- Lời Người Dịch
- Lời Giới Thiệu - HT Như Điển
- Lời của Người Biên Tập - Khedroob Thondup
- 1. Con gái nông thôn
- 2. Những năm đầu đời của tôi
- 3. Tuổi thơ
- 4. Đời sống ở nông thôn
- 5. Xã hội ở Amdo
- 6. Những món ăn trong nhà
- 7. Thổ ngữ và y phục
- 8. Lễ hội truyền thống
- 9. Bị ma ám
- 10. Lấy chồng
- 11. Bổn phận làm vợ
- 12. Những cái tang
- 13. Sinh con
- 14. Một vị tulku ra đời
- 15. Biển trí tuệ
- 16. Một chuyến đi dài
- 17. Đến Lhasa
- 18. Một đời sống mới bắt đầu
- 19. Những tục lệ lạ
- 20. Lễ hội tết ở Lhasa
- 21. Con cháu và trở thành quả phụ
- 22. Một cuộc biến động chính trị
- 23. Chuyến hành hương của gia đình
- 24. Cộng sản xâm chiếm
- 25. Đi thăm Trung Quốc
- 26. Phật lịch 2500
- 27. Đào thoát
- 28. Tị nạn ở Ấn Độ
- Lời cuối sách
- 14 vị Đạt Lai Lạt Ma
- Đôi nét về Đức Đạt Lai Lạt Ma
- Lời Dạy Của Đức Đạt Lai Lạt Ma
6. Những món ăn trong nhà
Bếp là lãnh địa của các bà nội trợ. Bếp rất lớn, với những bức tường làm bằng đá. Lò nấu là một tảng đá dài, có khi dài tới ba thước, với từ năm đến tám miệng lò. Qua một cái lỗ lớn ở mặt trước, người ta cho vào lò phân dê khô làm chất đốt. Người ta cũng đốt lửa qua cái lỗ này. Mỗi buổi chiều, ba thùng lớn chất đốt được đặt vào trong lò. Sáng hôm sau chúng tôi nướng một trong những loại bánh mì truyền thống, được gọi là "kunguntze"
Bánh mì là một loại thực phẩm quan trọng của chúng tôi. Chúng tôi cũng làm bánh mì mặn nhân thịt "timomo'' trong sáu cái xửng hấp đặt chồng lên nhau. Một loại bánh mì khác là "kansho", được nướng trong lò. Chúng tôi cho cát trắng khô vô lò lửa rồi đặt củi lên trên cát. Khi cát và củi đã cháy đỏ, chúng tôi cho bánh mì vào trong lửa. Bánh mì nướng kiểu này thì ngon và không bao giờ cháy và luôn luôn có màu nâu vàng. Một loại bánh mì nữa là "kuki", được nướng trong nồi đất. Loại bánh mì này có màu đỏ, vì được cho thêm bột nghệ, mật mía và hạt walnut.
Thời của chúng tôi không dễ dàng. Người nội trợ phải làm tất cả công việc nấu ăn cho người trong gia đình cũng như những người giúp việc. Tất cả đàn bà con gái trong nhà giúp làm việc này. Vào buổi sáng chúng tôi cho người giúp việc ăn bánh mì "timomo" và bột "tsampa" với nước trà. Có khi họ ăn cháo với sữa và muối. Ở Tsongkha chúng tôi có loại bánh giòn "yenmi", được nướng trong cát, tro, phân hay củi. Ngày nào ăn loại bánh này chúng tôi phải làm hơn một trăm cái.
Bữa ăn trưa được đưa ra ngoài đồng cho các tá điền. Sáu mươi xửng "timomo", khoảng từ một ngàn năm trăm đến hai ngàn cái bánh nhân thịt được hấp. Buổi chiều chúng tôi cho họ ăn mì với nước lèo nấu trong một cái nồi lớn cho khoảng ba trăm tô mì. Chúng tôi không bao giờ dùng đồ nấu ăn bằng nhôm hay thiếc, người nào dùng đồ như vậy sẽ bị gọi là ăn mày, chúng tôi dùng đồ bằng sắt hay đất nung.
Ở quê hương chúng tôi có nhiều loại bột "tsampa", được làm bằng lúa mạch, yến mạch và đậu. Khi trời lạnh quá, bánh "tsampa" là món ăn chính yếu của chúng tôi. Có khi chúng tôi cho tá điền ăn loại "tsampa" chiên trong dầu, họ thích món này vì sau khi ăn họ không cảm thấy mau đói. Người làm việc ngoài đồng tốn rất nhiều năng lượng.
Những món ăn tiêu biểu của người Amdo là "ranfan" và "chowtan", được làm bằng lúa mạch. Bột lúa mạch được nấu với một chút nước và được khuấy liên tục cho đến khi chín đặc. Không nơi nào khác ở Tây Tạng có món ăn này.
Thịt được ăn hai lần một tuần. Mỗi lần chúng tôi có thể nấu gần hai mươi ký thịt. Vào dịp Tết, chúng tôi mướn đồ tể đến làm thịt heo, vì chúng tôi không muốn tự tay sát sanh. Có khi trâu yak và cừu cũng được làm thịt. Chúng tôi làm thịt khô bằng cách treo thịt ở trong một căn phòng đặc biệt ở tầng trên.
Khi
còn nhỏ tôi thích coi phụ nữ trong nhà làm món mì địa phương "thukpa" nổi tiếng của Amdo. Vào mùa hè chúng tôi ăn mì lạnh, và mùa Đông ăn mì nước lèo nóng. Tôi thích đi ra sân sau nhà giã tỏi và ớt cho món mì vì không ai nghe thấy tôi, do vậy tôi có thể làm việc này quá giờ đi ngủ mà
không ai biết. Ông nội sẽ chỉ mắng yêu tôi "Coi cháu kìa, đầy mùi tỏi. Rồi người ta sẽ nói sao?".