Pháp sư Ðạo Sanh ở
Bình Châu.
Tên tiếng Phạn của Pháp Sư là Bàn Ðạt La Ðề Bà (Cadradeva), Tàu dịch là
Nguyệt Thiên.
Cuối niên hiệu Trinh Quán, Pháp Sư theo đường núi đến nước Thổ Phiên, qua
trung Thiên Trúc, rồi tới chùa Bồ Ðề. Nơi đó, Pháp Sư kính thành cúng dường và
lễ bái Chế Ðề Cật (Caitagrha), tức tháp thờ xá lợi Phật. Trong tu viện Na Lan
Ðà, Pháp Sư là vị tăng trẻ nhất, nên được quốc vương thâm kính lễ bái. Ði về
phía đông cách tu viện Na Lan Ðà mười hai do tuần, Pháp Sư đến chùa Vương Tự,
nơi chư tăng đều tu học theo giáo lý tiểu thừa. Pháp Sư trú trong chùa đó vài
năm để học giáo lý tiểu thừa và lẽ tinh yếu của ba tạng giáo nghĩa. Pháp Sư
mang trở về bổn quốc rất nhiều kinh điển và tượng Phật. Trên đường về cố hương,
vì nghiệp vận, Pháp Sư bị bịnh và thị tịch vào lúc năm mươi tuổi tại nước Ni Ba
La.
13-14. Thiền sư
Thường Mẫn (Nityadaksa Dhyanacarya) ở Tịnh Châu và một đệ tử.
Thiền Sư cắt tóc xuất gia vào lúc còn thơ ấu. Tướng hảo kiết tường oai
nghiêm của Thiền Sư thật không thể kể hết. Thiền Sư rất thông minh đảnh ngộ;
tinh tấn tu hành, chuyên cần tụng niệm kinh điển không mệt mỏi; Thiền sư lại
thường phát đại thệ nguyện vãng sanh qua cõi Cực Lạc, nên luôn hành tịnh nghiệp
niệm danh hiệu Phật không ngừng. Thiền Sư rất vững vàng về căn bản giáo lý nhà
Phật.
Thiền Sư đến Lạc Dương tuyên dương chánh pháp. Ðể biểu lộ lòng chân thành
trong công cuộc hoằng pháp, Thiền Sư phát đại nguyện viết mười ngàn quyển kinh
Bát Nhã (Prajna). Thiền Sư nguyện ước đi qua Tây Vức để lễ bái cúng dường xá
lợi Phật và các thánh tích, rồi hồi hướng công đức qua cõi Tây Phương Cực Lạc.
Dịp may đến, Thiền Sư vào kinh sư, dâng thơ thỉnh nguyện nhà vua cho phép
được đi du hành qua chín châu để truyền bá Phật pháp cùng viết kinh Bát Nhã.
Ðược nhà vua chuẩn y, Thiền Sư khởi hành cuộc vân du, rồi băng qua bao sông
ngòi, và đi khắp vùng phía nam của nước Tàu. Trong thời gian ở tại miền nam,
Thiền Sư chân thành viết kinh Bát Nhã và luôn tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với
nhà vua vì đã chuẩn y cho phép mình được toại nguyện.
Sau này, Thiền Sư đến hải cảng, lên thương thuyền để tới nước Ha Lăng [16].
Ðến nơi, Thiền Sư lại theo thuyền qua nước Mạc La Du [17],
với mục đích là sang trung Thiên trúc. Một cơn bão đột ngột thổi đến vùng đó,
khiến cho biển động sóng dồn. Vì chở rất nhiều kiện hàng hóa nặng nề, nên
thương thuyền chỉ ra được bến mà không đi đến đâu được. Vài tiếng sau, thương
thuyền bắt đầu bị chìm. Trong cơn hãi hùng hỗn loạn, thương nhân cùng thủy thủ
tranh nhau xuống chiếc thuyền nhỏ để tránh nạn. Vốn là một Phật tử thuần thành,
vừa bước xuống chiếc thuyền nhỏ thì vị thuyền trưởng liền gọi to rằng Thiền Sư
hãy nên xuống đó với hợ để lánh nạn. Thiền Sư bèn đáp:
- Tôi không xuống đâu! Ông nên đem vài người khác xuống để thay thế chỗ
của tôi.
Thiền Sư không chịu xuống con thuyền nhỏ mà chỉ âm thầm chấp nhận nghiệp
vận ngắn ngủi để giữ vững tâm Bồ Ðề: Xả thân mình để cứu người. Thật là hạnh
nguyện của bậc Bồ Tát Ðại Sĩ.
Kế đến, Thiền Sư chắp tay hướng về phía tây, và cung kính xưng niệm danh
hiệu Phật A Di Ðà liên tục, mặc tình cho thương thuyền từ từ chìm xuống biển
cả. Lúc đó, Thiền Sư hơn năm mươi tuổi.
Thiền sư Thường Mẫn có một người đệ tử mà không ai biết rõ danh tánh. Vị
thầy này khóc sướt mướt và cũng xưng niệm danh hiệu Phật A Di Ðà. Mất vị tôn
sư, Thầy cảm giác mọi việc đều vô nghĩa và trống rỗng. Thầy được người trên
chiếc thuyền nhỏ ân cần giúp đỡ. Câu chuyện này được những người thoát nạn đắm
thuyền kể lại.
Thương thay bậc vĩ nhân, thị tịch quá sớm! Hy sinh thân mạng mình để cứu
người, sáng chói như gương bóng, quý báu như viên ngọc nước Hòa Chấn (Khotan).
Dẫu có ngâm mình trong dòng nước dơ mà thân không nhơ nhuốc. Dẫu bị mài giũa mà
không khiếm khuyết. Hiến mình vì Phật pháp để đạt được trí huệ Bát Nhã thâm
sâu. Dưỡng trí huệ để gieo nhân lành cao tột. Nơi bổn quốc gieo nghiệp lành.
Tại nước người gặt được quả tốt. Gặp hiểm nạn trên biển cả, tự đối đầu và quyết
định trầm mình theo thương thuyền để cứu vớt người, khiến đệ tử phải mất đi một
tôn sư và không còn pháp lữ.
Thân nhớp nhúa rã tan trong biển cả. Dùng tịnh nguyện để qua an dưỡng nơi
cõi Cực Lạc. Ðạo không hề bị vô vị và hạnh đức mãi không bị chôn vùi. Phóng ánh
sáng từ bi vị tha. Tận trần kiếp để sinh ra một vĩ nhân khác.
15. Thầy Mạt Ðề
Tăng Ha (Matisimha) ở Kinh Triệu.
Tên tiếng Tàu của Thầy là Sư Huệ. Thầy vốn là người ở Kinh Triệu, họ là
Hoàng Phủ, nhưng không ai biết tên tục là gì. Thầy đồng du hành với ngài Sư Tiên
qua trung Thiên Trúc, đến và trú tại chùa Tín Giả.
Thầy có kiến thức về tiếng Phạn, nhưng không nghiên cứu tường tận về kinh
luật nhà Phật. Thầy quyết định trở về bổn quốc nhưng lại thị tịch tại nước Ni
Ba La vào năm bốn mươi tuổi trên đường về cố hương.
16. Thầy Huyền Hội ở kinh sư.
Có người bảo rằng Thầy là con của tướng quân họ An. Theo đường bộ, Thầy
đến bắc Thiên Trúc rồi vào nước Yết Chập Di La [18].
Thầy được quốc vương nước đó giao cho chức giữ voi của hoàng gia. Thầy thường
cỡi voi với nhạc cụ theo sau. Mỗi ngày, quốc vương sai người đem thức ăn đến
cúng dường cho chùa Long Trì Sơn [19],
nơi thầy Huyền Hội trú ở, và là nơi mà năm trăm vị A La Hán thường thọ thực, và
cũng là nơi mà đệ tử của tôn giả A Nan Ðà, tức ngài Mạt Ðiền Ðịa (Madhyantika),
đã từng hóa độ long vương. Nhờ Thầy khuyên bảo, quốc vương phóng thích hơn một
ngàn tử tội. Thầy được tự do ra vào cung cấm, nhưng sau này vì có chuyện bất
bình nên bỏ vào nam.
Tại chùa Ðại Giác, Thầy lễ bái cây Bồ Ðề và ngắm nhìn hồ Mộc Chân Trì
(Muchalinda) cả hàng giờ. Tại nơi đó, Thầy leo lên núi Linh Thứu (Grdhrakuta)
và núi Tôn Túc, tức Kê Túc (Kukkutapadagiri). Thầy có kiến thức rất thâm sâu
quảng đại và thần minh của một bậc thánh hiền, cùng thiện xảo khéo léo. Dẫu gặp
bao khó khăn trở ngại, Thầy nói thông thạo tiếng Phạn trong một thời gian ngắn.
Song, vì không có kiến thức thâm sâu về kinh điển tiếng Phạn và đạo lý, nên
Thầy quay trở về bổn quốc. Không may, trên đường về, khi đi ngang qua nước Ni
Ba La, Thầy mất vào lúc hơn ba mươi tuổi.
Nước Ni Ba La có bao loại độc dược nên nhiều khách hành hương bị chết tại
nơi đó vì ăn nhằm chúng.
17. Thầy Chất Ða Bạt
Ma (Cittavarman).
Thầy vốn
theo đoàn sứ giả nước Tàu đến xứ Phược Khát La (BuKhara) bằng đường lộ phía
bắc. Tại chùa Tân Tự (Navasangharama), nơi truyền dạy giáo lý tiểu thừa, xuất gia
với tên là Chất Ða Bạt Ma (Cittavarman). Thọ giới cụ túc xong, Thầy từ chối
không ăn ba loại thịt thanh tịnh.
Vị giới sư trong chùa bảo:
- Như Lai Ðại Sư đích thân khai mở ngũ chánh, hay ngũ tịnh nhục (tức năm
loại thịt thanh tịnh), cho chư tăng nên không có tội, thì sao Thầy lại không
ăn?
Vị Thầy đó đáp:
- Các kinh điển đại thừa đều cấm chế. Do tập tánh đó nên không thể thay
đổi.
- Ta y theo ba tạng kinh luật mà tu hành, và chưa từng đọc qua những văn
kinh như thế. Nếu có kiến chấp khác biệt như vầy, Ta không phải là tôn sư của
Thầy.
Nghe vậy, Thầy đành miễn cưỡng, xả bỏ lời nguyện xưa và rơi lệ mà ăn.
Thầy theo luật nghi của chùa mà tu hành, nhưng kiến thức Phạn ngữ rất giới hạn.
Sau này, Thầy theo đường lộ phía bắc, rồi trở về bổn quốc. Từ đó, không ai biết
Thầy đã đi đâu. Chuyện của Thầy do chư tăng ở bắc Thiên Trúc thuật lại.
18-19. Hai vị tăng từ nước Ni Ba La (Nepal).
Bà di mẫu của công chúa nước Thổ Phiên (Tây Tạng) có hai người con, đồng
xuất gia lúc trẻ. Họ trú tại chùa Ðại Vương (Rajavihara). Hai vị nói và đọc
tiếng Phạn rất thông thạo. Một vị tuổi ba mưoi lăm còn vị kia tuổi hai mươi
lăm. Sau này, một trong hai vị đó hoàn tục.
20. Pháp sư họ Long
(Gauravadharma).
Không ai biết Pháp Sư là dân nước nào. Trong niên hiệu Trinh Quán, Pháp
Sư xuất gia và theo đường lộ phía bắc để qua Thiên Trúc. Vừa đến đó, Pháp Sư
muốn tận mắt xem sự hoằng hóa của chánh pháp ở trung Thiên Trúc. Pháp Sư tụng
được kinh Pháp Hoa (Saddharmapundarika) bằng tiếng Phạn rất thông thạo. Khi đến
nước Kiền Ðà La, Pháp Sư nhuốm bịnh và thị tịch. Câu chuyện này do chư tăng ở
bắc Thiên Trúc thuật lại.
21. Pháp sư Minh Viễn ở
ích-châu.
Pháp sư Minh Viễn là người ở Thanh Thành, ích-châu. Pháp Sư có tên tiếng
Phạn là Chấn Ða Ðề Bà (Cintadeva). Tàu dịch là Tư Thiên. Thuở nhỏ, Pháp Sư đã
được thấm nhuần Phật pháp, nên lớn lên trở thành một vị rất đạo hạnh. Tướng mạo
của Pháp Sư oai nghiêm tuấn tú. Pháp Sư thích tham gia các pháp hội tụng đọc
kinh điển. Người người đều kính trọng Pháp Sư. Pháp Sư thông thạo luận Trung
Quán (Madhyamika) cùng luận Bách Pháp (Satasastra), và có khả năng luận nghị về
tư tưởng Trang-Châu.
Lúc trẻ, Pháp Sư thường du hành qua Thất Trạch ở Hồ Nam và Tam Ngô (vùng
phía đông của sông Dương Tử) để tầm sư học đạo. Sau này, Pháp Sư nghiên cứu tu
học tinh tường kinh luận và hành thiền định. Kế đến, Pháp Sư tự an cư kiết hạ
trên đỉnh núi Lô Sơn.
Vì Thánh giáo (đạo Phật) đang dần dần bị suy vi, và với ý chí phục hưng,
nên Pháp Sư chống tích trượng qua Giao Châu (Việt Nam). Từ đó, Pháp Sư theo
thuyền qua nước Ha Lăng, rồi đến vương quốc Sư Tử (Tích Lan) lễ xá lợi Phật.
Theo người nước Sư Tử cho biết thì du tăng người Tàu đó (tức Pháp Sư),
tiếp tục đi qua nam Thiên Trúc, rồi sau này mất trên đường đến chùa Ðại Giác.
Không ai biết được Pháp Sư sống đến bao lâu.
Tương truyền, quốc vương nước Sư Tử ra lịnh đem để xá lợi Phật trên một
tòa lâu các cao ráo, đóng cửa kín an toàn, và cho quân canh phòng cẩn mật.
Trong tòa lâu các đó có nhiều cánh cửa sắt cứng chắc nặng trĩu, cùng với những
ống khóa to lớn được lấp kín bằng vôi bởi năm vị quan triều. Nếu mở cánh cửa
chính ra thì sẽ có tiếng chuông báo hiệu vang khắp thành quách.
Ngày ngày, hương hoa đều được cúng dường đầy khắp. Người chí tâm cầu khẩn
thì sẽ thấy một đóa hoa vàng xuất hiện trên răng xá lợi Phật, hoặc thấy xá lợi
Phật hiển hiện những ánh sáng lạ thường. Theo truyền thuyết, nếu mất đi răng xá
lợi Phật thì vương quốc này sẽ bị quỷ La Sát (Raksasas) nuốt mất. Vì thế, răng
xá lợi Phật được nghiêm phòng thủ hộ cẩn mật.
22-23-24. Luật sư
Nghĩa Lương (Arthadipta) ở ích-châu và một đệ tử, cùng Trí Ngạn.
Luật Sư vốn là người Thành Ðô ở ích-châu. Luật Sư thông thạo luật điển và
giải thích được luận Du Già (Yoga). Lúc trẻ đã từng liễu ngộ giáo pháp, nên
Luật Sư thường nghiên cứu nội điển, và lại có tài viết văn rất hay. Vì có ước
muốn đi hành hương chiêm bái thánh tích, nên Luật Sư khởi hành cuộc vân du.
Phát xuất từ Trường An, Luật Sư đi cùng với thầy Trí Ngạn (một vị đồng hương),
và Nghĩa Huyền (một danh nhân đương thời), cùng một đệ tử. Do đối đãi thân mật
như tình huynh đệ, nên họ rất khắng khít với nhau trên đường hành hương.
Họ đến nước Ô Lôi, rồi lên thương thuyền. Trải qua bao muôn ngàn sóng to
gió lớn, thương thuyền chạy ngang nước Phù Nam [20]
và thả neo tại Lương Gia [21].
Nơi đó, họ được quốc vương tiếp đãi như thượng khách và tặng rất nhiều lễ vật.
Thầy Trí Ngạn chẳng may nhuốm bịnh và tịch tại đó, khiến Luật Sư rất đau buồn.
Luật Sư lại cùng với người đệ tử tiếp tục cuộc hành trình, lên thuyền qua vương
quốc Sư Tử. Nơi đó, đoàn hành hương lễ bái răng xá lợi Phật cùng thâu nhặt sách
vở ngoại đạo.
Dần dần họ đến Tây Quốc (Thiên Trúc). Từ đó, không ai biết được Luật Sư
cùng đoàn hành hương đi về đâu. Người nước Sư tử cùng Thiên Trúc không gặp và
nghe tin tức gì về họ. Có lẽ Luật Sư tịch ở nước ngoài khi hơn bốn mươi tuổi.
Nghĩa Tịnh chỉ nghe lại câu chuyện này từ các vị sa môn khác.
25. Luật sư Hội
Ninh (Mahabhisayanavinayacarya).
Luật Sư là người Thành Ðô ở ích-châu. Thuở bé, Luật Sư vốn thông minh
đảnh ngộ và tiết tháo, cùng có chí nguyện hoằng dương Phật pháp, khiến lợi ích
quần sanh, nên thường đến chùa chiền để tìm hiểu về đạo lý. Xả vinh hoa phú quý
như bỏ chiếc áo rách, Luật Sư sớm xuất gia đầu Phật làm tăng sĩ. Luật Sư nghiên
cứu kinh luận cùng tinh tường hiểu rõ về luật nghi. Với chí nguyện hoằng pháp,
Luật Sư muốn sang Tây Vức để tu học.
Trong niên hiệu Lân Ðức (A.D 665), Luật Sư chống tích trượng đến Nam Hải
và theo thuyền sang nước Ha Lăng, rồi ở lại nơi đó trong ba năm với vị tăng đa
văn, Nhã Na Bạt Ðà La (Jnanabhadra). Kế đến, Luật Sư phiên dịch một phần của
kinh A Hàm (Agama), liên hệ đến chương miêu tả buổi lễ trà tỳ kim thân của đức
Như Lai, nhưng lại không tương hợp với kinh Niết Bàn của Ðại Thừa. Sau này, ở
tại Tây Vức, Nghĩa Tịnh tìm thấy kinh Niết Bàn của phái đại thừa có khoảng hai
mươi lăm ngàn câu kệ, và đã được phiên dịch chữ Tàu hơn sáu mươi quyển. Nghĩa
Tịnh muốn gom góp toàn bộ kinh nhưng không thành công, mà chỉ góp nhặt được bốn
ngàn câu kệ đầu tiên từ Ðại Chúng Bộ (Mahasanhika)
Phiên dịch xong bộ kinh A Hàm, Luật Sư sai đệ tử là Vận Kỳ mau kíp thỉnh
kinh trở về bổn quốc. Thầy Vận Kỳ thỉnh kinh về đến Châu Phủ (Việt Nam) thì
được quan quân hộ tống vào kinh đô. Trong hoàng cung, thầy Vận Kỳ phụng tấu nhà
vua nên ban sắc lệnh truyền bá bộ kinh này cho người Ðông Hạ (người Tàu). Kế
đến, thầy Vận Kỳ rời kinh đô trở lại Giao Chỉ, mang về tặng phẩm trăm mảnh lụa
do triều đình ban thưởng.
Qua trở lại Ha Lăng, thầy Vận Kỳ báo tin cho ngài Ðức Trí Hiền, tức Nhã
Na Bạt Ðạt La, biết rằng luật sư Hội Ninh muốn tương kiến. Vừa lúc ấy, luật sư
Hội Ninh đã qua Tây Vức. Thầy Vận Kỳ ở đó, nóng lòng chờ đợi tin tức của Luật
Sư. Thầy Vận Kỳ lại gởi người sang Ngũ Thiên (Thiên Trúc) để tìm kiếm Luật Sư
nhưng không nghe tin tức. Có lẽ Luật Sư đã tịch vào năm ba mươi bốn tuổi. Ðây
là một điều thật đáng tiếc.
Luật sư Hội Ninh đơn độc đi cầu pháp, và tâm thành muốn hành hương sang
xứ Phật. Luật Sư chỉ du hành một đoạn đường ngắn ngủi. Cuối cùng, Luật Sư đến
nơi Bảo Chử (hay Bảo Sở), và tạm cư nơi Hóa Thành.
Tuy đã thị tịch nhưng pháp của Luật Sư vẫn mãi trường tồn, và tinh thần
Bồ Tát hạnh cùng tên tuổi của Luật Sư vẫn mãi được người sau nhớ đến.
26. Pháp sư Vận Kỳ (Kalacakra) ở Giao Châu (Việt Nam).
Pháp Sư đồng du hành với thầy Ðàm Nhuận và theo ngài Phục Trí Hiền thọ
giới cụ túc. Pháp Sư trở lại Nam Hải và sống nơi đó hơn mười năm. Pháp Sư thông
thạo ngôn ngữ của người Côn Lôn và tiếng Phạn. Sau này Pháp Sư lại hoàn tục và
trú tại nước Thất Lợi Phật Thệ cho đến lúc Nghĩa Tịnh qua đó.
Sau này, cuộc đời của Pháp Sư lại thay đổi đột ngột. Vì cảm kích ân trọng
của Phật pháp vô ngần, Pháp Sư xuất gia trở lại, rồi vân du khắp vương quốc đó
và thường hoằng bá chánh pháp đến cho những kẻ ngoại đạo. Pháp sư tịch vào lúc
bốn mươi tuổi.
27. Pháp sư Khuy Xung ở Giao Châu (Việt Nam).
Pháp Sư có pháp danh tiếng Phạn là Chất Ðát La Ðề Bà (Citradeva). Pháp Sư
cùng với thầy Minh Viễn đến Nam Hải, và theo thuyền sang nước Sư Tử, rồi qua
tây Thiên Trúc. Nơi đó Pháp Sư gặp thầy Huyền Chiếu, rồi cùng nhau đến trung
Thiên Trúc.
Pháp Sư rất chân thật, tín thành và thông minh. Pháp Sư tụng đọc kinh
tiếng Phạn rất hay. Mỗi lần tìm được quyển kinh tiếng Phạn nào, Pháp Sư đều
tụng xướng theo âm điệu nhịp nhàng. Pháp Sư hành hương đến và chiêm lễ cây Bồ
Ðề. Khi đến thành Vương Xá, vào tịnh xá Trúc Lâm, Pháp Sư trú lại đó rất lâu,
rồi nhuốm bịnh và tịch lúc hơn ba mươi tuổi.
28. Pháp sư Huệ Diễm (Prajnaratna) ở Giao Châu (Việt Nam).
Pháp Sư là đệ tử của thầy Hành Công. Pháp Sư theo tôn sư đến nước Sư Tử
rồi trú lại nơi đó. Không ai biết được là Pháp Sư tịch vào lúc nào.
29. Pháp sư Giải Thoát Thiên ở Giao Châu (Việt Nam).
Pháp Sư theo thuyền đi chu du các nước, rồi đến chùa Ðại Giác, lễ bái các
thánh tích. Pháp Sư tịch vào lúc chỉ mới hai mươi lăm tuổi tại chùa Ðại Giác.
30. Pháp sư Tín Trụ.
Không ai biết Pháp Sư là dân xứ nào. Pháp danh tiếng Phạn của Pháp Sư là
Thiết Lị Ðà Bạt Ma (Sraddhavarman). Tàu dịch là Tín Trụ.
Pháp Sư theo dường lộ phía bắc mà đến Thiên Trúc, rồi tới lễ bái và trú
tại chùa Tín Giả. Trên nóc chùa, Pháp Sư xây một tòa lâu các bằng gạch và cúng
dường cho những vị tăng già yếu. Thời gian sau, Pháp Sư nhuốm bịnh nặng. Ðêm
sắp lâm chung, Pháp Sư chợt tỉnh dậy và bảo rằng chư Bồ Tát đưa tay tiếp dẫn
đến tòa nhà trang nghiêm đẹp đẽ. Ðứng dậy chấp tay thọ nhận, Pháp Sư thị tịch
vào năm ba mươi lăm tuổi.
31. Pháp sư Trí Hành ở Ái Châu (Việt Nam).
Pháp danh tiếng Phạn của Pháp Sư là Bàn Nhã Ðề Bà (Prajnadeva). Tàu dịch
là Huệ Thiên. Theo thuyền đi từ Nam Hải, Pháp Sư đến tây Thiên Trúc, rồi lễ bái
xá lợi đức Thế Tôn. Kế đến, Pháp Sư đi dọc theo sông Hằng, và đến chùa Tín Giả,
rồi tịch tại đó vào năm năm mươi tuổi.
32. Thiền sư Ðại Thừa Ðăng ở Ái Châu (Việt Nam).
Thiền Sư có pháp danh tiếng Phạn là Mạc Ha Dạ Na Bát Ðịa Ký Ba
(Mahayanapradipa); Tàu dịch là Ðại Thừa Ðăng. Lúc nhỏ Thiền Sư cùng với cha mẹ
đến nước Ðỗ Hòa La Bát Ðề [22].
Nơi đó, Thiền Sư xả tục xuất gia. Sau đó, Thiền Sư theo đoàn sứ giả Ðàm Tự đến
kinh đô. Thiền Sư trú tại chùa Từ Ân (Mahakaruna), nơi tam tạng pháp sư Huyền
Trang đã từng cư ngụ, rồi được thọ giới cụ túc. Thiền Sư ở lại kinh đô vài năm
để duyệt xem kinh thư. Với lòng tín thành hằng tiềm ẩn trong tâm, Thiền Sư luôn
nghĩ đến thánh tích và ước vọng qua Tây Vức. Song song, Thiền Sư luôn giữ giới
đức thanh tịnh.
Sau này, Thiền Sư mang kinh luận và tượng Phật vượt biển Nam Hải để đến
nước Sư Tử. Nơi đó, Thiền Sư chân thành lễ bái răng xá lợi Phật và được những
điềm cảm ứng linh dị. Thiền Sư lại qua nam Thiên Trúc và đến đông Thiên Trúc,
rồi tới nước Ðam Ma Lập Ðề[23].
Vừa vào cửa sông thì chiếc thuyền và những đồ vật quý giá của Thiền Sư đều bị
bọn cướp lấy đi mà chỉ còn mạng sống.
Kế đến, Thiền Sư lên bờ và trú nơi đó hơn mười hai năm để học kinh điển
tiếng Phạn. Thiền Sư thường tụng kinh Duyên Sanh (Nidana) và những bộ kinh
khác, cùng tu phước nghiệp.
Nhân gặp thương buôn và Nghĩa Tịnh, Thiền Sư cùng chúng tôi đến trung
Thiên Trúc. Ðầu tiên chúng tôi đến tu viện Na Lan Ðà, rồi tới Kim Cang Tọa, qua
nước Tỳ Xá Ly (Vaisali), và cuối cùng gặp nước Ca Thi La (Kusonagara). Thiền Sư
lại cùng thiền sư Vô hành chiêm bái tất cả những thánh tích ở các nơi đó. Mỗi
lần gặp thánh tích, Thiền Sư thường ta thán và nguyện muốn hoằng dương chánh
pháp tại bổn quốc. Lúc gần thị tịch, Thiền Sư thệ rằng nếu đời này chưa hoàn
thành chí nguyện thì đời sau sẽ tiếp tục.
Vì thường nghiên cứu lịch sử, Thiền Sư tìm đến ngôi nhà của Bồ Tát Từ Thị
thường trú ở. Hai lần trong mỗi ngày, Thiền Sư đều thành kính dâng cành Long
Hoa cúng dường.
Thiền Sư sống trong căn phòng mà thầy Ðạo Hy đã từng trú ngụ. Lúc Thiền
Sư đến đó thì thầy Ðạo Hy đã thị tịch, nhưng kinh sách chữ Phạn và chữ Tàu của
Thầy vẫn còn y nguyên. Nhìn thấy những di vật và căn phòng trống trải này,
Thiền Sư rơi lệ, cảm thương cho thầy Ðạo Hy. Xưa kia, họ đã từng đồng du hành,
cùng nhau luận nghị Phật pháp ở Trường An. Song, hiện tại Thiền Sư không còn
gặp lại pháp hữu của mình tại nước người nữa.
Tại thành Câu Thi La, nơi chùa Bát Niết Bàn, Thiền Sư quy tịch.
33. Sa môn Tăng Già
Bạt Ma (Sanghavarman) ở Khương Quốc [24].
Thuở nhỏ thầy đã từng đi vân du bằng đường bộ qua những bãi sa mạc cát đá
rồi đến kinh thành. Thầy rất sùng tín Phật pháp, và tự giữ giới hạnh rất tinh
nghiêm, cùng luôn hành hạnh từ bi hỷ xả.
Trong niên hiệu Hiển Khánh, thể theo sắc lệnh của nhà vua, Thầy cùng với
đoàn sứ giả qua Tây Vức, rồi đến chùa Ðại Giác. Tại Kim Cang Tòa, Thầy đốt đèn
nến trong bảy ngày đêm để cúng dường đại pháp hội kiết tập kinh điển. Trong nội
viện Bồ Ðề, dưới cành cây Vô Ưu, Thầy khắc thánh tượng Phật cùng Bồ Tát Quán Tự
Tại (Avalokitesvara).
Thầy lại trở về nước Tàu và phụng chiếu chỉ của nhà vua, sang Giao Chỉ
tìm dược thảo. Ðến nơi, gặp lúc hạn hán, nhân dân đói kém, nằm chết la liệt,
nên ngày ngày Thầy đem thức ăn nước uống để cứu tế họ. Thầy rơi lệ xót xa trước
tình cảnh đói khát ngặt nghèo của dân chúng, nên được gọi là 'Thường Ðế Bồ Tát
(tức vị Bồ Tát thường rơi lệ)'. Thời gian sau, Thầy có chút bịnh rồi tịch vào
năm sáu mươi tuổi.
34-35. Pháp sư Bỉ
Ngạn (Nirvana) và Trí Ngạn (Jnanaparin) ở Cao Xương [25].
Hai thầy đến Trường An và có ý muốn xuất gia. Họ rất nóng lòng qua trung
Thiên Trúc để tận mắt xem sự hoằng hóa của đạo Phật.
Thế nên, cùng với đoàn sứ giả Vương Huyền Khuyếch, họ lên thuyền đi qua
Thiên Trúc. Chẳng may, trên thuyền họ nhuốm bịnh và tịch. Bộ luận Du Già cùng
những bộ kinh luận khác bằng chữ Tàu của họ đều được để lại nước Thất Lợi Phật
Thệ (Srivijaya).
36. Pháp sư Ðàm
Nhuận (Meghasikta) ở Lạc Dương.
Pháp Sư tinh thông chú thuật và huyền lý học, cùng thâm hiểu luật điển và
y minh học (Cikitsa Satra). Pháp Sư có dung mạo đoan chánh và rất cẩn thận.
Pháp Sư thường biểu lộ tính thích cứu giúp muôn loài.
Pháp Sư từ từ du hành sang Giao Chỉ, rồi trú lại nơi đó trong một năm,
sống đời đơn giản và bình dị khiến ai ai cũng khâm phục, tán thán. Pháp Sư lại
lên thuyền đi từ Nam Hải đến Thiên Trúc. Nào ngờ, giữa đường Pháp Sư thị tịch
tại nước Bột-ích[26],
phía bắc nước Ha Lăng, vào lúc ba mươi tuổi.
37. Luận sư Nghĩa
Huy (Artharasmi Sastracarya) ở Lạc Dương.
Luận Sư vốn thông minh mẫn tiệp và có lề lối suy tưởng rất thâm sâu. Luận
Sư hoài vọng trở thành một học giả và thích tầm cầu chân lý. Khi nghe qua Nhiếp
Luận (Samparigrha) và Câu Xá Luận (Kosa), Luận Sư liền đạt được nghĩa lý thậm
thâm. Song, vì nghĩa lý trong đó lại có những điểm dị biệt tương đồng và sai
lệch, nên Luận Sư ước muốn tìm kiếm bổn văn chữ Phạn và chính được nghe những
lời bàn luận cùng triết ngôn. Do đó, Luận Sư đến trung Thiên Trúc, rồi hoài
vọng trở về cố hương. Song, tiếc thương thay, như mạ héo trước khi trưởng
thành, Luận Sư tịch tại Lương Gia sau một cơn bịnh vào lúc hơn ba mươi tuổi.
38-39-40. Ba vị tăng từ
nước Tàu.
Họ theo đường lộ phía bắc đến nước Ô Trường Na [27]
vì nghe có xá lợi xương đầu của Phật (Phật Ðảnh Cốt) tại đó. Tới nơi, họ lễ bái
cúng dường xá lợi. Sau này, không ai biết được họ sống chết như thế nào. Nghĩa
Tịnh chỉ được chư tăng ở nước đó kể lại sơ qua về họ.
41. Pháp sư Huệ
Luân ở Tân La (Triều Tiên).
Pháp Sư có pháp danh tiếng Phạn là Bát Nhã Bạt Ma (Prajnavarman). Tàu
dịch là Huệ Giáp. Pháp Sư xuất gia lúc còn ở tại bổn quốc và luôn có tâm nguyện
du hành lễ bái thánh tích.
Pháp Sư theo thuyền đến Mân Việt (Phước Kiến), rồi đi bộ đến Trường An.
Nơi đó, nhà vua ban chiếu chỉ bảo Pháp Sư làm thị giả cho thầy Huyền Chiếu trên
cuộc hành trình sang Thiên Trúc. Qua đến nơi đó, Pháp Sư chiêm ngưỡng lễ bái
các thánh tích, rồi trú tại chùa Tín Giả ở nước Am Ma La Bạt khoảng mười năm.
Kế tiếp, đi về hướng đông, Pháp Sư viếng thăm chùa Ðỗ Hóa La Tăng (Tukhara
Sagharama) ở vùng kế cận. Ngôi chùa này nằm về phía bắc Thiên Trúc và do dân
chúng kiến lập để cung ứng chỗ trú ngụ cho chư tăng trong nước. Ngôi chùa này
rất sang trọng và thức ăn cùng vật dụng luôn luôn được cúng dường đầy ắp, mà
không có ngôi chùa nào sánh bằng. Tên của chùa là Kiền Ðà La Trà (Gandhara
Sanda). Pháp Sư trú tại ngôi chùa ấy để học tiếng Phạn, và sau này rất tinh
thông về luận Câu Xá. Lúc Nghĩa Tịnh đến đó thì Pháp Sư đã được bốn mươi tuổi.
Chư tăng từ phương bắc tới đều thường trú và làm chủ ngôi chùa Kiền Ðà La
Trà. Phía tây chùa Ðại Giác có chùa của người nước Ca Tất Thi. Ngôi chùa này
cũng rất sang trọng và có nhiều chư vị thạc đức, mà chư tăng đều tu theo phái
tiểu thừa. Chư tăng từ phương bắc đến cũng thường trú nơi đó. Ngôi chùa có tên
là Lũ Nõa Triết Lý Ða (Gunacarita); Tàu dịch là Ðức Hạnh (Punyagati). Cách chùa
Ðại Giác về hướng đông bắc hai do tuần có chùa Khuất Lục Ca (Calukya), do vua
nước Khuất Lục Ca ở nam Thiên Trúc xây cất. Tuy cảnh chùa đơn sơ giản dị nhưng
chư tăng trong chùa tinh cần nghiêm trì giới đức. Ðương thời, vua Nhật Quân
(Aditysena) vừa xây xong một ngôi chùa mới sát bên chùa Khuất Lục Ca. Chư tăng
đến từ phương nam thường trú tại ngôi chùa đó. Mọi nơi đều có chùa chiền, nên chư
tăng đồng quốc tịch thường liên lạc với nhau dễ dàng. Song, Thần Châu (nước
Tàu) chẳng có một ngôi chùa nào cho chư tăng bổn xứ trú ngụ, nên khiến du tăng
bị khó khăn khốn đốn trong việc ăn ở.
Cách tu viện Na Lan Ðà về phía đông, dọc theo hạ lưu sông Hằng có một
ngôi chùa tên là Mật Lật Già Tất Tha Bát Na (Mrgasthapana); Tàu dịch là Lộc
Viên. Gần ngôi chùa này có một ngôi cổ tự hiệu là Chi Na nhưng đã bị hoang phế
và chỉ còn nền móng. Tương truyền, xưa kia đại vương Thất Lợi Cấp Ða
(Sri-Gupta) xây ngôi chùa này cho hơn hai mươi chư tăng Chi Na (thuộc vùng
Quảng Châu) trú ở.
Mạt Ha Chi Na (Devaputra) tức Kinh Sư, Tàu dịch là Thiên Tử. Xưa kia, có
hơn hai mươi tăng sĩ từ nước Tàu đến đó. Họ đi ngang qua vùng Thục Xuyên[28]
và đến Ma Ha Bồ Ðề, cách nhau khoảng năm trăm do tuần, rồi đảnh lễ cúng dường
những nơi thánh tích. Quốc vương nước đó chân thành cung kính tiếp đón và cúng
dường hai mươi bốn thôn làng để cho họ trú ngụ.
Sau này, họ lần lượt thị tịch và đất đai bị người ngoài chia cắt. Khi
Nghĩa Tịnh đến đó, chỉ có khu đất của ba thôn làng là thuộc quyền sở hữu của
chùa Lộc Viên. Chùa Chi Na đã được xây năm trăm năm về trước. Hiện tại (trong
thời của Nghĩa Tịnh), đất đai thuộc quyền sở hữu của vua Ðề Bà Bạt Ma
(Devavarma) ở đông Thiên Trúc. Nhà vua trả ngôi chùa lại cho dân làng đó để
tránh những chi phí dành cho các du tăng từ nước Tàu qua hành hương. Ông cũng
nói:
- Nếu có chư tăng nước Tàu qua đông đảo, Trẩm sẽ trùng hưng ngôi chùa đó
lại. Xây một tổ chim bồ câu rất dễ dàng, nhưng tìm người có phước đức để trụ
nơi đó thật rất khó. Nếu ai có tâm vì muốn cứu độ chúng sanh, mang ích lợi đến
cho muôn loài mà phụng tấu với Trẩm về việc xây lại ngôi chùa đó, thì việc này
chẳng khó chút nào.
Chùa Kim Cang Tòa và Ðại Giác đều do quốc vương nước Sư Tử xây cất. Xưa
kia, chư tăng từ nước Sư Tử qua thường đến đó trú ngụ.
Tu viện Na Lan Ðà cách Ma Ha Bồ Ðề khoảng bảy do tuần, được vua Thất Lợi
Thụ Yết La Ðiệt Ðề (Sakraditya) xây cất cho tỳ kheo Hạt La Xã Bàn ở bắc Thiên
Trúc.
42. Pháp sư Ðạo Lâm ở Kinh
Châu.
Pháp Sư người Giang Lăng ở Kinh Châu. Pháp danh tiếng Phạn của Pháp Sư là
Thi La Bát Pha (Silaprabha); Tàu dịch là Giới Quang. Pháp Sư xuất gia lúc ấu
niên. Khi thành niên, Pháp Sư đi tham phương tầm sư cầu chân lý, và gom góp
luật tạng để nhiếp hộ thân tâm nên thông đạt tinh tường về luật nghi.
Pháp Sư dành hết mọi thời giờ vào việc tu tập thiền định nên nước tâm
lắng đọng như ao xanh, tự tánh lẳng lặng như trăng soi đáy giếng. Tâm tánh Pháp
Sư rất hiền từ nhân hậu, thanh tịnh, khiêm tốn, chân thật. Thọ nhận suối nguồn
Phật pháp trong trẻo như lưu ly, để khiến đất tâm tĩnh lặng; dùng nước Phật
pháp thanh tịnh để xúc miệng hầu mong trưởng dưỡng tâm linh. Pháp Sư rất ít ngủ
nghỉ, thường ngồi thiền mãi không nằm, và thọ trai mỗi ngày một buổi.
Qua bao năm đại giáo (Phật pháp) đã được truyền sang đông độ (nước Tàu).
Song, môn thiền định[29]
chỉ vừa khai sáng, và luật nghi ít được chú trọng. Vì vậy, Pháp Sư luôn nôn
nóng qua Thiên Trúc để tầm cầu những bản thảo chánh của kinh luật.
Sau này, Pháp Sư chống tích trượng, lên thuyền của ngoại nhân, đến Nam
Hải, rồi qua Thiên Trúc. Trên đường đi, Pháp Sư vượt qua cột đồng trụ, tới nước
Lang Gia, băng qua nước Ha Lăng và Khỏa Quốc[30]
để đến Thiên Trúc. Quốc vương ở những nơi đó đều tiếp đón Pháp Sư rất nồng hậu.
Sau khi trú ngụ nơi đó hai năm, Pháp Sư đến nước Ðàm Ma Lập Ðế ở đông Thiên
Trúc và trú lại nơi ấy trong ba năm để học tiếng Phạn. Pháp Sư bỏ những giới
luật cũ, thọ nhận những giới luật quan trọng mới và nghiên cứu tinh tường luật
nghi của Nhất Thiết Hũu Bộ (Sarvastisada).
Không những tu học luật tạng mà Pháp Sư lại còn chú tâm nghiên cứu vào
định và huệ. Pháp Sư lại bỏ rất nhiều thời gian để tu học tinh tường Ðàm Chú
Tạng (Dharani Pitaka).
Nơi trung Thiên Trúc, Pháp Sư tận mắt chứng kiến sự hưng thạnh của Phật
pháp. Pháp Sư lại đến chiêm bái và hành lễ tại Kim Cang Tọa cùng cội Bồ Ðề và
những thánh tích khác. Sau này, Pháp Sư tới tu viện Na Lan Ðà, rồi trú lại nơi
đó vài năm để học chân nghĩa của kinh luận Ðại Thừa. Pháp Sư tinh thông luận
Câu Xá, A Tỳ Ðàm. Kế đến, Pháp Sư hành hương tới núi Linh Thứu, Trượng Lâm Sơn
Viên (Yastivanagiri), và Hộc Thọ [31].
Tại những nơi đó, Pháp Sư vận dụng hết tâm chân thành kính ngưỡng, chất trực để
lễ bái các thánh tích.
Pháp Sư du hành khắp nam Thiên Trúc để tìm thầy Huyền Mô. Pháp Sư lại đi
qua tây Thiên Trúc, tới nước La Trà và ở đó một năm. Khi ấy, Pháp Sư lập một
Linh Ðàn để hành Minh Chú (Vidyadhara Pitaka). Ðôi khi, Pháp Sư giảng giải về
giáo nghĩa của Minh Chú.
Tổng quát, nghĩa của Minh Chú theo tiếng Phạn là Tỳ Ðê Ðà La Tất Cản Gia
(Vidyadhara Pitaka). Tỳ Ðê, được dịch là Minh chú. Ðà La được dịch là Trì. Tất
Cản Gia được dịch là Tạng. Do đó, nghĩa tổng quát là Trì Tạng Minh Chú. Ðược
biết Tạng Chú này có một trăm câu kệ bằng tiếng Phạn, và dịch qua tiếng Tàu
được ba trăm quyển. Hiện tại (thời của ngài Nghĩa Tịnh), những bản dịch đa phần
đã bị thất lạc, chỉ còn một số ít.
Sau khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, ngài A Ly Dã Na Ca Hạt Thọ Na
(Nagarjuna), tức Bồ Tát Long Thọ bảo tồn chân nghĩa tinh yếu của tạng chú này.
Một trong những vị đệ tử của Bồ Tát Long Thọ là ngài Nan Ðà, vốn là một
vị thông minh học thức uyên bác, đặc biệt chú trọng đến tạng chú này. Tại tây
Thiên Trúc, ngài Nan Ðà chuyên tâm trì tạng chú này trong mười hai năm và được
rất nhiều điềm cảm ứng. Ðến giờ thọ trai, ngài Nan Ðà chỉ việc tụng tạng chú
này thì thức ăn từ trên hư không chợt rơi vào bình bát. Nếu ước muốn có vật gì,
ngài Nan Ðà chỉ tụng tạng chú thì vật đó liền hiện ra trong bình bát linh dị.
Nếu ngài Nan Ðà không tụng tạng chú đó thì bình bát bèn biến mất.
Sợ rằng tạng chú này sẽ bị thất lạc, ngài Nan Ðà tự kết tập làm mười hai
ngàn câu kệ, mà sau này lại được phân theo các trường phái khác nhau. Mỗi câu
mỗi chữ đều được so sánh rất cẩn thận. Tuy đồng chữ đồng câu nhưng công dụng và
ý nghĩa của mỗi kệ chú lại khác nhau. Ðương thời tạng chú này được dạy theo lối
khẩu truyền, và không ai có thể hiểu hay nhận rõ tầm quan trọng của tạng chú
đó.
Sau này, khi nghiên cứu tường tận sự trước tác của ngài Nan Ðà, luận sư
Trần Na (Dinnaga) rất đỗi ngạc nhiên về công phu thù đặc và tư tưởng cao siêu
của cổ nhân, nên chú trọng vào tạng chú đó. Cảm động, luận sư Trần Na [32]
ta thán:
- Nếu Ngài (Nan Ðà) đã chứng ngộ, liễu đạt được Nhân Minh (Hetu Vidya),
thì Ta có thể so sánh được với vị hiền giả này không? Chẳng những bậc trí sĩ
hiểu rõ tầm vóc kiến thức của Ngài, mà kẻ ngu cũng vẫn nhận ra tri thức thậm
thâm đó.
Tạng chú này chưa được lưu hành rộng rãi ở Ðông Hạ (nước Tàu). Trong lời
dẫn nhập về tạng Minh Chú có nói: "Muốn bay lên trời cỡi xe rồng, cùng
muốn sai sử hàng trăm chư thiên, chỉ cần đọc tụng và bắt ấn thần chú này."
Lúc ở tu viện Na Lan Ðà, Nghĩa Tịnh thường đến đàn tràng và chí tâm tinh
tấn tu hành tạng chú này, nhưng công phu vẫn chưa thành tựu. Với mục đích chính
là muốn hoằng dương tạng chú này đến những kẻ ngoại đạo, nên Nghĩa Tịnh chép
chỉ chép lại bố cục tổng quát.
Từ biên giới vùng phía tây, pháp sư Ðạo Lâm tiến lên bắc Thiên Trúc. Pháp
Sư thăm viếng và chứng kiến mắt sự giáo hóa của đạo pháp ở nước Yết Chập Di La
(Kashmir), rồi vào nước Ðiểu Trường Na để tham vấn về môn thiền định và tầm cầu
kinh Bát Nhã.
Kế đến, Pháp Sư hành hương qua nước Ca Tất Thi, rồi lễ bái cúng dường xá
lợi đảnh nhục kế của Phật (Ðiểu Suất Ni Sa-Usnisa).
Khi Nghĩa Tịnh trở về Nam Hải, đến nước Yết Trà thì nghe những người ở
phương bắc (Hồ nhân) bảo rằng pháp sư Ðạo Lâm đã gặp hai vị tăng người Hồ (Mông
Cổ hay Thổ Nhĩ Kỳ) cùng với thầy Trí Hoằng rồi đồng kết hẹn trở về cố quốc. Lúc
năm mươi tuổi, trên đường trở về bổn quốc, vì bị bọn cướp ngăn chặn, nên pháp
sư Ðạo Lâm phải quày lại bắc Thiên Trúc.
43. Luật sư Ðàm
Quang (Krsnamegharasmi) ở Kinh Châu.
Luật Sư người Giang Lăng ở Kinh Châu. Luật Sư xả tục xuất gia, rời cố
hương, đến kinh sư.
Luật Sư là đệ tử của luật sư họ Thành. Luật Sư (Ðàm Quang) là vị học giả
và có tài hùng biện, cùng trì giới luật rất tinh nghiêm. Luật Sư học hỏi luận
lý cổ điển trong và ngoài nước. Luật Sư rất nhã nhặn và lịch thiệp.
Xuất phát từ Nam Hải, Luật Sư vượt trùng dương để đến Thiên Trúc lễ bái
thánh tích cùng xá lợi Phật. Ðầu tiên, Luật Sư đến tây Thiên Trúc, rồi tới nước
Ha Lợi Kê La [33]
ở đông Thiên Trúc. Từ đó, không ai biết được Luật Sư du hành đến đâu. Một vị
tăng ở nước Ha Lợi Kê La kể rằng có gặp một tăng sĩ nước Tàu, (tức luật sư Ðàm
Quang) tuổi tác độ khoảng năm mươi; Luật Sư được quốc vương tiếp đón nồng hậu
và giao chức trụ trì tại một ngôi chùa; Luật Sư thường thích tìm kiếm những bản
văn chính của kinh luận và tượng Phật; Luật Sư thường răn nhắc những vị tăng
phạm giới ở trong chùa. Sau này, Luật Sư cảm bịnh và tịch tại nơi đó.
44. Thiền sư Huệ
Mạng (Prajnajnapti) Kinh Châu.
Thiền sư cũng là Giang Lăng ở Kinh Châu. Tánh tình chân thật, tiết tháo,
thông suốt luật nghi, và có hoài bão cao thượng. Thiền Sư học văn thơ cổ điển
trong và ngoài nước. Thiền Sư thường ao ước ngắm xem sông Ni Liên Thuyền[34],
và ý chí cùng tâm tư luôn hướng về vườn Trúc Uyển. Thiền Sư khởi hành cuộc vân
du hướng đến Chiêm Ba [35],
và phải chịu đựng bao khổ nhọc vì những cơn giông bão trên biển cả. Ðến cột
đồng trụ của Mã Viện, Thiền Sư ngơi nghỉ nơi đó, rồi trở về nước Tàu.
45. Luật sư Huyền
Quỳ (Mahamarga) ở Nhuận Châu.
Luật Sư là người Giang Ninh ở Nhuận Châu, họ Hồ, thuộc dòng dõi quý tộc.
Luật Sư tinh thông văn học và sử ký. Tánh tình nhân từ, lễ nghĩa, kính pháp
trọng tăng. Với danh thơm và hoài bão lớn, Luật Sư xuất gia từ thuở ấu niên.
Khi trưởng thành, Luật Sư được mọi người cung kính và tôn trọng. Luật Sư tiến
bộ và thành tựu trong việc tu học. Không những am tường luật tạng mà Luật Sư
còn tinh thông thiền định. Luật Sư giữ giới luật tinh nghiêm mà ít có ai hành
được. Luật Sư luôn tham dự những buổi luận nghị về kinh điển và đặc biệt chú
tâm vào huyền nghĩa. Nhờ có bẩm chất học giả, trí huệ và tài năng thư pháp của
Luật Sư rất tuyệt vời. Luật Sư chỉ thường dùng ba bộ y ca sa của sa môn.
Mỗi lần bước vào chánh điện, Luật Sư thường bỏ dép ra, nhưng lại mang vào
khi đi đường. Luật Sư rất cẩn thận và tỉ mỉ mà chẳng màng đến những tiếng cười
đùa của thế nhơn. Không bao giờ đặt lưng trên chiếu, Luật Sư luôn luôn ngồi
thiền quán. Dầu thường đi khất thực, Luật Sư cũng không nhận nhiều thức ăn, và
luôn tránh thọ thực tại các phòng ăn lớn.
Nhiều người thích mang đôi giày rơm. Họ cũng biết nghệ thuật làm giày.
Song, giày rơm rách nát không thể chừng mực. Trên đường vân du, Luật Sư luôn
mang đôi giày rơm rách tả tơi. Thật là khổ nhọc!
Luật Sư luôn có đồng ý kiến với các pháp hữu, nhưng lại có lý giải riêng;
có thể khởi cơn giông tố trong nguồn nước sông tĩnh lặng; không độc đoán hay
thỏa thuận dễ dàng như người thường, thường có tâm tính hướng về chân lý. Làm
thế nào mà Luật Sư hòa quang đồng trần được với những kẻ bình thường đang sống
trong tối tăm với tâm tánh chấp trước nặng nề!
Luật Sư du hành từ nơi này sang nơi khác rồi tới Ðan Dương. Nơi đó, Luật
Sư đồng giao kiết với một người nọ là sẽ qua Thiên Trúc. Sau đó, Luật Sư rơi lệ
tạm biệt người anh và thân hữu ở miền nam, vì hoài vọng tầm cầu Phật pháp để
hoằng dương chánh pháp, một tôn giáo đã ngự trị cuộc đời và tâm linh của mình.
Với mục đích đó, Luật Sư đến Quảng Châu, nhưng chẳng may bị bịnh sưng
phổi. Cảm thấy bịnh tình trói buộc khiến không thể tiến bước, Luật Sư đành thất
vọng não nề trở về bổn xứ Ngô Sở vào năm hai mươi lăm tuổi.
Sau này, một vị tăng tên là Triết, đến Thiên Trúc và thuật lại rằng luật
Sư Huyền Quỳ, một danh tăng, đã cảm bịnh mà thị tịch.
Thật là điều bất hạnh! Cuộc đời của Luật Sư minh chứng rằng đạt được mục
tiêu không phải là chuyện dễ. Thương thay! Ước vọng chân thành tầm cầu chân lý
thể pháp, vượt ngoài âm dương, và mang giáo lý Phật đà về bổn xứ của Luật Sư đã
bị tiêu tan như bọt sóng cồn vì nghiệp chướng bịnh hoạn. Thế nên, tôi (Nghĩa
Tịnh) viết kệ tán thán:
"Thạc nhân đã tịch
Ai hay kế thừa
Rủi thay đoản mạng
Ô hởi thương thay!
Hoài bão cao vọng
Bị tan từng mãnh
Hoa nước chóng tàn
Liễu giải lý dễ
Dụng công hành khó
Thuở còn niên thiếu
Ðức nghiệp tròn đầy
Truyền đăng hậu thế
Ước nguyện cao tột
Tráng chí hùng dũng."
Vì muốn giữ gương sáng về cuộc đời tu hành của Luật Sư nên tôi (Nghĩa
Tịnh) viết lại tiểu sử để ngàn thu nhớ mãi.
Ðể tưởng nhớ đến Luật Sư, tôi (Nghĩa Tịnh) viết thêm một bài kệ:
"Tâm hướng về ngôi Phạm vũ
Hồn mơ bay qua Tiên Châu
Sầu trai trẻ lâm bịnh hoạn
Không cùng bạn sang Tây Thiên
Hoài vọng tan như cát bụi
Lá đã rơi đành về cội!
Chí nguyện xưa lại bất thành
Một mai gặp duyên lành đến
Nương bình bát tới Tây Thiên
Quán xem mạch pháp lưu truyền."
Vào niên hiệu Hàm Hanh (670-673), trú tại Tây Kinh một năm, tôi (Nghĩa
Tịnh) thường nghe giảng và tu học kinh luận. Ðương thời, tôi cùng với thầy Xứ
Nhất ở Bình Bộ, luật sư Hoằng Huy ở Lai Châu, và ba đại đức đồng hẹn nhau đến
lễ bái núi Linh Thứu và hướng tâm về cây Giác Thọ (tức cội Bồ Ðề).
Vì mẹ già và nhớ đến Bình Châu, nên thầy Xứ Nhất phải quày về cố hương.
Ngược lại, luật sư Hoằng Huy khi gặp thầy Huyền Chiêm tại Giang Ninh bèn hướng
tâm về cõi An Dưỡng (tây phương Cực Lạc). Huyền Quỳ cùng đi với Nghĩa Tịnh đến Quảng
Phủ, nhưng vì bịnh nên không thể tiến bước. Một mình Nghĩa Tịnh khởi hành cuộc
vân du cùng với tiểu tăng Thiện hạnh.
Chia tay với những pháp lữ tại đất Thần Châu, Nghĩa Tịnh không tìm được
một pháp lữ trên đất Thiên Trúc. Ðương thời, nếu Nghĩa Tịnh có chút do dự (đi
Thiên Trúc) thì hoài vọng chắc không thể hoàn thành. Buồn vì cô đơn du hành,
Nghĩa Tịnh viết bài kệ:
"Vượt bao trùng dưong muôn ngàn dặm
Dây sầu khuấy động tâm trăm mảnh
Thân hình sáu thước, bóng khắc khoải
Biên thùy Thiên Trúc, chẳng cùng ai
Bèn tự giải nổi ưu sầu, bảo:
Thượng tướng chống quân xâm lăng
Chí không dời, sĩ phu nào bằng
Nếu như than tiếc vì mạng ngắn
Sao được mãn nguyện sống Trường Trăng!"
Niên hiệu Hàm Hanh thứ ba (672), tôi an cư kiết hạ tại Dương Phủ. Ðầu mùa
thu, tôi chợt gặp sứ giả triều đình là Phùng Hiếu Thuyên ở Cung Châu. Mông ơn
đàn việt sứ giả Phùng Hiếu Thuyên, tôi đến Quảng Châu, rồi hẹn với chủ thuyền
người Ba Tư[36]
ngày lên thuyền xuôi về nam. Tôi lại được sứ quân Phùng Hiếu Ðản, Phùng Hiếu
Chẩn, em của Phùng Hiếu Thuyên, và phu nhân họ Ninh họ Bành cùng những vị khác
tặng rất nhiều phẩm vật. Trước khi khởi hành, vì sợ tôi sẽ bị đói khát hay gặp
nhiều sóng gió trên biển cả và hiểm nạn trên đất liền, nên toàn gia đình cùng
quyến thuộc đều tranh nhau cúng dường rất nhiều thức ăn vật dụng. Tôi cảm thấy
lòng thành lo lắng của họ như cha mẹ thương con côi cút, thường cung cấp những nhu
yếu phẩm. Nhờ những vật dụng họ cúng dường mà tôi có thể hành hương sang thắng
xứ (Thiên Trúc).
Lòng thành của gia quyến sứ quân họ Phùng đã khích lệ tôi lên đường hành
hương rất mãnh liệt. Chư tăng và kẻ tục ở vùng Lãnh Nam đều quyến luyến rơi lệ khi
tôi từ biệt. Ngay cả các học giả ở phương bắc cũng ưu sầu vì không biết ngày
nào sẽ tương hội.
Vào tháng mười một, tôi bắt đầu cuộc hành trình, hướng về phía Dục Chẩn,
và bỏ lại Phiên Ngu (Quảng Ðông) đằng sau lưng. Ðôi khi, tôi hướng tâm đến Lộc
Viên và vọng mong lên núi Kê Túc để lễ bái.
Bấy giờ, cơn gió mùa bắt đầu thổi đến. Với đôi dây thừng cột trên buồm
thuyền cao trăm thước, thuyền tiến về hướng Chu Phương. Rời sao Ky, hai thuyền
buồm bị gió thổi bay mất. Thuyền chạy trên những làn sóng cao ngất như núi. Hợp
với dòng suối vịnh, những đợt sóng triều dâng cao tận trời xanh như mây đen vần
vũ.
Gần hai mươi ngày, thuyền đến nước Phật Thệ. Nghĩa Tịnh lên bờ, ở lại nơi
đó sáu tháng để học Thanh Minh (ngôn ngữ). Ðược sự giúp đỡ của quốc vương, tôi
đến nước Mạt La Du (Malayu), tức nước Thất Lợi Phật Thệ (Sribhoga) và trú tại
đó hai tháng, rồi đến nước Yết Trà.
Ðến tháng chạp, tôi lên vương thuyền (thuyền của hoàng gia) để đi đông
Thiên Trúc. Cách nước Yết Trà khoảng mười ngày, thuyền đến nước của người Khỏa
Thân (Insula Nudorum). Nhìn về hướng đông bãi biển, chỉ thấy toàn là những cây
dừa xiêm, cùng một rừng dây trái trầu, trông rất đẹp mắt. Thuyền vừa đến bãi
biển thì thổ dân chèo trăm chiếc xuồng nhỏ. Họ đem dầu, chuối, cùng những đồ
vật làm bằng tre mía ra để trao đổi hàng hóa.
Vật họ cần nhất là sắt. Một mảnh sắt dài hai lóng tay có thể đổi lấy năm
hay mười trái dừa xiêm. Nơi đó, đàn ông thì trần trụi còn đàn bà thì che thân
bằng lá. Thương nhân muốn cho áo quần nhưng họ đều khoát tay từ chối.
Ðược biết, nước này nằm thẳng về hướng tây nam của vùng Thục Xuyên. Nơi
đây không bao giờ sản xuất thiếc sắt. Vàng bạc rất ít thấy. Nhu yếu phẩm chính
là dừa và khoai, mà lúa gạo lại rất hiếm. Họ xem thiếc sắt là vật trân quý
nhất, và được gọi là Lô Ha.
Nói chung, dung sắc của thổ dân không đen đúa và có vóc hình tầm trung
bình. Nghệ thuật làm giỏ bằng cây mía của họ rất tinh vi mà không nơi đâu sánh
bằng. Nếu có ai từ chối trao đổi hàng hóa, họ sẽ bắn cung tên tẩm độc. Ai bị
tên bắn thì mạng không còn.
Thuyền chạy khoảng nửa tháng về hướng đông bắc thì đến nước Ðam Ma Lập Ðề
(Tamralipti), tức biên giới phía nam của đông Thiên Trúc. Cách tu viện Na Lan
Ðà và Ma Ha Bồ Ðề khoảng sáu mươi do tuần. Tôi gặp ngài Ðại Thừa Ðăng
(Mahayana) tại nơi ấy lần đầu tiên. Nơi đó, tôi học tiếng Phạn và thanh văn
luận (Vyakarana).
Kế đến tôi cùng với ngài Ðại Thừa Ðăng lên đường đi thẳng về hướng tây,
và đồng hành với một trăm thương nhân đến trung Thiên Trúc. Cách Ma Ha Bồ Ðề
mười ngày đường, chúng tôi băng qua một ngọn núi cao và đầm lầy. Ðường xá rất
nguy hiểm và gồ ghề. Ði qua nơi đó phải có người đồng hành chứ chẳng nên đi một
mình.
Trên đường đi, tôi mệt lã người vì những cơn bịnh sốt. Dầu muốn nhưng tôi
không thể đi kịp theo đoàn thương nhân. Song, tôi vẫn tiến bước. Song, vì quá
mệt mõi, nên trong năm dặm đường mà tôi nghỉ ngơi cả trăm lần. Ðương thời, đồng
hành có hơn hai mươi vị tăng ở tu viện Na Lan Ðà. Ngài Ðại Thừa Ðăng đã đi về
phía trước, và bỏ một mình tôi trên con lộ hiểm nguy. Hoàng hôn vừa che trùm
mặt đất thì bọn cướp liền xuống núi, vây quanh tôi. Giương cung tên, chúng
trương mắt nhìn và chửi rủa. Ðầu tiên chúng lột thượng y, rồi đến y phục dưới
thân, và ngay cả dây nịt trên thân trần truồng cũng bị lột luôn.
Bấy giờ, tôi cảm thấy đời mình đã tận và sẽ không còn nhìn lại thế gian.
Nếu bị tên bắn hay giáo đâm thì niềm hy vọng hành hương lễ bái thánh tích tan
tành như cát bụi. Theo lời đồn đãi của dân chúng nước đó thì bọn cướp nếu bắt
được người nào có sắc diện hồng hào tuấn tú thì sẽ đem cúng tế quỷ thần. Nhớ
lại những lời này khiến tôi rùng mình, càng sợ hãi thêm. May thay, tôi trốn
thoát, rồi chạy vào một cái đầm nước. Nơi đó, tôi trét bùn cùng lấy lá che trùm
lên thân, rồi chống gậy, men theo con đường cũ.
Màn đêm bao phủ khắp nơi. Lữ quán lại cách đó rất xa. Vào canh hai, tôi
gặp lại các pháp lữ đồng hành nhờ nghe tiếng gọi của ngài Ðại Thừa Ðăng từ bên
ngoài thôn làng. Vừa gặp lại nhau, ngài Ðại Thừa Ðăng liền cho tôi y phục để
mặc, rồi dẫn tôi tới một bồn nước để tắm gội trước khi vào làng.
Từ nơi đó, chúng tôi đi khoảng vài ngày thì đến tu viện Na Lan Ðà. Nơi
đó, chúng tôi lễ tháp Căn Bổn (Mulagandhakuti). Kế đến, tôi hành hương lên núi
Linh Thứu và thấy một đống y phục được cất gọn gàng bên trong. Thứ đến, tôi tới
chùa Ðại Giác, lễ chân dung tượng Phật.
Ðược chư tăng và kẻ tục ở Sơn Ðông cúng dường một mảnh lụa dầy nhuyễn,
tôi bèn may y ca sa đúng theo lượng của Như Lai rồi thành kính cúng dường lên
thánh tượng. Luật sư Huyền ở Bộc Châu đã đưa cho tôi hàng trăm ngàn cây bảo cái
để cúng dường đức Như Lai. Tôi thay mặt thiền sư An Ðạo lễ bái tượng Phật ở cội
Bồ Ðề thể theo lời yêu cầu thuở xưa. Với lòng thành kính tột bậc và tâm bất
phân biệt, năm vóc gieo xuống đất, tôi lễ bái thánh tượng Phật đà. Vì muốn báo
đền bốn trọng ân[37]
ở đất Ðông Hạ (nước Tàu) cùng hóa độ pháp giới hàm linh, tôi nguyện được vào sơ
hội Long Hoa, gặp đức Thế Tôn Từ Thị, để khế hợp chân tông, đắc trí vô sanh.
Sau đó, tôi lễ bái các thánh tích khác, rồi đi ngang qua Phương Trượng (ở
nước Khuất Câu Thi). Hành hương đến đâu, tôi đều vận tâm chân thành mà lễ bái.
Tôi lại vào Lộc Viên, leo lên núi Kê Túc, rồi trú lại tu viện Na Lan Ðà hơn
mười năm để tầm cầu gom góp kinh điển.
Thời gian sau, tôi đi theo tuyến đường cũ để trở về cố hương. Trước khi
đến nước Ðàm Ma Lập Ðề, tôi lại gặp một bọn cướp, nhưng thoát nạn đao kiếm, mà
được toàn mạng trong lằn tơ kẻ tóc.
Từ hải cảng, tôi theo thuyền đến nước Yết Trà, mang theo hơn năm trăm
ngàn ba tạng kinh điển bằng tiếng Phạn, mà trơng đó có hơn một ngàn quyển kinh
luận đã được phiên dịch ra tiếng Tàu. Trên đường đi, tôi ghé qua thành phố đông
dân cư ở nước Thất Lợi Phật Thệ.
46. Pháp sư Thiện Hạnh ở
Tấn Châu.
Pháp Sư xuất gia từ thuở ấu niên, rồi rời quê quán, đến Ðông Sơn tầm thầy
học đạo. Lúc trưởng thành, Pháp Sư học luật nghi và thích tu theo Minh Chú
(Vidyamantra). Tánh tình nhu hòa, điềm đạm cùng giản dị. Kính tôi (Nghĩa Tịnh)
làm Thầy và lại theo tôi qua nước Thất Lợi Phật Thệ. Chẳng may, tại nơi đó,
Pháp Sư bị bịnh ung thư nên phải theo một chiếc thuyền nhỏ trở về nước Tàu vào
lúc khoảng hơn bốn mươi tuổi.
47. Pháp sư Linh Vận ở
Nhưỡng Dương.
Pháp danh tiếng Phạn của Pháp Sư là Bát Nhã Ðề Bà (Prajnadeva). Xuất gia
từ thuở ấu niên, Pháp Sư có chí khí và nghị lực kiên cường hơn người. Với ước
muốn truy tầm thánh tích, Pháp Sư cùng với vị tăng họ Triết từ Nam Hải qua
Thiên Trúc.
Pháp Sư học tinh thông tiếng Phạn và lấy sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh
làm bổn hoài. Do đó, đi đến đâu, Pháp Sư đều được quốc vương dân chúng kính
trọng lễ bái.
Khi đến tu viện Na Lan Ðà, dưới cội Bồ Ðề, Pháp Sư vẽ lại chân dung của
đức Từ Thị Di Lặc. Bức tượng này được Pháp Sư họa lại rất khéo léo và tỉ mỉ
theo đúng kích thước khuôn mẫu của bức tượng chánh, với những đường nét uyển
chuyển tuyệt vời mà các họa sĩ danh tiếng cũng không thể sánh bì. Sau này, trở
về cố hương Pháp Sư vận dụng hết mọi tài đức để hoằng dương Phật pháp. Với tài
năng thiên tánh sẳn có, Pháp Sư phiên dịch Thánh điển (ba tạng kinh điển) rất
chân thực, gọn gàng, trong sáng dễ hiểu.
48. Thiền sư Tăng
Triết ở Phong Châu.
Thuở ấu thơ, Thiền Sư rất mực ngay thẳng, chân thực, đứng đắn; tánh tình
thâm trầm, và sớm thích cửa huyền môn (Phật pháp); cơ giải ngộ rất vi huyền,
đàm luận sắc xảo lanh lợi, tài hùng biện hơn người, thường ăn nói cùng hành
động như đang ở trong đám đông.
ThIền Sư nhiệt thành nghiên cứu thâm sâu về tạng luật và tinh thông lý lẽ
thiền môn. Thiền Sư cũng từng bảo rằng hai môn luận Trung Quán và Bách Pháp tối
cực quan trọng và có mối liên hệ với luận của hai ông Trang và Lưu.
Vì luôn ngưỡng mộ thánh tích, Thiền Sư theo thuyền đi Thiên Trúc. Tới
nơi, Thiền Sư thường tùy duyên mà đi khất thực.
Hành hương lễ bái các thánh tích ở những vương quốc xung quanh xong,
Thiền Sư tiến về phía đông Thiên Trúc, đến nước Tam Ma Ðàn Tra (Samatata). Nơi
đó, quốc vương Hạt La Xã Bạt Thâu, thâm tín ngôi Tam Bảo và là một đại cư sĩ.
Lòng nhiệt thành thâm tín Phật pháp của thiền Sư thật xưa nay rất hiếm
thấy. Mõi ngày, Thiền Sư vừa tự tay nắn trăm ngàn tượng Phật nhỏ, y theo hình
dung của đức Thế Tôn, cùng tụng trăm ngàn câu kệ trong kinh Ðại Bát Nhã. Thiền
Sư dùng trăm ngàn nhành hoa tươi, chất cao bằng đầu người, để cúng dường những
tôn tượng đó.
Vào những dịp đại lễ, thánh tượng Quán Âm được khiêng đi diễn hành trước
xa giá của hoàng gia. Cờ xí, tràng hoa, và tràng phan bay phất phơ trong gió
cùng âm thanh của chuông trống kèn nhạc vang rền khắp hư không. Chư tăng cung
thỉnh tượng Phật dẫn đầu đoàn hành lễ và theo sau là quốc vương, quần thần cùng
dân chúng. Trong vương thành, hơn bốn ngàn tăng ni được quốc vương cúng dường
thức ăn.
Mỗi ngày, sứ giả triều đình được phái vào các ngôi chùa, đến từng phòng,
chấp tay thỉnh vấn về cuộc sống của chư tăng. Thay mặt quốc vương, họ tác bạch
với vị tăng trụ trì:
- Ðại Vương xin vấn an quý Ðại Ðức có ngủ được an lành chăng?
Tăng đáp lễ:
- Xin nguyện Ðại Vương không bịnh hoạn, sống trường thọ, và quốc gia thái
bình, nhân dân an lạc.
Sứ giả lại báo cáo và bàn luận về những việc quốc sự.
Chư đại đức Thiên Trúc bác học, thông minh, trí huệ quảng đại, tài cán
siêu quần. Chư tăng thuộc mười tám tông phái Hữu Chúng Bộ đều tinh thông liễu
giải đại luận ngũ minh. Từ mọi góc trời, các ngài đồng tụ hội tại vương thành.
Lòng nhân hậu từ bi của quốc vương vang xa khắp mọi miền nên mới vân tập số
đông chư đại đức bác học như thế. Quốc vương nước này thật là một viên ngọc
trân quý giữa các quốc vương xưa nay.
Thiền sư Tăng Triết trú ở chùa Vương Tự (Raja-vihara) và được quốc vương
cung kính lễ bái rất đặc biệt. Nơi đó, Thiền Sư học tiếng Phạn ngày một tiến
bộ.
Nghĩa Tịnh không gặp được Thiền Sư. Khi viếng thăm chùa Vương Tự, Nghĩa
Tịnh được chư tăng bổn tự cho biết là Thiền Sư đã từng trú ở đó vào lúc trên
bốn mươi tuổi.
49. Huyền Du, đệ tử
của thiền sư Tăng Triết, đến từ nước Cao Ly.
Huyền Du theo tôn sư đến nước Sư Tử để thọ giới cụ túc và trú lại nơi đó
suốt cuộc đời.
50. Luật sư Trí
Hoằng (Mahaprajna) ở Lạc Dương.
Luật Sư vốn là cháu của sứ quân Vương Huyền Sách, một người đã từng phụng
mạng nhà vua dẫn đoàn sứ giả sang Tây Vức. Từ thuở nhỏ, Luật Sư đã sớm hiểu rõ
sự vô thường của thế gian. Luật Sư rất khinh khi những kẻ hào phú ăn không ngồi
rồi, vô tích sự, mà thích xả bỏ dục lạc thế gian, cùng xa lánh thế tình. Tánh
tình của Luật Sư hòa nhã, nhưng chẳng hề động tâm vì lời vuốt ve nịnh bợ.
Xuất gia xong, Luật Sư đến núi Thiếu Lâm, và chỉ ăn trái cây để sinh sống
tu hành. Luật Sư thường tụng điển, và kiêng kỵ những nơi ồn náo, cùng thích trú
những chỗ tịch tĩnh lặng lẽ như chư thánh tăng. Thư pháp của Luật Sư rất tuyệt
vời.
Thứ đến, Luật Sư rời Bát Thủy, tới Tam Ngô, xả bỏ tất cả, mặc y ca sa,
theo giáo thọ sư là Soa Thiền (Dhyanarasmi), hành hạnh khất sĩ. Tuy muốn tiếp
thừa trí huệ của tôn sư nhưng chưa thành tụu. Luật Sư lại đến Kỳ Châu, lễ bái
thiền sư họ Nhẫn và được chỉ dẫn cách thanh tịnh thân tâm, nhưng vẫn chưa liễu
ngộ tâm tánh.
Kế đến, Luật Sư vượt sông Tương, băng qua núi Hành Lĩnh, vào chùa Quế
Lâm, rồi ẩn mình dưỡng tâm tu hành nơi rừng sâu núi thẳm trong nhiều năm. Nơi
đó, Luật Sư y chỉ theo thiền sư họ Tịch. Ngắm nhìn vẽ thanh tú hùng vĩ của núi
sông rừng nội, Luật Sư bèn lấy bút viết kệ diễn đạt cảm giác về khung cảnh
thiên nhiên ở xung quanh cùng tâm tư hoài vọng của người viễn xứ.
Nương nhờ các bậc thạc đức ở vùng Tam Ngô, Luật Sư đạt được pháp ích sung
mãn. Lại nữa, nhờ các vị thức giả ở Cửu Giang chỉ điểm mà Luật Sư thông suốt
được diệu lý của Phật pháp.
Luật Sư luôn nguyện ước sang Thiên Trúc để lễ bái các thánh tích. Dịp may
đến, vừa gặp mặt nhau thì Luật Sư cùng thiền sư Vô Hành đồng khế ước du hành
sang Tây Vức. Ðến Hợp Phố, Luật Sư lên thuyền vượt trùng dương. Vì thời tiết
xấu, gió to sóng lớn, Luật Sư phải ở lại Thượng Cảnh, rồi tiếp tục cuộc hành
trình tới Giao Châu, và an cư kiết hạ tại nơi đó. Thứ đến, tại hải cảng, Luật
Sư lên thuyền đến nước Thất Lợi Phật Thệ (Sri-bhoga) ở Nam Hải. Kinh nghiệm về
chuyến du hành được tóm tắt ghi lại trong quyển nhật ký của thiền sư Vô Hành.
Qua Thiên Trúc, đến chùa Ðại Giác, Luật Sư trú tại đó trong hai năm để
chiêm ngưỡng đảnh lễ tôn nhan của đức Từ Phụ, cùng học và đọc tụng kinh điển
tiếng Phạn, được tiến bộ rất nhiều. Sau khi học Thanh Luận (Sabda Sastra), Luật
Sư thông thạo hiểu rõ nghĩa lý trong kinh tiếng Phạn. Luật Sư cũng học luật
nghi, tập đối pháp, liễu giải Câu Xá (Kosa) cùng Thiện Nhân Minh (Hetuvidya).
Luật Sư học giáo nghĩa đại thừa tại tu viện Na Lan Ðà và giáo lý tiểu
thừa tại chùa Tín Giả. Là một danh tăng, Luật Sư nghiêm trì giới luật tinh mật.
Là một học tăng, Luật Sư chuyên cần tinh tấn tu học, không để lãng phí giây
phút nào. Kinh luật do luật sư Ðức Quang (Punyaprabha) chú giải, Luật Sư đều
nghiên cứu kỹ càng. Nghe lời kinh luận nào, Luật Sư đều có khả năng dịch ra
tiếng Tàu ngay lập tức. Là một nhà du hành, Luật Sư không mang theo gì hết, trừ
quyển sổ tay. Luật Sư thường ngồi tọa thiền, ít muốn biết đủ, thanh tịnh, giản
dị chân thật, kính bậc thượng tọa, nhún nhường người hạ tọa.
Luật Sư hành hương đến núi Linh Thứu (Vulture's Peak) gần thành Vương Xá
(Rajagrha), vườn Lộc Uyển (Mrgadava), Thiên Giai (Deva Sopana), tịnh xá Trúc
Lâm (Mangogrove vihara), Sơn Huyệt.
Ước mơ dài lâu nay đã được thành tựu. Mọi nơi, Luật Sư đều tỏ lòng chân
thành cung kính lễ bái. Luật Sư thường cúng dường y ca sa và bình bát của mình
cúng dường cho những vị tăng khác.
Ðương thời, tại tu viện Na Lan Ðà, thức ăn thượng hảo luôn được cúng
dường cho chư tăng thường trú. Trong thành Vương Xá chư tăng đều được cung cấp
tất cả vật dụng cần thiết.
Trú tại trung Thiên Trúc sau tám năm, Luật Sư tới nước Yết Chập Di La
(Kashmir) ở miền bắc, rồi sống ở nơi đó như quê hương của mình. Nghe đâu thầy
Lâm Công là vị pháp hữu thân mật của Luật Sư. Từ đó, không ai biết Luật Sư tu
hành tại nơi nào. Song, Luật Sư rất có công trong việc phiên dịch kinh điển từ
chữ Phạn qua chữ Tàu.
51. Thiền sư Vô Hành ở
Kinh Châu.
Thiền Sư là người Giang Lăng ở Kinh Châu. Pháp danh tiếng Phạn của Thiền
Sư là Bát Nhã Ðề Ba (Prajnadeva). Tàu dịch là Huệ Thiên. Tánh tình của Thiền Sư
hòa nhã, điệu bộ khiêm nhường, bẩm chất nhân đức, hoài bão cao xa, tâm tư hiếu
học; thuở niên thiếu thường đến thư viện đọc sách. Năm hai mươi tuổi, thời điểm
quan trọng trong cuộc đời, Thiền Sư được nhà vua ban danh hiệu Kim Mã Môn[38].
Thiền Sư nghiên cứu thâm sâu cổ điển của trăm nhà triết học cùng Tam
Kinh. Vị tăng bác học tài ba này được nổi danh như là một bậc thức giả trong
toàn châu thành.
Luồng kiến thức thanh tịnh của Thiền Sư tỏa sáng khắp cả vùng Tam Giang
và Thất Trạch. Kiến thức của Thiền Sư như thác nguồn đổ xuống các dòng sông.
Thiền Sư thừa hưởng quả tốt của nghiệp lành trong đời quá khứ.
Thiền Sư rất ngưỡng mộ Phật pháp, cánh cửa huyền khai mở nguồn giác.
May mắn thay, được năm vị danh tăng khai đạo, Thiền Sư tiếp tục tầm cầu
tri thức. Trú tại đạo tràng Ðẳng Giới, Thiền Sư bắt đầu tu học Phật pháp với
các pháp lữ khác. Thiền Sư y chỉ theo pháp sư Huệ Anh, trụ trì chùa Ðại Phước
Ðiền, làm bậc Giáo Thọ Sư (hay Thân Giáo Sư Hòa Thượng-Upadhyaya). Thiền Sư
cũng là đệ tử bậc thượng thủ của vị A Xà Lê Kiết Tạng (Sriganha).
Mỗi thế hệ được đánh dấu bởi những bậc vĩ nhân.
Thiền Sư chuyên tâm nơi lâu đài Bát Nhã, ý chí cư trú tại thiền môn, xả
bỏ thế tình, vãng lai non nước. Mỗi khi đàm luận về lý huyền, Thiền Sư thường
xiển khai những lời triết ngôn. Tuy là kẻ hậu sanh, nhưng danh đức vượt bậc
tiền bối.
Lúc tấn đàn thọ giới cụ túc cùng với hơn hai mươi vị pháp hữu, Thiền Sư
đứng đầu làm bậc thượng thủ mà không ai có thể sánh bằng.
Trong hang sâu, Thiền Sư ẩn cư tụng kinh Pháp Hoa Diệu Ðiển
(Saddharma-Pundarika) cùng những bộ kinh Ðại Thừa khác, mà chưa đầy một tháng
đã xong bảy quyển.
Nhớ câu: "Rọ tre để bắt cá. Cầu lý lẽ để tầm chân lý", Thiền Sư
bèn tham phương tầm danh sư thần khải để bước vào cửa định môn, hầu mong đoạn
phiền não, trừ nghiệp hoặc, đắc giải thoát. Vì vậy, Thiền Sư chống tích trượng
đến Cửu Giang, qua Tam Việt, vượt Hành Nhạc, tới Kim Lăng. Trên núi Sùng Hoa,
Thiền Sư ẩn cư tụng kinh tu hành.
Thiền Sư lại vân du khắp núi non ở phương bắc, với mục đích tầm cầu thiện
tri thức cùng bậc trí giả tinh thông liễu triệt thiền môn để vào định môn, phát
minh tâm địa.
Vượt núi non hiểm trở ở phương tây, Thiền Sư đến miền đông y chỉ theo
luật sư Ðạo Tuyên, bậc thạc đức nổi danh đương thời. Thiền Sư lại lắng nghe
những lời đàm luận về kinh luận, cùng bàn thảo về những lễ nghi quy tắc xưa
nay. Trí huệ của Thiền Sư thâm sâu như biển cả, cao ngất như núi ngàn.
Sau này, Thiền Sư cùng với ngài Trí Hoằng theo thuyền thuận giớ đến nước
Thất Lợi Phật Thệ chỉ trong vòng một tháng. Quốc vương tiếp đãi trọng hậu, rải
hoa và gạo vàng cung nghinh, tứ sự cúng dường. Quốc vương kính trọng Thiền Sư
như bậc thượng khách của hoàng gia. Biết Thiền Sư từ nước Tàu đến, quốc vương
lại càng khâm kính.
Sau này, trong mười lăm ngày, Thiền Sư theo thuyền của hoàng gia, đến
châu Mạc La Du, rồi tới nước Yết Trà vào nửa tháng sau. Cuối mùa đông, Thiền Sư
lại lên thuyền đến nước Na Già Bát Ðản Na [39]
trong vòng một tháng. Từ đó, thêm hai ngày, Thiền Sư đáp thuyền đến nước Sư Tử,
đảnh lễ cúng dường xá lợi răng Phật. Khởi hành hướng về phía đông bắc từ nước
Sư Tử, Thiền Sư theo thuyền đến nước Ha Lợi Kế La (Harikela) ở miền đông của
đông Thiên Trúc, tức là một phần đất của Nam Thiệm Bộ Châu (Jambudvipa), trong
vòng một tháng. Sau một năm trú tại đó, cùng với thầy Trí Hoằng, Thiền Sư từ từ
đi về miền đông Thiên Trúc. Tu viện Na Lan Ðà cách nơi đó hơn một trăm do tuần.
Nghỉ ngơi chốc lát, Thiền Sư lại tiến đến chùa Ðại Giác. Không những được quốc
vương nước đó cung kính nghinh đón, sắp đặt chỗ ngơi nghỉ trong chùa mà Thiền
Sư lại còn được ban chức trụ trì, một chức vị danh dự và hiếm có nhất ở Tây
Vức. Song, thầy trụ trì chỉ có quyền cho phép khách tăng trú ở thọ thực hay
không thôi.
Kế đến, Thiền Sư tới tu viện Na Lan Ðà, nghe luận bàn về Du Già, học
Trung Quán, cùng nghiên cứu tường tận luận Câu Xá, và thâm cầu luật điển.
Thiền Sư lại đến chùa Ðê Yết Trà (Tiladhaka), cách tu viện Na Lan Ðà hai
do tuần về hướng tây. Nơi đó, có chư đại đức thiện tri thức giảng giải luận
Nhân Minh (Hetuvidya). Ngồi trên chiếu tre tỏa hương trầm, Thiền Sư thường đọc
những tác phẩm luận giải của các ngài Trần Na (Dinnaga) và Pháp Xưng [40].
Có lẽ Thiền Sư đã mở được chìa khóa để bước vào cửa u huyền.
Tâm tình vượt ngoài thế tục, ít muốn biết đủ, Thiền Sư thường mang bình
bát đi khất thực. Mỗi khi rảnh rỗi, Thiền Sư thường dịch kinh A Hàm, hay A Cấp
Ma (Agama), và lược thuật lại sự kiện nhập Niết Bàn của đức Thế Tôn trong ba
quyển. Trước khi trở về bổn quốc, Thiền Sư đã phiên dịch xong quyển luật nghi
của Nhất Thiết Hữu Chúng Bộ. Quyển luật nghi này rất tương đồng với bản dịch
của thầy Huệ Ninh. Song, việc phiên dịch các bộ luận khác không có tiến triển
cho lắm
Thiền Sư đã từng bảo rằng thân tuy muốn trụ tại Thiên Trúc, nhưng ý lại
hướng về đất Thần Châu (nước Tàu), nên định quay về cố hương bằng đường bộ ở
phía bắc.
Ngày nọ, Nghĩa Tịnh đến tu viện Na Lan Ðà để tiển đưa Thiền Sư trở về cố
quốc. Ði khoảng sáu do tuần về phía đông, chúng tôi đồng khế ước gặp nhau tại
quê nhà, rồi gạt lệ chia tay tạm biệt. Ðương thời, Thiền Sư được năm mươi sáu
tuổi.
Tánh tình Thiền Sư rất khiêm cung lễ mạo. Vào mùa xuân, Thiền Sư thường
thích xem lá Bồ Ðề rơi lác đác, hay tham dự lễ tẩy dục nơi ao Long Trì, cùng
ngắm nhìn vườn trúc vàng hoe, hoặc nhặt hoa để cúng dường núi Linh Thứu.
Tại bắc Thiên Trúc, mùa xuân vốn là mùa lễ đại tiết. Chư tăng kẻ tục xa
gần đều đến rưới nước lên cội Bồ Ðề. Trên đỉnh núi Linh Thứu lại có hoa vàng
lớn như bàn tay và có màu sắc như vàng thật. Hoa vàng rơi rụng đầy khắp, nên
người người đều tranh nhau leo lên đó mà nhặt. Ðồng thời, trong những cánh rừng
hoang, hoa vàng Xuân Nữ Hoa (Vasanta Mallika) nở rộ khắp nơi.
Lần nọ, Nghĩa Tịnh cùng với Thiền Sư leo lên đỉnh núi Linh Thứu để lễ bái
cúng dường. Khi nhìn về hướng bổn quốc, chúng tôi cảm thấy chột dạ đau lòng cho
kẻ ly hương.
Nghĩa Tịnh lại viết kệ u hoài:
"Ngắm xem Linh Thứu chuyển
Nhìn qua Vương Thành xưa
Ngàn năm tuy đã hết
Ao nước vẫn còn trong
Trúc kia mãi xanh miết
Lờ mờ hình đã qua
In đậm trên đường đá
Muôn ảnh đều tan hoang."
Thất Bảo Tiên Ðài (Saptaratna rsi sopana) đã lùi về quá khứ. Lúc trước,
Mỗi lần đức Thế Tôn thuyết pháp, thiên hoa trăm màu rơi khắp nơi. Thời xưa đã
qua, nào còn được nghe tiếng nhạc hoa trời rụng! Hận cho mình sanh sau học
muộn! Ðau lòng thay! Thế gian như ngôi nhà lửa mà người người đều mê mờ không
nhận ra. Buồn thay đảo trân báu luôn bị che lấp như đỉnh núi ngàn.
Chân bước ngoài vạn dặm. Tâm du trên bảy biển[41].
Ba cõi nhiễu nhương đọa vào tà kiến, khiến người người lầm lạc quên chân, duy
chỉ có bậc năng nhân đơn độc được viên ngộ, bằng cách trừ căn trần, tịnh dòng
ái, khai mở đường huyền diệu. Gặp kẻ đói, xả thân mạng. Cứu người sắp chết, gọi
là Thí. Buộc tâm tình theo giới luật như giữ hạt tịnh châu đó gọi là Giới. Mặc
áo giáp nhẫn nhục chống quần tà gọi là Nhẫn. Nếu giữ ba việc trên mà không mỏi
mệt hay giải đãi thì đó là ngồi trên xe nhị thừa.
Quên lao nhọc, vượt chướng ngại, không ngừng tiến bước tầm chân lý, gọi
là Cần. Nhập thâm định, quên vọng tình, gọi là Thiền Ðịnh. Kiếm huệ chặt sương
mù (vô minh), gọi là trí huệ. Vô biên đại kiếp thường luôn tu. Sáu thời chuyên
tâm tôn lục độ. Hóa độ hữu tình tạo công đức. Ðến Kim Hà (hiranyavati) để thị
tịch, quy thường trụ.
Tụng niệm giảng kinh nơi Hộc Lâm (rừng của ngỗng trời) để công đức viên
mãn. Dư âm tiếng tụng kinh của đệ tử Phật vẫn còn vang dội đâu đây. Xuống long
cung nơi biển cả tìm bí điển (kinh điển thần bí). Trong hang đá núi Sơn Xứ kính
ngưỡng chân ngôn. Nhờ có người hoằng hóa, đạo pháp mãi lưu truyền. Ðường sa
mạc, dãy núi tuyết, sông ngòi chảy đồng giống nhau trong buổi sớm. Thủy triều
nhấp nhô trên bờ biển rộng trong thâu đêm. Xả mạng muôn lần để cứu sanh linh.
Thệ vượt hiểm nguy, truy tầm thắng nghĩa. Luôn kỳ vọng ngọn đèn đại pháp
mãi tương truyền. Hai vườn nho của núi Nữ Luân vẫn còn dấu tích. Ba lần chuyển
pháp luân (của đức Như Lai) ở vườn Lộc Uyển chỉ vừa trong nháy mắt. Nơi phía
bắc, ao hồ[42]
trong thành Vương Xá vẫn còn đây. Bao hang đá, năm đỉnh núi, và trăm ao hồ
thường đón mừng núi Linh Thứu. Hoa tươi tỏa sáng khắp mọi nơi. Xuân về hoa lá
Bồ Ðề càng thêm rực rỡ.
Thiền Sư chống tích trượng thẳng đến núi non, và từ từ tới vườn Kỳ Ðà, để
xem nơi đức Như Lai đã từng xả y ca sa, cùng hòn núi do chư thiên mang xuống.
Nghĩa Tịnh dâng cành hoa vàng cúng dường trên điện Phật. Vừa đi nhiễu vừa
ngắm nhìn ngôi chánh điện xưa, cảm giác như thể sống gần đức Thế Tôn.
Thành Vương Xá vẫn còn nằm giữa bóng hình hiện hữu trong đời quá khứ.
Xa cách cố quốc, âu sầu chia ly. Nhớ quê nhà khi những cơn gió buốt thổi
ào ạt lên đỉnh Linh Thứu và nghe tiếng dòng sông Long Hà cuồn cuộn trôi. Hoan
hỷ lắng nghe đàm luận pháp. Ngày qua ngày chẳng hề cảm thấy già đi. Bổn nguyện
xưa nay đã thành tựu, nên phải chống tích trượng, đem kinh về đất Thần Châu
(nước Tàu).
52. Thiền sư Pháp
Chấn (Dharmavikampana) ở Kinh Châu.
Dung mạo Thiền Sư cao ráo, tuấn tú, thanh tao và hòa nhã. Thiền Sư rửa
chân trong dòng sóng thiền; tuy thường tịch tĩnh nhưng vẫn gạn lọc thân tâm
trong biển giới luật. Chư pháp lữ luôn tôn kính và nương tựa vào Thiền Sư.
Thường tụng đọc kinh điển trên núi hay nơi bờ sông.
Thiền Sư thường nôn nóng ước muốn sang Thiên Trúc lễ thánh tích. Thiền Sư
cùng với pháp lữ đồng hương là thiền sư Thừa Ngộ và luật sư Thừa Như ở Lương
Châu, đồng nghiên cứu tu học thâm sâu về những kinh sách cổ điển xưa nay ở
trong và ngoài nước.
Thiền Sư cùng họ đồng giao kết sang Thiên Trúc. Trên chuyến hành hương,
các vị pháp lữ đều có tâm tư nguyện vọng giống như Thiền Sư. Cùng với hai pháp
lữ, Thiền Sư rời Tam Giang, lên thuyền đến Thượng Cảnh, rồi tới nước Ha Lăng.
Vượt qua bao vương quốc và quần đảo, thuyền đến nước Yết Trà.
Qua một thời gian ngắn, thiền sư Pháp Chấn lâm bịnh và tịch vào lúc ba
mươi lăm tuổi. Sau này, thiền sư Thừa Ngộ và luật sư Thừa Như cùng một vị pháp
hữu quày về hướng đông, hy vọng sẽ đến nước Giao Chỉ. Vừa tới nước Chiêm Ba
(Chiêm Thành hay Lâm Ấp) thì thiền sư Thừa Ngộ thị tịch.
Theo lời của người nước Chiêm Thành thuật lại thì luật sư Thừa Như đã trở
về quê quán.
Ba vị tăng rời bổn quốc, nhưng sao không có một ai đến được Thiên Trúc?
53. Pháp sư Ðại Luật ở
Phong Châu.
Pháp Sư ấu niên xuất gia. Lúc trưởng thành tánh tình rất giản dị, thanh
đạm, chân thật, nghiêm nghị. Vì sống cuộc đời ít muốn biết đủ (thiểu dục tri
túc), Pháp Sư thường đi khất thực.
Ước muốn qua Thiên trúc lễ bái thánh tích và hoài vọng đến Vương Thành,
Pháp Sư thường than thở:
- Tuy không được gặp đức từ phụ Thích Ca, nhưng trong tâm hằng niệm nhớ
thiên cung (nội viện cung trời Ðâu Suất) của Bồ Tát Di Lặc. Tự chưa ngắm nhìn
cây Ðại Giác (cây Bồ Ðề), và chân dung của dòng sông Dương Hà (sông Hằng), thì
làm sao thu nhiếp tình cảnh sanh từ sáu căn và tu hành để đạt đến chánh giác
trong ba a tăng kỳ kiếp?
Do đó, niên hiệu Vĩnh Thuần năm thứ hai (682), Pháp Sư mang tích trượng
cùng với các pháp lữ khác khởi hành cuộc vân du tại Nam Hải. Song, sau này Pháp
Sư phải du hành đơn độc vì tất cả pháp lữ kia đều quyết định quay trở về. Mang
theo kinh sách và tượng Phật, Pháp Sư cùng với đoàn sứ giả triều đình đồng
hành. Sau hơn một tháng, thuyền đến châu Thi Lợi Phật Thệ (Sri-vijaya), rồi trú
lại đó trong vài năm. Nơi đó, Pháp Sư tập nói ngôn ngữ người Côn Lôn và học
sách vở tiếng Phạn.
Với phạm hạnh thanh khiết, và tâm chân thành chất trực, Pháp Sư thọ giới
cụ túc nơi đó. Nghĩa Tịnh gặp được Pháp Sư tại nơi ấy. Sau này, Pháp Sư muốn
trở về cố quốc, dâng biểu xin nhà vua xây một ngôi chùa ở tây phương để hoằng
dương Phật pháp, ban ích lợi cho chúng sanh.
Vì vậy, vào rằm tháng hai niên hiệu Thiên Thọ năm thứ ba (690), Pháp Sư
lên thuyền trở về Trường An, và đem theo mười quyển kinh luận vừa mới được
phiên dịch, tức bốn quyển 'Nam Hải Kỳ Quy Nội Pháp Truyện' (Truyện ký nội pháp
của các nước ở Nam Hải được những người trở lại cố quốc mang về), và hai quyển
'Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện' (Truyện ký về chư cao tăng đi du hành sang
Thiên Trúc và các nước lân cận để cầu pháp).
Kệ tán thán:
"Ấu niên từng mộ đạo huyền
Hằng kiên trì tinh tiến tu
Tâm khẩn thành nơi Ðông Hạ
Lòng cầu pháp tại Tây Thiên
Thân quày về đất Thần Châu
Chí lợi sanh thường hoài vọng
Nguyện thập pháp[43]
mãi lưu hoằng
Ngàn thu qua, người chẳng già."
Thêm bốn vị tăng được ghi lại trong quyển 'Trùng Quy Nam Hải Truyện'.
54. Luật sư Trinh Cố ở
Vinh Xuyên.
Pháp danh tiếng Phạn của Luật Sư là Bà La Cấp Ða, Tàu dịch là Trinh Cố.
Luật Sư người Vinh Xuyên, họ Mãnh. Thuở nhỏ, tánh tình từ bi nhân hậu, và luôn
hướng tâm về ngài Huệ Uyển. Năm mười bốn tuổi thì mất cha.
Nhận chân ra chánh giáo và hiểu lẽ vô thường, Luật Sư hằng chánh niệm ước
mong qua thánh cảnh. Ðến chùa Ðẳng Từ ở Phiếm Thủy, Luật Sư y chỉ theo ngài Huệ
Uyển, rồi làm trụ trì nơi đó. Vì tâm ý luôn hướng về đạo giáo, nên Luật Sư có
khả năng tụng Ðại Kinh. Chẳng may, ba năm sau tôn sư của Luật Sư lại thị tịch.
Sau này, Luật Sư đến chùa Lâm Lô cùng những tự viện khác ở Tương Châu để
tầm sư học đạo. Tự muốn đóng cửa tu thiền định, nhưng xét lại chưa đủ trí phân
chân ngụy, nên Luật Sư đến Ðông Ngụy nghe giảng luận Duy Thức. Kế đến, Luật Sư
qua An Châu bái kiến thiền sư Ðại Du để học kinh Phương Ðẳng.
Thời gian sau, vào ngày nọ, đột nhiên có một bóng hình kỳ diệu hiện ra
trước mắt.
Luật Sư lại đến Kinh Châu, vượt bao núi non sông ngòi để tìm cầu thiện
tri thức với ước vọng được nghe những gì chưa từng nghe.
Tới Nhưỡng Châu, gặp thiền sư Thiện Ðạo (một vị tổ sư của tông Tịnh Ðộ),
thọ thắng hạnh của Phật Di Ðà. Ao ước xả uế độ, tâm thú hướng về miền An Dưỡng.
Luôn nhớ đến hạnh nguyện của đại sĩ Thiện Thương. Sao tánh duy thức (thức tánh)
không chuyển thành nơi thanh tịnh (tịnh phương)?
Kế đến, Luật Sư tới tham bái và y chỉ theo thiền sư họ Trừng ở chùa Khôi
Giác tại núi Hiện Sơn để nghiên tầm tham cứu luật điển. Nghe nửa lời của thiền
sư họ Trừng, Luật Sư liền hiểu hết ý chỉ. Luật Sư tuyên dương ngũ đức[44]
của Phật đà, học kỹ nhiều bộ kinh luật, thường y theo bốn sự [45],
nhập thâm sâu vào những cảnh giới thiền định, được tẩy rửa bằng bát giải thoát[46],
mà thường ảnh hưởng mạnh mẽ tới các tông phái khác. Trí huệ phi thường và kiến
thức thâm sâu về lục độ[47]
cao ngất như núi ngàn. Không đắm nhiễm năm trần[48],
chẳng hề kinh sợ chín phiền não[49],
ngoài vượt bốn dòng[50],
trong tâm thường hành ba định[51].
Chư tăng kẻ tục đều khâm ngưỡng cung kính Luật Sư như một vị tôn sư đạo
trưởng. Ðược chiếu chỉ đặc biệt của nhà vua cho vời vào đất Thần Ðô. Nơi nước
Ngụy, cư trú tại chùa Ðông Tự trong vài năm. Lúc hơn hai mươi tuổi, ngồi dưới
chân của thiền sư (họ Trừng), Luật Sư thọ viên cụ (giới cụ túc). Chỉ trong vòng
một năm là hiểu rõ tổng quát về luật nghi.
Luật Sư lại đến An Châu, theo luật sư họ Tú chuyên tâm đọc văn sao của
luật sư Ðạo Tuyên mà không còn nghi ngờ câu hỏi nào, có thể vượt hơn tôn giả Ưu
Ba Ly, quán thông năm biến[52],
thọ y chỉ từ Tỳ Xá Nữ, liễu giải hoàn toàn thất tụ[53].
Theo giới luật, học hết luật nghi trong năm năm thì mới được đi du phương.
Song, chưa đến tuổi mà Luật Sư đã khế hội hết các ý chỉ luật nghi. Rời quê nhà
đã mười năm, Luật Sư đạt được mục đích trước tuổi.
(Luật sư họ Tú vốn là đệ tử thượng thủ của luật sư họ Hưng ở Thục Quận.
Năm hai mươi tuổi thọ giới cụ túc và tiếp tục trú ở Thục Xuyên. Học luật nghi
trong bốn năm với một vị hòa thượng. Ðến Trường An làm khách y chỉ của luật sư
Ðạo Tuyên.
Như ngỗng chúa uống sữa lọc nước, Luật Sư chỉ tiếp nhận phần tinh túy của
trí huệ viên mãn để đạt đến nơi hoan hỷ diệu trì. Trong mười sáu năm không rời
thầy mình một bước.
Luật Sư nghiên cứu tinh tường học thuyết và tư tưởng của các tông phái.
Bản sớ sao về luật nghi của Luật Sư vốn là bản chính của Luật Tông. Thứ đến,
Luật Sư tới Tam Dương ở Bát Thủy, rồi qua Hoàng Châu, nơi sanh thành, thuật lại
những việc đã thành tựu. Kế đến qua An Châu hưng truyền rộng rãi luật giáo. Chư
vương thứ sử đều cung nghinh tôn kính. Trong luật nghi có nói: "Nơi nào
nếu có chư luật sư, thì những người này đồng Ta (Phật Thích Ca) không
khác."
Trú tại chùa Thập Phương, Luật Sư thị tịch vào lúc bảy mươi tuổi. Luật Sư
giữ giới hạnh tinh nghiêm, tai mắt tinh tường lanh lợi. Luật Sư chính là bậc
lương đống trong nhà Phật vào đương thời, và cũng là bậc vĩ nhân cho đời hậu
thế.
Thật đúng là tuy khác xứ nhưng hạt châu ở sông Hán vẫn giống như viên
ngọc ở đất Thần Kinh. Cành quế và lá lan đều cùng mùi hương tuy trổ khác thời
tiết.)
Luật sư Trinh Cố xem đọc tinh thông luật điển, cùng các bộ kinh luận
khác, rồi lại tụng kinh Pháp Hoa, Duy Ma Cật cả ngàn lần. Tâm tâm thường nhiếp
tụ, niệm niệm hằng trì giới luật, điều ngự ba nghiệp, bốn oai nghi không hoại.
Kế đến, Luật Sư qua Nhưỡng Châu ở với một vị tăng, chú tâm nghe giảng về
Tô Ðát La (lời thuyết pháp của Phật) cùng tham tầm luận Ðối Pháp (luận A Tỳ
Ðàm), lại thông uẩn xứ và thường mặc y châu đạm bạc.
Băng qua sông Nhưỡng Thủy, Luật Sư lên núi Lô Sơn, ngưỡng thượng đức
(Phật đà), thanh trần (không nhiễm thế tục).
Trú tại chùa Ðông Lâm, Luật Sư hoằng truyền Phật pháp. Luật Sư lại có ý
muốn qua nước Sư Tử, đảnh lễ Phật Nha (răng Phật) cùng những thánh tích khác.
Trong niên hiệu Thùy Củng (685-688), Luật Sư chống tích trượng đến Quế Lâm; vì
thích hóa du phương, nên dần dần tới những vùng thung lũng xa xôi và được đức
Như Lai âm thầm gia hộ để tiến bước hành hương. Lúc tới Phiên Ngu ở Quảng Phủ,
chư Phật tử cung thỉnh Luật Sư khai giảng luật điển. Ðương thời thánh chúa (nhà
vua) Ðại Ðường bổ nhiệm tam sư[54]
vì muốn vần dương Phật pháp chiếu soi ánh sáng chánh giáo, phá tan đêm dài u ám
của ngu mê, và làm chiếc thuyền từ đưa người qua bờ bỉ ngạn.
Luật Sư được xưng tôn cung kính là bậc mẫu mực nhất của Luật tông.
Thế nên, tại đạo tràng Tam Tạng, đại chúng lại cung thỉnh Luật Sư giảng
giải Tỳ Nại Da (luật điển). Trong chín hạ (chín năm) giảng xong bảy biến[55].
Luật Sư không những giáo hóa chư pháp đồ (tăng sĩ) mà còn dạy dỗ người thế tục.
Ðương thời tại chùa Chế Chỉ có một vị A Xà Lê, được người người cung
kính. Mỗi lần đăng tòa giảng pháp, Ngài luôn tự thân đề trạng oai nghi mẫu mực
cho chư đệ tử với tâm thành không mỏi mệt. Ấu niên xuất gia, cao hạnh phẩm
tiết. Tuy tuổi ngoài bảy mươi mà Ngài vẫn hằng cung kính hành trì ngũ biến. Chỉ
riêng người có giới đức tròn vẹn mới đạt đến thượng trí (trí huệ cao thượng).
Nhờ sự giáo huấn của vị A Xà Lê đó, luật sư Trinh Cố vượt qua được những
dòng sóng trong ao nước thiền định và đạt tới đáy thẳm của biển pháp. Sau khi
vượt qua những rặng núi của tâm thức thì đạt đến tuyệt đỉnh của trí huệ Bát
Nhã. Luật Sư thâm hiểu cuộc đời huyễn mộng và ngộ được nguồn tâm. Tuy thể tánh
các pháp đều là không, nhưng phước nghiệp hữu vi do làm lợi ích quần sanh vẫn
có. Luật Sư làm chiếc cầu vô thượng để chúng sanh vượt dòng (thế tục). Những
làn bút pháp viết kinh tạng của Luật Sư trưởng dưỡng tâm linh chúng sanh. Thật
vậy, tri thức của Luật Sư ảnh hưởng đến muôn loài. Luật Sư thường khuyến khích
bốn chúng là phải nên cùng tu học luật nghi với giáo điển.
Rời chư đệ tử, Luật Sư vào núi Hạp Sơn để ẩn cư dưới gốc tùng hầu mong tu
thiền định. Trụ trì chùa Mông Khiêm đến gặp và bảo trụ trì chùa Tân Ngưỡng rằng
luật sư Trinh Cố là hiện thân của chân lý, tri kiến, từ bi và nhân ái. Ngày đêm
quên mình lợi người và hằng kính trọng ý kẻ khác.
Luật Sư muốn an nghỉ nơi sơn môn; định xây ngôi pháp đường cho chư tăng
trú ngụ với dãy hành lang nối liền các thềm cấp, cùng xây lại nền móng chùa, và
đào ao chung quanh chùa, với mục đích chính là hành hạnh tám giải thoát. Lúc
ấy, Luật Sư lập đàn giới để giảng quy củ của Thất Tụ. Luật Sư cũng muốn xây
lăng tẩm đằng sau giới đàn để chứa tro cốt của chư tăng, và lập đàn tràng
Phương Ðẳng để tu Pháp Hoa Tam Muội. Song, dẫu có quyết tâm, nhưng công trình
của Luật Sư chưa được thành tựu. Luật Sư đã viết xong đề mục và thường hành
theo nghi thức Bố Tát[56].
Luật Sư thường than vãn:
- Trước chẳng gặp Thích Phụ (đức Thích Ca), sau lại chưa tương kiến Từ
Tôn (Phật Di Lặc), thì làm sao khởi hạnh tu hành trong thời mạt pháp?
Thế nên Luật Sư cứ trầm ngâm nơi biên tế không hữu và lẫn quẩn tại cửa
của các vị A Xà Lê.
Ðương thời, Nghĩa Tịnh lên thuyền ở cửa biển nước Phật Thệ (Bhoga) để gởi
thơ về Quảng Châu nhờ người mua giấy viết bút mực hầu sao chép kinh điển tiếng
Phạn, cùng mướn người viết kinh. Song, do thuận gió, thương nhân giăng buồm cao
ngất, nên thuyền đưa Nghĩa Tịnh trở về cố hương. Dẫu có muốn xuống thuyền cũng
không được; đây thật là nghiệp duyên đưa đẩy vận mệnh và vượt ngoài dự tính sắp
đặt của con người.
Vĩnh Xương nguyên niên (A.D 689), thuyền đến Quảng Phủ. Nghĩa Tịnh gặp
lại chư pháp lữ cùng Phật tử. Tại chùa Chế Chỉ, Nghĩa Tịnh than với chư tăng:
- Vốn muốn qua Tây Quốc (Thiên Trúc) ngõ hầu sau này hoằng truyền Phật
pháp. Trên đường trở về cố quốc, trú tại Nam Hải. Từ Thiên Trúc, mang về hơn
năm trăm ngàn bài kệ của ba tạng giáo điển, nên phải trở lại nước Phật Thệ.
Song, vì đã ngoài năm mươi, khi vượt trùng dương một lần nữa thì e rằng cỗ xe
ngựa nứt nẻ khó bảo và sinh mạng thật rất mong manh. Nếu sương sáng chợt rơi
thì kinh điển phó chúc cho ai? Kinh điển thực là quan trọng, vậy ai có thể cùng
Nghĩa Tịnh trở lại đó mà mang về bổn quốc? Lại nữa, phải tìm ra đúng người để
phiên dịch kinh điển.
Ðương thời, đại chúng đồng bảo:
- Cách đây không xa, một vị tăng pháp hiệu là Trinh Cố, vốn đã từng thâm
hiểu luật giáo và sớm có lòng chân thành tín kính. Vị tăng này chắc sẽ là một
vị pháp hữu hay nhất.
Nghe thế, Nghĩa Tịnh bảo rằng đây là vị tăng mà tôi muốn tìm kiếm. Kế
đến, Nghĩa Tịnh viết thơ thỉnh cầu luật sư Trinh Cố cùng đi du hành và cho biết
tổng quát về ngày giờ chuẩn bị khởi hành. Mở lá thơ ra xem, Luật Sư bèn vui
mừng chấp thuận rời rừng cây tùng cùng dòng suối nguồn. Trước cửa Thạch Môn,
Luật Sư đắp y trên vai tề chỉnh bước vào chùa Chế Chỉ. Tuy mới gặp, nhưng chúng
tôi cảm thấy như đã quen nhau tự bao giờ vì tâm đồng ý hợp, chung niềm hoài
vọng và nguyện ước; cùng thệ hy sinh năm vóc hình vì Phật pháp và xả bỏ bụi
trần lao. Vui mừng, chúng tôi đàm luận nhiều việc liên hệ về chuyến hành trình
tương lai.
Luật sư Trinh Cố bảo:
- Khi các bậc cổ đức gặp nhau, họ đồng tương giao hòa hợp mà không cần
nhiều lời giới thiệu. Thời khắc đến, nếu muốn ngừng cũng không được. Tôi xin
nguyện thường tinh tấn hoằng dương ba tạng giáo điển và trợ Thầy đốt ngàn cây
đuốc chánh pháp.
Khi đến núi Hạp Sơn, chúng tôi chia tay chào tạm biệt trụ trì chùa Mông
Khiêm cùng các vị pháp hữu khác. Trụ trì chùa Mông Khiên bèn làm lễ theo đúng
nghi thức. Thầy không có ý giữ chúng tôi, mà ngược lại còn tùy hỷ cúng dường
tịnh thí, cùng những vật dụng cần thiết với lòng nhiệt thành sâu xa, sau khi
biết hoài vọng đi thỉnh kinh của chúng tôi. Vị trụ trì này không bao giờ lo
lắng về cá nhân của mình, mà luôn niệm nhớ cứu tế giúp đỡ kẻ khác. Chư tăng và
kẻ tục ở Quảng Phủ cũng cúng dường thức ăn và tịnh thí cùng các tư lương khác.
Mồng một tháng mười một niên hiệu Vĩnh Xương (A.D 689), chúng tôi lên
thuyền đi thẳng đến Phiên Ngu, qua Chiêm Thành, hướng tới nước Phật Thệ. Chúng
tôi muốn làm thềm cấp cho chúng sanh bước lên, hay chiếc thuyền từ để cứu giúp
hàm linh vượt sang bờ giải thoát. Tràn đầy niềm sung sướng vì hoài bão của
chúng tôi được thành tựu, và hy vọng rằng sẽ không thối thất trên cuộc hành
trình dài dăng dẳng. Lúc ấy, luật sư Trinh Cố được bốn mươi tuổi.
Tôi viết kệ tán thán Luật Sư:
"Người trí hành nghiệp lành
Do nhờ nhân thiện xưa
Ấu niên gạn lọc tâm
Chí hướng tạo phước đức
Tình tầm cầu thắng nghĩa
Ý nương bậc minh nhân
Không tham hương danh lợi
Ngài chỉ mến hiền đức
Cùng cầu pháp trân bảo.
Hằng thọ trì diệu điển
Liễu đạt nghĩa chân thường
Ðức cao tánh chất trực
Vô úy chẳng khiếm khuyết
Không vọng nghĩ vinh hoa
Thường mong bỏ giày rách
Nếu sống trong khó khăn
Nào hề phải miễn cưỡng
Du phương như ong thợ
Tìm cầu sắc hương hoa
Từ biệt đời sung túc
Cô đơn tầm Hán âm
Việc của bậc triết nhân
Nghiên tầm về luật giáo
Nên hiểu mạch lý đạo
Lại tiến vào huyền cơ
Chí viễn hoài nơi giác thọ
Chống trượng đến Quế Lâm
Vui trèo qua thung lũng
Ngắm vật trong vũ trụ
Truy cổ văn Ðông Hạ
Thỉnh tân giáo về nam
Hoằng bá nơi chưa hoằng
Lưu truyền nơi chưa truyền
Chúc mừng tráng chí kia
Năng vì người tổn mình."
Luật sư Trinh Cố thật là một pháp hữu hiền lương của Nghĩa Tịnh. Khi đến
Kim Châu (Suvarnadvipa) chúng tôi luôn kiên trì giữ Phạm hạnh, nên tình pháp
hữu càng thêm thân mật. Luật Sư đối đãi tôi như huynh đệ, thường giúp đỡ tận
tình trong cuộc hành trình dẫu trên biển cả hay đất liền. Một mai hoài vọng
truyền đăng Phật pháp thành tựu, thì sẽ sống mãi ngàn thu. Lúc đến nước Phật
Thệ, Luật Sư mới cảm thấy thật đã hoàn toàn mãn nguyện. Nghe những pháp gì chưa
từng nghe. Thấy những những thông lệ gì chưa từng thấy. Vừa dịch kinh vừa tiếp
thọ ý chỉ. Tra xem tinh tường sự thông trệ (điều hay việc dở) của những tập tục
mới lạ. Thông minh sáng trí, bác học đa văn. Thường tự thúc giục hành những
hạnh cao quý. Cung kính, cần kiệm, chuyên cần, thân ái, và chẳng hề sợ bóng tử
thần, mà chỉ sợ "Nhiều người nấu thì hư nồi canh". Song, bậc ẩn sĩ
thường trầm lặng xoa dịu nỗi đau buồn thất vọng. Ngọn lửa thuận giớ cháy bừng
và lấp sáng cả ngàn ngọn nến.
Luật sư Trinh Cố có một người đệ tử họ Mãnh, pháp danh là Hoài Nghiệp,
tiếng Phạn hiệu là Tăng Già Ðề Bà (Sangghdeva). Tổ phụ tuy là người miền bắc,
nhưng vì làm quan nên Thầy phải xuống miền nam, và gia đình phải tạm cư tại
Quảng Phủ. Thầy rất mộ pháp và phụng lời chỉ dạy của các bậc sư trưởng. Tuy
tuổi nhỏ mà chí nguyện kiên cường. Gặp tôn sư, hoài niệm hoằng pháp, nên muốn
theo hầu thầy mình. Cắt ái xuất gia khởi lòng từ. Ðến nước Phật Thệ, hiểu tiếng
thổ dân Côn Lôn, học thâm sâu tiếng Phạn, thường tụng niệm luận Câu Xá. Làm thị
giả và dịch giả cho luật sư Trinh Cố.
55. Tỳ kheo Ðạo Hoằng ở
Biện Châu.
Thầy vốn là người Ủng Khâu ở Biện Châu, họ là Cận. Pháp danh tiếng Phạn
là Phật Ðà Ðề Bà (Buddhadeva), Tàu dịch là Giác Thiên. Người cha vốn là bạn của
một thương nhân nên thường du hành khắp phương nam. Do đó ông ta đi khắp vùng
Tam Giang và vượt qua năm ngọn núi (ngũ lãnh), rồi đến Thiệu Bộ và qua Hạp Sơn,
để ngắm xem những thung lũng và đèo núi cheo leo, nhìn thấy những dòng thác
nguồn xanh thẳm, cùng gặp thiện tri thức hầu mong đắp y Thích Tử.
Lúc thơ ấu, Thầy thường được dẫn đi từng vùng này sang vùng khác như bọt
bèo trôi theo nghiệp mà không chút vương vấn. Thầy theo cha và sư tổ đi viếng
nhiều nơi, rồi đến Quế Lâm. Thấy phong cảnh âm u tĩnh mịch, Thầy rất thích thú
mà an trú.
Sau khi xuất gia, cha của Thầy tìm đến thiền sư Học Tịch học Bí Tâm Quan
trong vài năm và hiểu được yếu nghĩa. Khi đến Hạp Sơn, Thầy cũng theo cha mà
xuất gia, và thọ giới cụ túc vào lúc hai mươi tuổi. Thầy lại đến Quảng Phủ và
ra vào cửa Sơn Môn (cửa chùa). Dầu tuổi trẻ và hoài vọng chưa cao, nhưng tánh
tình Thầy rất khí khái. Nghe Nghĩa Tịnh đến nên muốn tới bái kiến. Biết Nghĩa
Tịnh đang trú tại chùa Chế Chỉ, Thầy bèn qua đó tương kiến. Gặp mặt, Thầy cảm
thấy tâm hạnh đồng tương khế với Nghĩa Tịnh. Dầu vận mạng có như thế nào, phải
thường hy sinh (cho sự tầm cầu tri kiến). Nghe rằng tầm cầu tri thức khó khăn
như vượt trùng ba, nhưng đối với Thầy thì chỉ là những gợn sóng trên ao hồ.
Nhìn xem cá voi nên biển cả, Thầy chỉ thấy nó như con cá chép trong ao hồ nhỏ.
Sau này, Thầy tạm biệt núi rừng để du hành đến phương xa. Thầy trở về
Quảng Phủ với luật sư Trinh Cố, rồi theo theo vượt biển Nam Hải đến Kim Châu
(Suvarnabhumi). Nơi đó, Thầy quyết định chép kinh kệ để đức vang tận nghìn thu.
Thầy rất minh mẫn, nhã nhặn, từ tốn; với kiến thức thậm thâm, Thầy biết
nhiều loại thư pháp, cùng học luận lý Trang-Chu. Ðối với Thầy, thể Tề Vật[57]
thật hư ảo, vô ý nghĩa, và Chỉ Mã [58]
lại quá xa vời.
Thầy băng qua bao sông ngòi, đi bộ qua những bãi sa mạc cát nóng. Dẫu đức
hạnh chưa vang xa, nhưng lại được tán thán với dự tính cao cả. Làm sao thực
hiện? Cầu pháp quên thân, không mong hưởng lạc mà chỉ muốn giúp người, chẳng
màng thân thuộc mà xem mọi chúng sanh như gia quyến; coi hàm linh như thân thể
của mình.
Ðến nước Thất Lợi Phật Thệ (Sri-vijaya), Thầy đôn đốc học luật tạng.
Không những phiên dịch kinh điển mà Thầy còn ghi kinh theo thứ lớp vào sổ tay
với mục đích hoằng dương chánh pháp. Thầy ước mong giới châu sẽ tỏa sáng trở
lại để danh hiệu Phật đà vang khắp nơi; cầu viên thành tịch diệt để dẹp trừ
nghiệp nặng. Muốn hoàn thành đại sự phải bắt đầu từ việc nhỏ. Danh tiếng Thầy
phải được lưu truyền vì đã tạo vô lượng phước đức cho thế gian.
56. Tỳ kheo Pháp Lãng
ở Nhưỡng Dương.
Pháp danh tiếng Phạn của Thầy là Ðạt Ma Ðề Bà (Dharmadeva); Tàu dịch là
Pháp Thiên. Tên tục của Thầy là An Thật. Thầy vốn là người Nhưỡng Dương ở
Nhưỡng Châu, và thường trú tại chùa Linh Tập. Gia thế thuộc dòng dõi quý tộc,
lễ nghĩa, và thường làm quan trong triều nội.
Ấu niên xuất gia vì muốn sống đời tu hành. Sau đó, rời quê nhà, đi du
phương, và vượt bao núi non cát đá, đến miền Lãnh Nam. Vừa tới Phiên Ngu, Nghĩa
Tịnh bèn báo tin cho Thầy biết. Tuy tri thức không rộng, nhưng đối đãi với
người rất thâm tình. Ý muốn theo Nghĩa Tịnh vượt trùng dương Nam Hải.
Chưa đầy một tháng, chúng tôi đã đến nước Phật Thệ (Bhoga). Nơi đó, Thầy
bắt đầu hành nghiệp hạnh, ngày đêm chuyên tâm học sách mật Thanh Minh
(Hetuvidya). Từ sáng tinh sương đến chiều xế bóng, Thầy lắng nghe lý u huyền
của luận Câu Xá để bỏ đầy tri kiến. Thiếu một tảng đất thì sẽ không thành một
ngọn núi.
Thầy luôn chân thành học ba tạng giáo điển, và quyết tâm hiểu rõ năm biến
mà không nệ hà lao nhọc. Bẩm chất thông minh, tri thức dồi dào. Với chí nguyện
hoằng pháp lợi sanh, Thầy sao chép kinh điển quên bao khổ nhọc.
Thầy thường đi khất thực, thân chỉ đắp ba y, chân không mang giày dép,
tôn sự tu hành và kính thờ luật nghi. Tuy công chưa thành nhưng luôn cố gắng
đạt đến sở nguyện. Dẫu mọi pháp lữ đều thường lo tự lợi, nhưng chí Thầy luôn
muốn lợi người, nên được người người tôn kính. Tâm thành cung kính, Thầy luôn
hướng về chân lý.
Chí nơi hoằng pháp, nguyện tại lợi sanh. Vì hậu thế, Thầy thắp ngọn đuốc
sáng của đức Từ Thị (Bồ Tát Di Lặc). Ðương thời, Thầy được hai mươi bốn tuổi.
Luật sư Trinh Cố cùng với bốn vị tăng (đã kể ở trên) lên thuyền đến nước
Thất Lợi Phật Thệ (Sri-vijava), rồi ở đó ba năm, dần dần học thông tiếng Phạn.
Thời gian sau, thầy Pháp Lãng đến nước Ha Lăng, an cư kiết hạ, rồi nhuốm bịnh
mà tịch.
Thầy Nhưỡng Nghiệp quyết ở lại nước Phật Thệ (Sri-vijaya) mà không trở về
Phiên Phủ. Chỉ có thầy Trinh Cố và Ðạo Hoằng cùng tôi (Nghĩa Tịnh) là đồng trở
về Quảng Phủ. Chúng tôi ở đó để đợi hai thầy khác trở về.
Luật sư Trinh Cố đến đạo tràng Tam Tạng quảng dương luật giáo, rồi nhuốm
bịnh và thị tịch ba năm sau. Thầy Ðạo Hoằng một mình ở lại Lãnh Nam, rồi từ đó
chẳng còn nghe tin tức. Nghĩa Tịnh có viết rất nhiều lá thư nhưng không thấy
hồi âm.
Ô hởi, bốn vị đồng vượt trùng dương tận lực chân thành thắp lên ngọn đuốc
chánh pháp. Ai biết được nghiệp ngắn dài cùng kẻ đi người ở lại? Nhớ đến họ,
Nghĩa Tịnh thật rất mến thương. Thật khó miêu tả về những con lân phượng. Ðời
người ngắn ngủi nên khó hoàn thành sự nghiệp.
Tất cả đệ tử của bậc Phước Ðiền (đức Phật) phải đồng xan xẻ di sản trí
huệ, và vượt biển khổ Ta Bà. Sơ hội Long Hoa đồng vượt trần lao.
[1] Cửa Thiết Môn là một quan ải nằm ở khoảng giữa Samarkand và Bactria. Nơi đó cách Samarkand khoảng 90 dặm về phía đông nam.
[2] Vào đời Ðông Hán (25-220), kiêu tướng Mã Viện dẫn quân đàn áp dân Tây Tạng. Sau này hắn cũng dẫn quân sang Giao Chỉ, đàn áp cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị), rồi dựng cây cột Ðồng Trụ này.
[3] Vào đời Ðường (618-907), Tàu xâm chiếm Việt Nam, rồi chia nước ta làm mười hai châu: Giao Châu, Ái Châu, Lục Châu, Phúc Lộc Châu, Phong Châu, Thang Châu, Trường Châu, Chi Châu, Võ Nga Châu, Võ An Châu, Hoan Châu, Diễn Châu.
[4] Tốc Lợi (Sogdiana) có thể là phía tây của Kasgarh. Người Tốc Lợi cũng có thể là người Mông Cổ hay Turks.
[5] Ðỗ Hóa La, hay Thổ Hỏa La (Tokharestan), là miền đất của người Tukhara. Ðây là trung tâm văn hóa của người Ấn Ðộ tại Trung Á.
[6] Jalandhara ở Punjab.
[7] Luận Câu Xá (Kosa) do ngài Thế Thân trước tác.
[8] Trung Luận (Pranyamula Satra) do Bồ Tát Long Thọ trước tác. Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán vào năm 409.
[9]
Du Già Thập Thất Ðịa (Saptadasabhumisasatra-Yogacaryabhumi) là
quyển luận mà Bồ Tát Di Lặc khẩu truyền cho ngài Vô Trước.
[10]
Vương Huyền Sách là sứ giả của nhà Ðường (655), sang Ấn Ðộ. Gặp lúc vua
Harsavardhana vừa mất và Arunasva chiếm ngôi, nên ông ta không được tiếp đón
đàng hoàng. Tức giận, ông ta trở lại Tây Tạng, nhờ quân của vua Tây Tạng là
Srongstan-Gampo, kéo sang đánh Arunasva. Cuối cùng, ông bắt Arunasna cùng cướp
rất nhiều châu báu, rồi mang trở về Trung Thổ.
[11] Srongstan-Gampo là vị vua tài ba của nước Tây Tạng, khiến cho vua nhà Ðường phải gã công chúa Văn Thành. Công chúa Văn Thành là một Phật tử thuần thành. Cô ta mang kinh điển và tượng Phật sang cho người Tây Tạng. Người Tây Tạng thường bảo nhau rằng công chúa Văn Thành xứng làm hoàng hậu của ba vị vua nước Magadha, Persia, và Hor.
[12]
Chùa Cung Ái do vua Lương Võ Ðế xây vào niên hiệu Phổ Thông
(520-527).
[13]
La Ta (Lata) nằm phía nam của Gujiarat.
[14]
Câu Thi (Kasi hay Varanasi) là nơi xuất thân của tiền thân đức
Phật Thích Ca.
[15] Lương Luận thuộc về đời Lương nhà Lương (502-557).
[16]
Ha Lăng (Kalinga hay Java) dọc theo vịnh Bengal.
[17]
2. Mạt La Luân (Malayu hay Suvarnadvipa) là tên chung của Sumara.
[18]
Nước Yết Thấp Di La (Kashmir) là nơi thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
(Sarvastivada) phát triển mạnh mẽ nhất, và cũng là trung tâm học kinh điển
tiếng Phạn.
[19]
Theo truyền thuyết thì Nagahrada Parvata chính là một ao của loài
rồng. Ngài Madhyantika là vị A La Hán, và vốn là đệ tử của tôn giả A Nan. Ðược
biết Phật thọ ký rằng mình sẽ xây một vương thành mới, nên ngài Madhyantika rất
vui mừng mà lên núi cao, triển chuyển sáu thần thông. Long vương hiện ra, và
hỏi Ngài muốn gì. Ngài bèn bảo rằng muốn có chỗ để ngồi thiền trên mặt hồ, nơi
nước đến đầu gối. Long vương bèn chấp thuận, và định thổi nước đi, nhưng Ngài
lại dùng thần thông, biến toàn thân bao trùm khắp mặt hồ, khiến cho nước trong
ao đều khô cạn.
[20]
Phù Nam tức là tên của nước Cam Bốt.
[21]
Lang Gia tức là Tenasserim.
[22] Ðỗ Hòa La Bát Ðề (Dvaravati) nằm
gần Nakon Pathom, cách thủ đô Bangkok của Thái Lan khoảng bốn mươi dặm về hướng
tây.
[23]
Ðam Ma Lập Ðề (Tamralipti), hiện tại là Tamluk trong quận
Midnapur ở tây Bengal.
[24]
Khương Cư (Sogdiana), hiện nay là Kirghiz S.S.R., và Kazak S.S.R.,
bao gồm vùng Samarkand và Bokhara. Xưa kia, nước Khương Cư được gọi là Sugdik
(hay Sulik), nằm ở phía bắc của Tokharestan và núi Thiên Sơn. Dần dần người
Khương Cư di chuyển về miền đông của Turkistan. Họ vốn xuất xứ từ giống người
Iranian. Ngôn ngữ của họ cũng là Iranian. Ngôn ngữ và bộ tộc của họ đã mất dạng
từ lâu. Người Khương Cư có mối quan hệ mật thiết với các dân tộc ở Trung Á cùng
Ấn Ðộ. Ðạo Phật được truyền vào nước Khương Cư xuyên qua nước Tokharestan. Hiện
nay các nhà khảo cổ học ở miền đông Turkistan tìm thấy được những kinh điển
Phật giáo bằng tiếng Khương Cư. Chư tăng người nước Khương Cư đóng vai trò quan
trọng trong việc truyền bá và phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng
Tàu, điển hình là ngài Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarman) và Tăng Già Bà La
(Sanghabhadra).
[25]
Cao Xương (Turfan) nằm về phía bắc của Karashar hay Agnidesh ở
Trung Á. Ðây là tuyến đường để vào Ấn Ðộ. Mặc dầu Cao Xương là một ốc đảo nhỏ ở
giữa sa mạc tại Trung Á, nhưng lại là trạm dừng chân của các du tăng truyền
giáo. Ðạo Phật được phát triển mạnh mẽ nơi đó cho đến đầu thế kỷ thứ mười lăm.
Hiện tại, ở đó còn rất nhiều kinh điển Phật giáo bằng tiếng Phạn, Hán, Khương
Cư, Iranian, Tokharian.
[26]
Bột-ích hiện nay là Pembuan ở bờ bể phía nam của Borneo.
[27]
Ô Trường Na (Udyana) tiếng Phạn dịch là mảnh vườn, hay công viên.
Hiện tại là năm quận Punjkora, Bijawar, Swat, và Bunir.
[28] Ngoài lộ tuyến Trung Á, còn có hai tuyến đường từ Ðông Ðộ sang Thiên Trúc. Một là đi xuyên qua tỉnh Vân Nam, đến phía bắc Miến Ðiện và Thái Lan, rồi vào Thiên Trúc. Lộ tuyến này không thường được dùng. Lộ tuyến thứ hai là đi xuyên qua Tibet và Nepal để vào Thiên Trúc.
[29] Ðịnh Môn tức là thiền môn do tổ Bồ Ðề Ðạt Ma truyền sang Trung Quốc.
[30] Khỏa Quốc có nghĩa là nước của những người lõa thể, thuộc về quần đảo Andaman và Nicobar ở vịnh Bengal. Xưa kia, nơi đó đàn ông và đàn bà đều lõa thể. Họ thường trao đổi dừa, chuối, v.v... để lấy sắt.
[31] Hộc Thọ (Vama) tức là rừng của các con ngỗng trời. Ngài Huyền Trang thấy một ngôi tháp Ngỗng Trời được xây dựng tại đỉnh núi Indra sala-guha ở Rajagrha, để kỷ niệm một con ngỗng trời từ trên hư không, tự rơi xuống trước cổng chùa, hầu mong cứu đói các vị tăng tiểu thừa.
[32] Luận sư Trần Na là đệ tử của ngài Thế Thân.
[33] Ha Lợi Kê La (Harikela) hiện tại là Candradvipa và Bakharganj (thuộc về Bangladesh), bao gồm một vùng rộng lớn ở phía đông của Bengal. Ðương thời, vì là Phật tử thuần thành, nên quốc vương nước đó rất hậu đãi chư tăng từ đông độ sang.
[34] Sông Ni Liên Thuyền (Nairanjana) hiện tại là sông Lilajan. Ðức Phật ngồi thiền trong bốn mươi chín ngày đêm, chứng quả vị Phật dưới cội cây Bồ Ðề, bên cạnh sông Ni Liên Thuyền.
[35] Chiêm Ba (Champa) hiện nay thuộc tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận (Việt Nam).
[36]
Thuở xưa, những cuộc buôn bán trao đổi hàng hóa với thương nhân
các nước ở Châu Âu như đế quốc La Mã, người Tàu thường dùng lộ tuyến con đường
lụa (silk route) để đi xuyên qua Trung Á. Ðến đời Ðường (618-917), người Tàu
thường dùng đường biển (tức biển Nam Hải) để trao đổi hàng hóa buôn bán giao
dịch qua lại với Ấn Ðộ, Ba Tư, Ả Rập, v.v...
[37]Bốn trọng ân là ân chư Phật, ân cha
mẹ, ân quốc gia, và ân chúng sanh.
[38]
Kim Mã Môn là một chức tước trong viện Hàn Lâm của triều đình.
[39]
Na Già Bát Ðàn Na (Nagapattinam) hiện nay là quận Thanjavur của
Tamil Nadu. Nơi đó vốn là trung tâm Phật giáo quan trọng vào đương thời. Trong
thời vua Narasimhavarman II (695-722) của triều đại Pallava, do sự yêu của
triều đình nhà Ðường, một ngôi chùa được xây dựng để cho các du tăng người Tàu
sang đó tu học. Ngôi chùa này do kiến trúc sư người Tàu thiết kế, xây nên.
[40]
Ngài Pháp Xưng (Dharmakiti) xuất sanh vào năm 635, thuộc dòng dõi
bà la môn, ở nam Thiên Trúc. Ngài vốn là một vị tài trí thông minh tuyệt đảnh.
Ngài thông suốt các kinh Vệ Ðà, ngôn ngữ, nghệ thuật, v.v...Từ thuở bé, Ngài đã
tham dự những buổi giảng kinh luận. Sau này, Ngài trở thành một Phật tử thuần
thành. Kế đến Ngài theo pháp sư Dharmapala xuất gia thọ giới tại tu viện Na Lan
Ðà. Tài biện luận của Ngài còn vượt hơn tài biện luận của luận sư Trần Na. Ngài
để lại cho hậu thế rất nhiều quyển luận.
[41]
Theo truyền thuyết, Thiên Trúc được bao bọc xung quanh bởi bảy
biển cả.
[42]
Nơi đây có xây một tháp để ghi lại việc vua Lưu Ly hạ nhục và cắt
tay chân của năm trăm cung nữ dòng họ Thích vì không chịu làm cung nữ cho ông
ta. Sau này, nhờ đức Phật đến đó cứu độ mà năm trăm cung nữ đều đắc quả thánh
trước khi qua đời. Gần đó là một cái ao cạn nước, nơi mà thuyền của vua Lưu Ly
bị cháy đang khi ông ta vui đùa với cung nữ.
[43]
Thập pháp: 1/ thiểu dục (lòng ít mong cầu; 2/ tri túc (lòng biết
đủ); 3/ tịch tĩnh; 4/ tinh tấn; 5/ chánh niệm; 6/ chánh định; 7/ chánh huệ; 8/
giải thoát; 9/ tán thán giải thoát; 10/ đem lý đại Niết Bàn mà giáo hóa chúng
sanh.
[44]
Ngũ đức (tức năm đức): 1/biết thời tiết; 2/ chân thật; 3/ hành lợi
ích; 4/ tâm nhu nhuyến; 5/ tâm từ bi.
[45]
Tứ y (catursarana): 1/ phải lượm những miếng vải bỏ, may lại thành
y mà mặc. Song, nếu có thí chủ cúng dường y vải thì được thọ nhận. 2/ Thường
hành khất thực. Song, trong những ngày hội và thuyết pháp, có thể nhận sự cúng
dường thức ăn của bá tánh. 3/ Phải thường trú dưới gốc cây. Song, nếu có ai
cúng dường lều đá, am tranh, nhà gạch thì được ở. 4/ Phải dùng thuốc thang cũ
khi đau yếu. Song, có thể dùng sữa, dầu, mật, v.v... do tín thí cúng
dường.
[46] Bát giải thoát tức là tám cảnh giới thiền định (asta vimoksa): 1/ Quán thấy bên trong tự mình có sắc tướng, và bên ngoài có cõi sắc (chứng cảnh giới Sơ Thiền). 2/ Trong chẳng thấy sắc tướng, và ngoài còn có cỡi sắc (chứng cảnh giới nhị Thiền). 3/ Giải thoát chứng cảnh tịnh lạc (chứng cảnh giới tam Thiền, tứ Thiền, và Tịnh Phạm Ðịa)). 4/ Chứng cảnh giới Không Vô Biên Xứ (Akasanatyatana). 5/ Chứng cảnh giới Thức Vô Biên Xứ (Vijnananantyatana). 6/ Chứng cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ (Akincayayatana). 7/ Chứng cảnh giới Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ (Naisvamjnasamjnayatana). 8/ Chứng cảnh giới Diệt Tận Xứ (Nirodhasamapatti).
[47] Lục độ: Bố thí, trì giới, tinh tấn nhẫn nhục, thiền định, trí huệ.
[48]
Năm trần: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[49]
Chín não hay là chín nạn của đức Thế Tôn: 1/ Bị bà Phạm chí Tôn Ðà
Lợi hủy báng. 2/ Bị cô bà la môn Ðàn Giá giả mang bụng chữa mà vu oan. 3/ Bị Ðề
Bà Ðạt Ða xô đá, khiến trầy bàn chân. 4/ Bị nghiệp giáo đâm bàn chân. 5/ Bị
nhức đầu khi vua Lưu Ly giết dòng họ Thích. 6/ Phải dùng lúa mạch của ngựa mà
ăn. 7/ Bị gió rét mà cảm bịnh. 8/ Sáu năm hành khổ hạnh. 9/ Vào tụ lạc bà la
môn khất thực mà không được, phải trở về với bình bát không.
[50]
Bốn dòng (tứ lưu): Kiến lưu, dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu.
[51]
Ba định: Không, vô sắc, vô nguyện.
[52]
Năm biến: Ba la di, tăng tàn, bất định, xả đọa, tội đọa.
[53]
Bảy tụ: Năm biến ở trên cùng với hối quá, chúng học.
[54]
Tam sư là chức Tăng Cang do triều đình bổ nhiệm để: 1/tuyên dương
chánh giáo; 2/ tuyên dương pháp luật; 3/ tuyên dương sự công bằng trong xã hội.
[55]
Bảy biến hay là bảy tụ (10).
[56]
Bố Tát: Là lễ sám hối và tụng giới của người xuất gia hay những vị
đã thọ giới Bồ Tát.
[57]
Tề Vật là thể phương tiện của lý lẽ.
[58]
Chỉ mã, tức là câu tục ngữ, nói rằng chỉ nai mà thành ngựa.