Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Lấy chồng

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 3329)
10. Lấy chồng

dauc-dat-lai-lac-ma-con-trai-toi


10. Lấy chồng



Trong thời thơ ấu, dù phải làm nhiều công việc nhưng tôi rất vui sướng, Sau khi lấy chồng vào năm mười sáu tuổi, tôi đã trải qua một thời gian rất khó khăn. Dù sao, là một người Phật tử, tôi tin rằng để sống một đời sống trọn vẹn và đầy đủ, người ta phải chấp nhận thực tại khổ đau. Như vậy người ta mới có thể phát triển và trở nên một con người trọn vẹn. Đặc biệtniềm tin cơ bản này giúp cho người phụ nữ chúng tôi không bao giờ tuyệt vọng, và đã giúp tôi không mất tinh thần trong mấy năm đầu tiên lập gia đình. Nếu khôngsức mạnh nội tâm này, tôi đã rơi vào một đời sống vô vọng.

Những đứa con gái như chúng tôi đã được dạy rằng tương lai và hy vọng độc nhất của mình là lấy chồng và một đời làm việc cực nhọc. Thật vậy, chúng tôi đã sống một cuộc đời nặng nhọc, có thể rất nghèo nàn, không có một sự giải trí hay giúp vui nào. Ngay cả thú vui xem người ta diễn tuồng chúng tôi cũng không được tham dự trừ khi có cha mẹ đi cùng. Chúng tôi không bao giờ được đi ra ngoài một mình. Ở những quán trọ bên đường, chúng tôi không được đụng vào những món ăn, vì tất cả đầu bếp đều là người Hoa, cha tôi nghĩ rằng thịt ở những nơi đó là thịt lừa. Khi đến tuổi trưởng thành, nếu có khách tới nhà, chúng tôi phải ở yên trong phòng làm công việc của mình, không được giao tiếp với những người khách, dù chúng tôi tò mò muốn biết về họ. Nhìn ngó khách tới nhà bị xem là vô lễ.

Việc gả vợ lấy chồng luôn luôn do người trên dàn xếp. Ở Amdo chúng tôi gọi việc này là "longchang" hay "xin cô dâu" (begging for a bride). Người làm mai đến xin phép ông nội, còn sự chấp nhận của cha mẹ cô dâu thì không quan trọng lắm. Chúng tôi lại phải hỏi vị "ngagpa", một tu sĩ kiêm thầy bói để biết cuộc hôn nhân này có thuận lợi hay không. Nếu vị này thấy là thuận lợi thì sau khi làm "thudam", hay bói toán và coi tử vi của đôi bên, lễ cưới sẽ được chấp thuận. Người ta luôn luôn tin tưởng một vị lạt ma biết bói toán. Khi còn trẻ, tôi đã được nhiều người hỏi cưới, nhưng bất cứ khi nào gia đình tôi tới tham vấn vị "ngagpa", vị này cũng nói là cuộc hôn nhân không thuận lợi.

Hôn nhân là sự kết giao giữa hai họ như một sự liên minh và đã được dàn xếp khi chúng tôi còn rất trẻ, khoảng tám hay mười tuổi. Hôn nhân còn được giao ước khi trẻ con mới được một hay hai tuổi, hay giữa hai bà bạn, khi mà hai trẻ vẫn còn trong bụng mẹ, với điều kiện một bà sinh con trai và bà kia sinh con gái. Khi một cô gái được mười lăm hay mười sáu tuổi, người con trai sẽ hỏi cưới cô ta, nói rằng phải có người trông coi nhà cửa cho anh ta.

Trong hôn nhân người ta chú trọng rất nhiều đến kinh tế cũng như những nhân tố khác, thí dụ như phẩm chất của gia đình, đặc biệtcha mẹ của cô dâu. Người ta cho rằng mẹ đức hạnh thì con gái cũng đức hạnh. Ở Amdo, mọi người đều làm việc chăm chỉ và rất coi trọng tính thật thà. Khi tìm hiểu về một gia đình, người ta sẽ hỏi: "gốc gác có trong sạch không?". Gia đình nào thường cũng muốn làm sui gia với một gia đình cao hơn gia đình mình. Nhưng nếu một gia đình nghèo có con trai thông minh thì anh ta sẽ được coi là một mối giá trị. Người ta không được lấy vợ, lấy chồng trong cùng một gia tộc, cho dù liên hệ giữa hai bên xa bao nhiêu.

Cha mẹ chồng của tôi đã đi coi bói cho chồng tôi ở một tu viện khi ông ấy còn rất trẻ. Vị lạt ma coi bói nói rằng ông ấy nên làm tu sĩ, nếu không sẽ chết yểu (có lẽ là sự trùng hợp kỳ lạ vì chồng tôi qua đời tương đối sớm). Cha mẹ chồng tôi không làm theo lời bói này mà bảo con mình lấy vợ, và ông ấy vâng lời vì không có ai giúp đỡ ở nhà cha mẹ già của mình.

Gia đình chồng tôi hỏi cưới tôi qua một người hàng xóm của gia đình tôi quen biết họ. Họ tới gặp ông bà nội tôi, và khi ông bà nội coi bói thì câu giải đápthuận lợi, cuộc hôn nhân sẽ khó khăn nhưng sau đó rất thuận lợi. Bà nội tôi rất hài lòng với cuộc cưới hỏi này. Bà nói rằng trong tất cả các cháu của mình bà biết rõ về tôi nhất, và bà muốn tôi làm dâu nhà Taktser Rinpoche, vì đó là một gia đình danh giá. Bà đã gặp hai cô gái của gia đình này trong một buổi lễtu viện Kumbum và thấy họ đều giỏi giang, có giáo dục.

Như vậy tôi sẽ lấy chồng là cháu họ của Taktser Rinpoche. Khi họ hỏi cưới thì tôi chỉ mới mười ba tuổi. Người làm mai là một ông già đã đến với một cái khăn theo nghi thức và những món quà biếu như băng cột tóc, vải, lụa và gấm để làm thắt lưng theo đúng tục lệ; Ông ta cũng cho chúng tôi mỗi người một bình bia "chang". Đám dạm hỏi nhỏ này là nghi thức cho thấy hai họ chấp thuận đám cưới sắp tới.

Phản ứng của tôi đối với việc này là nói "không" một cách quả quyết. Tôi nói với cha mẹ của mình rằng tôi không muốn lấy chồng, mà muốn ở nhà để chăm sóc bà nội của tôi. Khi tôi còn nhỏ, một thầy bói đã nói với bà nội rằng không bao giờ nên cho tôi đi khỏi gia đình, vì tôi là một đứa con gái rất tốt. Nếu ông nội cho tôi đi lấy chồng thì gia đình sẽ gặp xui xẻo. Cha mẹ tôi không tin như vậy, vì mấy người con trai và vợ của họ sẽ ở lại gia đình này, và về mặt kinh tế, không thể cho con gái và chồng ở cùng với gia đình. Ông bà nội và cha mẹ tôi nói với tôi rằng đã chấp thuận cuộc hôn nhân này, tôi sẽ phải về nhà chồng, giống như em gái tôi trước đó. Tôi cố nói là tôi không muốn lấy chồng, nhưng không ăn thua gì. Bà nội nói đùa rằng nếu tôi ở lại nhà này, tôi sẽ "bay qua đầu" mọi người, nghĩa là tôi sẽ chiếm quyền quản lý gia đình. Ngày nay, con gái có thể làm ngược lại ý muốn của cha mẹ nếu không muốn lấy người đàn ông đã được chọn cho mình, nhưng trong thời của tôi, con gái chúng tôi quá nhút nhát.

Để sửa soạn đám cưới của tôi, người ta đã làm trang phục và giày, cũng như bông tai và nhẫn, như một phần tư trang của tôi. Thời đó đám cưới không phải là chuyện đơn giản. Người ta phải làm ba mươi lăm đôi giày và ba mươi hai bộ trang phục. Trong ba năm, ngoài những công việc nội trợ, mẹ tôi đã tự tay may áo, giày, và những thứ cần yếu khác để tôi mang theo về nhà chồng. Tôi rất khâm phục việc làm của mẹ tôi, bà là một thợ may và thêu xuất sắc. Từ những nón đội đầu cho đến đế giày của tôi, mẹ tôi đều tự tay làm tất cả. Sau khi làm xong mỗi món, bà gấp lại gọn gàng và cất vào trong một cái rương. Bà không để cho một người nào khác đụng vào những trang phục mà mình đã làm. Nếu một người đàn bà đang có thai rờ vào một món tư trang của cô dâu thì sẽ bị xem là rất xui xẻo, và nghi thức tịnh hóa phải được làm ngay.

Khi tôi được mười bốn tuổi, cha chồng tương lai của tôi đến gặp chúng tôi để xin làm đám cưới ngay, vì bây giờ họ đã già muốn có người ở nhà săn sóc họ và muốn thấy con trai của mình yên bề gia thất. Hai người con gái đã đưa chồng về ở cùng với họ vì gia đình này hiếm con trai, nhưng hai người con rể này không chịu ở lại đó, và còn xung khắc với cha mẹ vợ. Vì vậy hai người con gái không vui và điều này có ảnh hưởng đến bổn phận trong gia đình của họ. Nhưng cha mẹ tôi đáp rằng tôi còn quá non trẻ, không biết gì về nội trợ, và hứa sẽ cho tôi về nhà chồng khi được mười sáu tuổi.

Lễ cưới phải được hoạch định xong qua một người trung gian thuộc gia đình nhà chồng. Khi người này đến nhà cô dâu, người ta giựt mũ của ông ta ra khỏi đầu và đổ một chậu nước lên người của ông ta. Một củ cải, bánh mì chiên và hai cái đuôi cừu được đính lên mũ của ông ta bằng chỉ thô nhiều màu. Tất cả đàn bà con gái "phục kích" ông ta ở cửa, những tay áo rộng của họ đựng đầy bột "tsampa", rồi họ vừa hát vừa liệng bột vô mặt ông ta, có khi họ còn bôi tro và dầu lên khắp quần áo và mặt của ông ta. Màn kịch đối địch này hàm ý rằng gia đình cô dâu không muốn cô ta đi khỏi nhà mình.

Giữa đám hỏi và đám cưới phải cách nhau vài tháng. Đám cưới của tôi diễn ra sau đám hỏi hai tháng. Cha mẹ và những người trong gia tộc của tôi sửa soạn cho đám cưới trong hai tháng. Trong khoảng thời gian đầy hân hoan này, người ta làm nhiều món ăn, rượu uống. Tất cả hàng xóm, bạn bè, và người quen được mời tham dự việc sửa soạn này và ca hát giúp vui.

Lễ cưới của tôi được cử hành vào tháng mười một năm 1917. Ông thầy bói của chúng tôi quyết định ngày cưới sau khi coi tử vi cho chúng tôi. Chúng tôi cầu nguyện nhiều để xin các vị thần giúp cho khôngtai họa nào giáng xuống cô dâu và mọi người trong đám cưới.

Ngay trước lễ cưới, nhà chồng tặng tôi hai mươi món trang phục, gồm áo, giày, và "hari". Theo tục lệ, cô dâu sẽ mặc trang phục của gia đình chú rể khi rời khỏi nhà cha mẹ của mình. Nhà chồng cũng đưa con ngựa đến cho tôi cưỡi. Nếu gia đình chú rể khá giả, họ sẽ biếu những món quà theo tục lệ. Cha chú rể biếu một con ngựa tốt, và mẹ chú rể biếu một con "dzomo" (trâu yak lai bò) cho mẹ của cô dâu, để bà có sữa mà uống. Những tấm gấm đẹp được phủ lên con trâu cái đó và những cái khăn đúng nghi thức được quàng lên con ngựa.

Vào buổi tối trước ngày cưới, tôi được gội đầu và làm tóc bởi một cô gái có tuổi hợp với tuổi của tôi. Tôi sinh năm con Bò Sắt (Iron Ox, Tân Sửu, 1901), như vậy cô gái gội đầu làm tóc cho tôi phải sinh năm con Chó, Chim, hay Bò. Lúc đó tất cả đàn bà con gái trong nhà buộc chỉ đen lên tóc của tôi và không cho tôi cột cái "hari", họ vừa làm vừa khóc để biểu lộ sự đau khổ. Tôi không được tiếp xúc với các bà đang có thai hay các bà góa chồng.

Sáng hôm sau các vị khách đến nhà sớm và được tiếp đãi suốt ngày. Ngày hôm sau tôi về nhà chồng, giờ khởi hành đã được thầy bói quyết định. Tôi rời khỏi nhà vào lúc sáu giờ sáng, bốn hay năm người đàn bà sẽ đi cùng với tôi, và họ phải biết hát. Tôi mặc trang phục cho chuyến đi này và ngồi đợi các bà ấy trên cái "kang". Khi họ đến, tôi đứng dậy và họ hát "cô phải mặc đẹp, đeo thắt lưng đúng cách, nếu không, trong tương lai, dù cố gắng bao nhiêu, cô sẽ không bao giờ có thể đeo thắt lưng đúng cách. Nếu y phục của cô xốc xếch thì nó sẽ luôn luôn xốc xếch". Trong suốt bài hát này, tôi và tất cả các bà, các cô đều khóc.

Các bà hộ tống bảo tôi chào từ biệt gia đình và cả vị thần bảo hộ của chúng tôi nữa. Tất cả những lời này đều được các bà hát lên như một bài ca. Tôi đi vào gian nhà thờ tổ tiên và phục lạy ba lần, rồi tôi đi vô bếp và cũng phục lạy ba lần. Sau đó tôi ra ngoài sân, nơi có những lá cờ cầu nguyện treo trên một cây sào cao, tôi đi quanh cây sào ba vòng rồi leo lên lưng ngựa. Người ta đã đưa cho tôi một cái khăn len màu đỏ để che mặt và hai bàn tay, không cho ai trông thấy. Tôi không được nhìn quanh và phải ngồi cúi thấp đầu trên lưng ngựa, hai bà ở mỗi bên tôi ca hát, chúng tôi khởi hành đến nhà chú rể.

Cha tôi và anh tôi cũng đi cùng với tôi đến nhà chú rể. Mẹ tôi và những người khác trong gia đình phải ở lại nhà. Khi tôi rời khỏi nhà, cha tôi kêu than mấy lần "Sonam Tsomo, yong wa chi", nghĩa là "Sonam Tsomo ơi, hãy về nhà". Trong khi đó mẹ tôi lấy tất cả những món trang phục mà tôi đã mặc ngày hôm trước bỏ vào lò đốt. Bà quay mặt vào lò mà khóc và kêu tên tôi trong nỗi đau khổ. Đây là hai tục lệ biểu lộ nỗi buồn của cha mẹ khi phải chia ly với con gái.

Tất cả những vị khách ngồi trên lưng ngựa với y phục đẹp nhất của mình chứng kiến tôi đi về nhà chồng. Tôi mang theo áo, mũ nón, và giày ống cho chú rể, trang phục cho mẹ chú rể và giày với quà biếu cho cha chú rể. Nếu chú rể có những thân nhân quan trọng, mỗi người đó cũng được biếu y phục. Những người họ hàng xa thì được biếu khăn quàng. Nếu có nhiều tặng phẩm để biếu thì sẽ có nhiều người đi cùng để giúp đỡ cô dâu. Đoàn cô dâu có thể đông tới hai mươi hay ba mươi người, nếu gia đình cô dâu giàu có thì đoàn người lên đến năm mươi hay sáu mươi người. Mọi người đều ca hát với nhau trên đường đi.

Trong hành trình dài sáu tiếng đồng hồ này, khi đi được nửa đường, các bà "ca sĩ" quay về nhà, và từ đây tôi được hai bà già đi kèm. Khi đoàn chúng tôi sắp đến nhà chú rể, đoàn chú rể đến để tiếp chúng tôi. Họ vừa phi ngựa vừa giựt đùa nón của nhau. Rồi họ mời chúng tôi trà, một món canh ngon lành và bánh mì hấp. Nhưng tôi được mời một món khác, đó là chè nếp chà là.

Khi tôi sắp đến nhà chú rể, một ông già được gọi là "janggu" (người hướng dẫn) đi tới đón chúng tôi. Khi đoàn cách nhà chú rể một khoảng ngắn, đoàn của tôi xuống ngựa đi bên cạnh tôi, cầm cương ngựa của tôi và cất tiếng hát. Ở trước cửa nhà, các tu sĩ đang tụng kinh và ông thầy bói đang bói xem tôi nên xuống ngựa hướng nào, Đông, Tây, hay Nam, Bắc, rồi ông ta "sái tịnh" cho các bà, các cô bằng sữa. Trong khi đó tôi đưa hai bàn tay lên che mặt, tôi không được để cho ai nhìn thấy mặt của mình và tôi cũng không được nhìn ai cả. Trên trán tôi đeo một tấm mạng dài gần một tấc, được trang trí bằng bạc với những tua rủ xuống để che hai mắt của tôi.

Khi đoàn của chúng tôi tới, đoàn của chú rể đi ra nói những lời văn hoa theo phép lịch sự. Một cái khăn lễ được trao cho chú rể và anh ta thúc ngựa đi tới cửa nhà rồi lấy ra một cái áo cho tôi, một cái khăn, và một món bơ dâng cúng. Lúc đó ông già "janggu" vẫn nói một tràng những lời theo nghi thức, chú rể biếu một cái áo cho ông ta và cố cưỡi ngựa vô trong nhà. Sau mấy lần cố gắng như vậy, mọi người can chú rể và rốt cuộc anh ta xuống ngựa.

Một bao củi, bột "tsampa", ba hũ lúa mạch và một cái bình có trang trí mặt trờimặt trăng được đặt ở cửa. Các cô gái đợi ở lối vào và ông thầy bói đang tụng niệm. Đoàn của tôi xuống ngựa, đi vô nhà qua lối nhà bếp và ở đây chúng tôi rửa mặt. Tôi không thể nhìn thấy gì, vì vậy hai bà trong đoàn dắt tay tôi đi tới một ấm trà lớn, được pha với lá trà, sữa và nước; bốn cái chén được đặt ở bốn hướng. Bấy giờ tôi khuấy trà ba lần, rót đầy rồi trút cạn vào một bình trà bằng gỗ ba lần, sau đó rót đầy bốn cái chén. Đây là nghi thức mở đầu.

co dau chu re tay tang

Đoàn của cô dâu được dẫn vô gian nhà chính và được mời ngồi. Trong những căn phòng có đông quý ông, quý bà, người già, trẻ em, và mọi người bắt đầu hát. Nhà gái và nhà trai hát với nhau những câu hỏi đáp như: "Chúng tôi đã từ phương xa đến và đang uống trà. Nước có mùi vị gì?"...

Buổi tối chúng tôi ăn tiệc, một lần nữa mọi người đều hát. Đoàn của tôi hát cho người đầu bếp ở trong bếp: "Bà không tốt, món ăn vô vị, củ cải và thịt thì sống sít". Các bà các cô bên nhà trai hát đáp lại: "Quý vị không thấy mắc cỡ hay sao, bụng của quý vị quá bự. Quý vị là con người, nếu chỉ uống một chén trà, nhưng nếu uống hai, ba chén thì quý vị là con bò". Những câu hát này là một hình thức châm biếm, chê bai nhau.

Sau đó tư trang của tôi được lấy ra khỏi rương để cho mọi người xem, cho họ biết tài may thêu của mẹ tôi, và những món đồ của tôi tặng cho nhà trai. Sau đó mọi người rời khỏi nhà của chú rể, không ai được ở lại đây kể cả tôi. Đêm hôm đó, tôi cùng hai bà già trong đoàn của tôi ở nhà của một người hàng xóm. Bữa ăn chính ở đó là chè và sữa. Tôi vẫn chưa gặp người chồng tương lai của mình.

Ngày hôm sau, lúc mười giờ sáng, tôi được đưa trở lại nhà chú rể. Người ta làm một nghi lễ, đây là lúc tôi chính thức đeo "hari" lên đầu, và làm nghi thức này ở bên ngoài căn nhà. Trước đó tôi đã đeo "hari" trên đường đi tới nhà chú rể, nhưng không được cột đúng cách mà chỉ đeo lỏng ở cả hai bên. Sau lễ cưới, "hari" được cột chặt quanh bụng. "Hari" có ba mảnh, hai mảnh ở hai bên và một mảnh ở lưng. Gia đình chú rể gửi cho tôi hai mảnh bên, còn mẹ tôi cho mảnh giữa. Những mảnh này có những sợi len buộc chúng lại với nhau. Bây giờ sợi len được cắt bằng kéo, người cắt sợi len phải có tuổi hợp với tuổi của tôi. Người này được biếu một cái khăn lễ, một chén rượu và được mời đúng nghi thức cắt cái "hari" với một cái kéo. Nghi thức này xác nhận bây giờ tôi là người đàn bà có chồng và tôi được ông bác của chồng là Taktser Rinpocher đặt cho tên Diki Tsering.

Theo tục lệ, tới giai đoạn này của lễ cưới, chú rể vẫn còn ẩn nấp ở một nơi nào đó. Người ta sẽ đi gọi anh ta, nhưng không tìm thấy anh ta. Tôi phải đợi trong khi mọi người đi tìm chú rể. Khi tìm thấy anh ta, họ xin anh ta rời khỏi chỗ nấp, trình bày với anh rằng cô dâu rất mệt vì đã phải đi đường xa tới đây. Cuối cùng chồng tôi đi tới và được biếu một cái khăn lễ. Chỉ khi anh ta đi ra khỏi phòng, cái "hari" của tôi mới được cột lại. Chỉ tới lúc này, chúng tôi mới đưa mắt nhìn nhau.

Ngày hôm nay, tất cả gia đình tôi và tôi trở về nhà của chúng tôi. Trước khi chúng tôi đi, gia đình của chồng tôi biếu tặng đoàn của tôi những phần thịt cừu khác nhau cũng như bánh mì lễ cưới. Tôi gặp mẹ chồng của mình lần đầu tiên trong ngày này. Bà dịu dàng quan sát tôi và nói vài lời thân ái để an ủi tôi, bà tặng tôi những món trang sức. Tôi phải ở lại nhà cha mẹ mình từ mười ngày cho đến một tháng, tùy theo lá số tử vi, sau đó cha tôi sẽ đưa tôi trở về nhà chồng.

Khi trở về nhà chồng tôi, một người đàn ông và một người đàn bà đón tiếp tôi ở cửa, cùng với một người không nhiễm ô. Những người đã chết vợ hoặc chết chồng, đang có thai hay không sinh được con thì không được đón tiếp cô dâu. Sau đó là lễ cầu xin nhiều con. Tôi được cho bưng một tô sữa, quay nó ba vòng theo chiều kim đồng hồ, rồi đi vô nhà, tôi rót bia "chang" cho đàn ông trong nhà, cha chồng và anh chồng, Ông bà nội của chồng tôi đã qua đời từ lâu. Sau đó tôi được đưa vào phòng của tôi, cùng với tất cả các bà các cô của nhà chồng.

Tôi không phải làm công việc gì trong mấy ngày đầu của đời sống hôn nhân, tôi chỉ bắt đầu làm việc nhà sau năm ngày. Lúc đầu tôi không ở cùng phòng với chồng tôi mà ở cùng với các bà. Sau khoảng ba tháng vợ chồng tôi mới ở cùng phòng. Lúc chúng tôi cưới nhau, chồng tôi được mười bảy tuổi.

Khi người con gái đi lấy chồng và đã được chia một phần gia sản thì người đó không còn có bổn phận đối với nhà cha mẹ của mình, giờ đây chỉ có bổn phận đối với chồng và nhà chồng. Vì lý do thực dụng này, đa số gia đình đã không muốn cho con dâu đi về nhà cha mẹ, nếu con dâu về thăm nhà cha mẹ hai hay ba tháng, nhà chồng sẽ tìm người làm công việc thay cho cô ta cho đến khi cô ta trở về. Gia đình nhà chồng của tôi ít người nên phải làm như vậy.

Con dâu gần như luôn luôn có đời sống cực nhọc và bị đối xử giống như người hầu hay gia súc. Có những bà mẹ chồng bắt con dâu làm việc như nô lệ, không cho ăn đủ hay mặc đủ, và do đó có nhiều người tuyệt vọng đến nỗi phải tự tử.

Trừ những bà vợ của các viên chức cao cấp, tất cả phụ nữ phải làm việc nặng nhọc và làm cùng với những người hầu. Nếu không hài lòng với cuộc sống hôn nhân, người chồng có thể bỏ người vợ, nhưng dù bị ngược đãi bao nhiêu, con dâu không được phàn nàn một lời nào, và không được rời khỏi nhà chồng. Đó là bổn phận của người làm dâu. Nếu con dâu bị đối xử quá tệ bạc, gia đình cô ta có thể thưa kiện, nhưng trong thời đó, pháp luật thường bênh vực nhà chồng. Địa vị của con dâu sẽ gia tăng sau khi về nhà chồng vài năm, cô ta có thêm một chút quyền lực trong nhà theo thời gian.

Nếu một người đàn bà được xem là không thể có con, người chồng có thể lấy thêm người vợ thứ hai. Người ta sẽ làm một lễ cưới nhỏ so với đám cưới đầu tiên. Sau vài năm, người vợ thứ nhì cũng không có con, người chồng lại lấy người vợ khác, và cứ như thế cho đến khi một trong những bà vợ sinh được con. Tất cả những người vợ này sống chung trong cùng một nhà. Người vợ đầu, dù không có con nhưng có địa vị cao nhất và có quyền lực nhất, những người vợ khác phải có thái độ tôn kính bà này. Người ta cũng thường nhận con nuôi, khi không có con ruột mà người chồng không muốn lấy vợ khác.

Khi người chồng qua đời, người vợ, dù trẻ tuổi, phải để tang ba năm trước khi lấy chồng khác. Một tục lệ độc ác là những người đàn bà góa chồng luôn luôn phải tái giá dù mình có muốn hay không. Cô ta không bao giờ được sống một đời góa phụ, thân nhân của cô ta sẽ kín đáo thương lượng với những mối để ý đến cô ta và trả tiền để một người đàn ông cưới cô ta. Người đàn bà chết chồng được người ta gả bán không cần biết đến ý muốn của cô ta, vì cô ta bị xem là người sống dựa vào họ. Tôi nhớ có một người đàn bà góa chồng, bị trói, bị bịt miệng và bị đưa đi lấy chồng. Nhiều người đàn bà đã tự tử bằng cách nhảy xuống vực sâu hay tự treo cổ vì tục lệ này.

Ở Amdo thời đó đã có tục lệ ly hôn. Hai vợ chồng lập bản giao ước hợp lệ và người chồng là người ký tên chính yếu. Người chồng phải nói rằng từ lúc này mình ly dị vợ và cô ta được tự do lấy chồng khác và sống đời sống riêng của mình. Nếu không có tờ giao ước như vậy thì không có việc ly hôn. Ở xứ chúng tôi, tội ngoại tình không được dung thứ, cũng giống như những nơi khácTây Tạng, nếu phạm tội ngoại tình, người đàn bà sẽ bị chính gia đình của mình giết chết. Đó là hình phạt.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1213)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1516)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 2101)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5857)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3670)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4904)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4637)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6828)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18320)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3905)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 2990)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5672)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11248)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9168)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2632)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6857)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3264)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 5964)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 4015)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5518)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18433)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6403)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5868)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3542)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2519)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13677)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5397)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2741)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 4008)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4561)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3952)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2645)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4397)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3349)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4731)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7657)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3460)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3788)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3469)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7679)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12681)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16269)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4567)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52770)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8693)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16144)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4080)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3815)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8704)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4038)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12717)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12550)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17272)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7238)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5925)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7283)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8430)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5355)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6731)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8773)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5446)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6494)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4723)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14194)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5630)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5775)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9964)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8795)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7251)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35194)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5541)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10686)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13160)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7680)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17866)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6638)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19954)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13510)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16290)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 27100)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 28993)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10903)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7647)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7099)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10209)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10233)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8091)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8135)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6899)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10056)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20909)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24253)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15326)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8235)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18836)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16686)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10944)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7361)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7944)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14334)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant