Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đôi nét về Đức Đạt Lai Lạt Ma

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 4968)
Đôi nét về Đức Đạt Lai Lạt Ma

dauc-dat-lai-lac-ma-con-trai-toi


Đôi nét về Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14


Thích Nguyên Tạng (Biên soạn)


Mới đây theo công trình nghiên cứu cá nhân của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á, đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Ghandi (1869 - 1948) và một vị hiện còn sống là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.

Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, tên thật là Tenzin Gyatso, là một nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng. Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6 tháng 7 năm 1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Ngài được thừa nhận là Dalai Lama vào năm hai tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, cũng là hiện thân của Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara), một vị Bồ tát của lòng từ.

Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Mahiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ tát, người chọn con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Dalai Lama, nghĩa là "Người bảo vệ đức tin" (Defender of the Faith), "Biển lớn của trí tuệ" (Ocean of Wisdom), "Vua của Chánh Pháp" (King of Dharma), Viên bảo châu như ý (Wishfulfilling Gem)...

Đức Đạt Lai Lạt Ma được tấn phong tước vị Dalai Lama vào ngày 22 tháng 2 năm 1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là người lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho sáu triệu người Tây Tạng.

1. Quá trình tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma:

Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 viên tịch vào năm 1933, chính phủ Tây Tạng gặp khủng hoảng trong việc tìm kiếm một người thừa kế. Năm 1935, vị nhiếp chính đi đến hồ thiêng Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal, khoảng 90 dặm từ thủ đô Lhasa. Theo truyền thống của Tây Tạng, người ta có thể nhìn thấy mọi việc ở tương lai từ hồ thiêng (Holy Lake) này. Lúc bấy giờ vị nhiếp chính thấy ba chữ Tây Tạng Ah, Ka và Ma hiện lên giữa mặt nước trong vắt của hồ thiêng, theo sau ba mẫu tự này là bức tranh của một ngôi chùa ba tầng với mái ngói màu xanh lục và một căn nhà có chiếc máng xối kỳ lạ.

Năm 1937, chính phủ Tây Tạng đã gởi những hình ảnh thiêng liêng ấy từ hồ thiêng đến các tỉnh thành của Tây Tạng để tìm kiếm nơi tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một phái đoàn tìm kiếm tái sanh được thành lập và đi về hướng Đông Bắc Tây Tạng, vị trưởng phái đoànLạt ma Kewtsang Rinpoche, Tu viện trưởng tu viện Sera. Khi phái đoàn đến làng Amdo, họ thấy quang cảnh nơi này giống y như hình ảnh đã thấy dưới hồ thiêng. Lobsang Tsewang cải trang thành người trưởng đoàn, Lạt ma Kewtsang cải trang thành người thị giả và họ vào thăm một căn nhà với chiếc máng xối kỳ lạ. Bấy giờ Lạt ma Kewtsang có mang một xâu chuỗi (rosary) của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và chú bé trong căn nhà ấy đã nhận ra nó và yêu cầu được cầm xem. Lạt Ma Kewtsang hứa sẽ cho nếu chú đoán được ngài là ai. Và chú bé liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là "Sera aga'', nghĩa là ''Lạt ma ở tu viện Sera". Tiếp đó, ngài hỏi chú bé vị trưởng đoàn là ai và chú bé đã trả lời đúng; chú cũng cho biết chính xác tên của người thị giả. Theo sau đó, một loạt trắc nghiệm khác là để chú bé chọn lựa những đồ dùng thường ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và chú bé đã nhận ra tất cả và nói: ''của tôi, của tôi". Chú bé ấy chính là Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay.

Từ những kết quả của cuộc kiểm tra này giúp họ đoán chắc rằng họ đã tìm ra hóa thân mới và niềm tin của họ càng được vững mạnh thêm bởi những ý nghĩa từ ba mẫu tự Tây Tạng đã từng thấy dưới hồ thiêng: Ah là hàm nghĩa cho tỉnh Amdo, nơi chú bé chào đời, Ka là chỉ cho tu viện Kumbum, một ngôi tu viện lớn nhất với ba tầng gần nhà của chú bé và Ma là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên. Cuối cùng phái đoàn quyết định chú bé ấy là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.

2. Tu học tại Tây Tạng:

Đức Đạt Lai Lạt bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình vào năm 6 tuổi và hoàn tất học vị cao nhất của Phật giáo Tây Tạng là Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ triết học Phật giáo (Doctorate of Buddhist Philosophy) ở tuổi 25 vào năm 1959. Năm 24 tuổi, ngài đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung, Sera và Ganden. Kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa trong thời gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo lịch Tây Tạng.

 Trước đó ngài phải học tất cả các môn học chính như Luận lý (Logic) văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (Sanskrit), Y học (Medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Phật học này là khó nhất, được chia ra làm năm phần là Bát nhã (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), Luận A Tỳ Đạt Ma (Abidharma) và Nhân minh luận (Pramana). Các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics), thơ ca (poetry), âm nhạc (music) và kịch nghệ (drama), thiên văn (astrology), văn phạm (metre and phraseing ).

3. Vai tròtrách nhiệm lãnh đạo:

Vào ngày 17 tháng 11 năm 1950, Đức Đạt Lai Lạt đã khoác lên mình một trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của người dân Tây Tạng (head of the State and Government) sau khi có khoảng 80.000 quân lính của Trung Quốc tấn công vào Tây Tạng.

Năm 1954, ngài đã đến Bắc Kinh để thương thuyết hòa bình với chủ tịch Mao Trạch Đông (Mao Tse-tung) và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai (Chou En-lai) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping). Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùng ngài đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng ngài phải ra nước ngoài.

4. Đào thoát khỏi Tây Tạng:

Nỗ lực của ngài mang lại một giải pháp hòa bình cho người dân Tây Tạng đã bị cản trở bởi một chính sách tàn bạo của nhà cầm quyền Bắc Kinh, trong khi đó ở miền Đông Tây Tạng dân chúng đã đứng lên kháng cự mạnh mẽ đối với sự đàn áp của Trung Quốc. Sự kháng cự này đã lan ra trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1959, một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị bẻ gãy một cách tàn nhẫn bởi quân đội điên cuồng của Hoa Lục. Kết quả của cuộc xâm lăng này đã giết chết hàng triệu người Tây Tạng vô tội và phá hủy sáu triệu chùa chiền tại đất nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi khổ đau ấy, tám mươi ngàn người dân Tây Tạng cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến tị nạn tại miền Bắc Ấn Độ vào năm 1959.

5. Chính phủ lưu vong tại Dharamsala, miền Bắc Ấn Độ:

Ngày nay, với hơn 120.000 người Tây Tạng lưu trú tại vùng đất Dharamsala, Ấn Độ, được biết như là một ''Lhasa nhỏ", lập thành một chính quyền lưu vong Tây Tạng với một Hội Đồng Dân Cử Tây Tạng (Commission of Tibetan People's Deputies) vào năm 1960.

Trong những năm đầu lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi Hoa Kỳ lên tiếng về vấn đề của Tây Tạng, kết quả ba quyết nghị đã được thông qua tại Hội Đồng Lập Pháp của Hoa Kỳ vào năm 1959, 1961 và năm 1965, kêu gọi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng và ước muốn tự trị của họ. Với việc thành lập một chính phủ lưu vong Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy rằng công việc khẩn cấp phải làm là cứu nguy dân tị nạn và nền văn hóa của Tây Tạng. Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã dần được tái hoạt động tại Ấn Độ. Trẻ em Tây Tạng được đi học và một trường đại học Tây Tạng được thành lập tại Ấn Độ. Có khoảng 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng tại Ấn Độ để tăng chúng tu học, duy trì, bảo vệ văn hóatôn giáo của Tây Tạng.

Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một hiến pháp dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên giới luật của nhà Phật và bản hiến chương nhân quyền của Liên Hiệp Quốc để biên soạn và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai.

Năm 1965, ngài đến tham dự đại lễ Phật Đản Phật lịch 2500 tại Ấn Độ, hội kiến thủ tướng Ấn Độ Nehru và ông Chu Ân Lai, đàm phán về vấn đề của Tây Tạng.

Ngày nay, thành viên của quốc hội Tây Tạng sẽ được bầu cử bởi dân chúng. Hội đồng nội các được bầu cử bởi quốc hội. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của chính quyền Tây Tạng là chăm lo cho đời sống người dân và ngài cũng nói thêm, khi Tây Tạng giành lại nền độc lập, ngài sẽ không còn ngồi ở văn phòng chính phủ nữa.

Năm 1987, Đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự một hội nghị nhân quyền tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ. Ngài đề xuất một Chương Trình Hòa Bình Năm Điểm (A Five-Point Peace Plan) bao gồm, 1) Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình; 2) Chấm dứt việc di dân Trung Hoa đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng; 3) Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do và quyền làm người của dân Tây Tạng; 4) Phục hồibảo vệ môi sinh của Tây Tạng, chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để sản xuất vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên tử; 5) Khởi sự thương thảo ngay về quy chế tương lai của Tây Tạngbang giao giữa Tây Tạng với Trung Hoa.

Ngày 15 tháng 6 năm 1988, tại Strasbourg, Pháp quốc, ngài nhắc lại Chương Trình Hòa Bình Năm Điểm và yêu cầu nhà cầm quyền Bắc Kinh trao trả lại nền độc lập cho Tây Tạng. Ngày 9 tháng 10 năm 1991, trong khi phát biểu tại đại học Yale, Hoa Kỳ, ngài bày tỏ ý định muốn trở về thăm Tây Tạng để đích thân đánh giá tình hình chính trị nơi ấy. Ngài nói: ''Tôi thật sự lo lắngtình cảnh bạo động có lẽ sẽ bùng nổ. Tôi muốn làm cái gì đó để chận đứng lại... chuyến viếng thăm của tôi sẽ là một cơ hội mới để làm tăng thêm sự cảm thông và tạo ra một nền tảng để giải quyết''.

6. Các giải thưởng:

Từ chuyến viếng thăm phương Tây đầu tiên của ngài vào năm 1973, một số trường đại học và viện nghiên cứu đã trao tặng ngài những giải thưởng về Hòa bình (Peace Award) và Bằng Tiến sĩ danh dự (honorary Doctorate Degree) để tuyên dương những tác phẩm xuất sắc của ngài viết về triết học Phật giáo, giải pháp cho những xung đột của quốc tế, vấn đề nhân quyền và môi sinh toàn cầu. Trong lần trao giải thưởng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ủy Hội Nhân quyền Raoul Wallenberg, dân biểu Mỹ Tom Lantos đã nói: "Sự đấu tranh dũng cảm của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tạo ra một sự chú ý đặc biệt về nhân quyền và hòa bình thế giới. Sự kiên trì đấu tranh của ngài để chấm dứt khổ đau cho dân tộc Tây Tạng qua những cuộc đàm phán hòa bình và hòa giải".

7. Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1989:

Ủy ban Hòa Bình Na Uy quyết định trao tặng Giải thưởng Nobel Hòa Bình (Peace Prize) cho ngài vào năm 1989 sau khi được cả thế giới tán dương và tán thành, ngoại trừ Trung Hoa. Trong quyết định ấy có đoạn viết: "Ủy ban muốn nhấn mạnh rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma với sự đấu tranh cho tự do của Tây Tạng vẫn kiên quyết không sử dụng bạo lực. Ngài đã ủng hộ giải pháp hòa bình dựa trên tinh thần khoan dungtôn trọng lẫn nhau để bảo vệ lịch sửtài sản văn hóa của con người''.

Vào ngày 10 tháng 12 năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp nhận giải thưởng hòa bình trên tinh thần nhân danh những người bị đàn áp ở khắp mọi nơi, tất cả những ai đấu tranh cho tự do và hòa bình thế giớiđặc biệtnhân dân Tây Tạng. Trong lời phát biểu tại buổi lễ nhận giải, ngài đã nói: ''Giải thưởng đã tái xác nhận một lần nữa lòng quyết tâm của chúng tôi rằng chân lý, lòng dũng cảmquyết tâm của chúng tôi như là những vũ khí, Tây Tạng sẽ được tự do. Cuộc đấu tranh của chúng tôi vẫn phải theo đuổi đường hướng bất bạo độngloại bỏ hận thù''("The prize reaffirms our conviction that with truth, courage and determination as our weapons, Tibet will be liberated. Our struggle must remain nonviolent and free of hatred").

8. Tiếp xúc với Đông và Tây:

Từ năm 1967, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khởi hàng loạt chuyến viếng thăm, đến nay đã đến được 46 quốc gia. Vào mùa thu năm 1991, ngài đến thăm vùng Baltic khi nhận được lời mời của Tổng thống Lithuania, ông Vytautas Landsbergis, và ngài đã trở thành vị khách ngoại quốc đầu tiên đọc diễn văn tại quốc hội của Lithuania. Ngài đã gặp đức Giáo Hoàng Paul đệ lục tại Vatican vào năm 1973 và đức Giáo Hoàng John Paul đệ nhị vào năm 1980 tại Rome và các năm khác là 1980, 1982, 1986, 1988 và 1990.

Sau đây là bản liệt kê danh sách các quốc gia mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã viếng thăm: Argentina 1992, 1999; Úc Đại Lợi: 1982, 1992, 1996; Áo quốc: 1973, 1983, 1986, 1989, 1991,1992, 1993, 1995, 1998; Bỉ: 1973, 1990, 1991, 1994, 1999; Bulgaria 1991; Buryat Autonomous 1991, 1993; Brazil, 1992, 1999; Canada 1980, 1990, 1993; Chile 1992, 1999; Costa Rica 1989; Czechkoslvakia 1990; Đan Mạch: 1973, 1991, 1996; Estonia 1991; Phần Lan: 1988, 1996, 1998; Pháp: 1982, 1986, 1988, 1989, 1990, 1991, 1992, 1993, 1994, 1998; Đức: 1973, 1982, 1983, 1984, 1986, 1987, 1988, 1989, 1990, 1991,1992,1994, 1995, 1996, 1998, 1999; Greece 1979; Hungary 1982, 1989, 1992, 1993. 1996; Indonesia 1982; Israel 1994, 1999; Italy 1982, 1986, 1988, 1989, 1991, 1994, 1996, 1999; Nhật Bản: 1967, 1978, 1980, 1984,1994, 1995, 1998; Latvia 1991; Liechtenstein 1991; Lithunia 1991; Mã Lai: 1982; Mexico 1989 ; Mông Cổ: 1979, 1982, 1991, 1994; Nepal 1981; Tân Tây Lan: 1992, 1996; Na Uy: 1973, 1989, 1991, 1996; Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa: 1954; Hòa Lan: 1993; Cộng Hòa Ấn Độ: 1956, 1959 (cũng là nơi ngài trú ngụ hiện nay); Cộng Hòa Ái Nhĩ Lan: 1973, 1991; Singapore: 1982 ; Tây Ban Nha: 1982, 1994 ; Nam Phi: 1996; Thụy Điển: 1973, 1988, 1990, 1991, 1996; Thụy Sĩ: 1973, 1974, 1974, 1983, 1985, 1987, 1988, 1990, 1991,1994, 1995, 1996, 1998; Thái Lan: 1967, 1972, 1993; Hà Lan 1973, 1986, 1990,1994; Tòa thánh Vatican: 1973, 1981, 1984, 1988, 1990, 1991, 1996; Thổ Nhĩ Kỳ: 1983; Anh quốc: 1973, 1981, 1984, 1988, 1991,1993, 1994, 1996, 1999; Liên Xô cũ: 1991,1994; Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ: 1979, 1980, 1981, 1984, 1987, 1990, 1991, 1992, 1993, 1994, 1995, 1996, 1998, 1999.

9. Thăm viếngthuyết giảng:

Năm 2013:

22-24 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Trivandrum, Ấn Độ
24-26 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Kochi , Ấn Độ
26-28 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Bangalore, Ấn Độ
28-29 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Mumbai, Ấn Độ

Năm 2012:

30-31 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Bodh Gaya, Ấn Độ
11-12 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ
12-13 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Pune , Ấn Độ

01-03 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Rewalsar , Ấn Độ
03-06 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Sidhbari, Ấn Độ

12-13 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Delhi Ấn Độ

13-26 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại USA

26-28 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Canada


13-15 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Anh Quốc
15-17 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Slovenia

17-22 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Austria

22-23 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Italy

23-25 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Belgium

25-27 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Austria

14-24 tháng sáu: thăm và thuyết giảng tại Anh Quốc
24-28 tháng sáu: thăm và thuyết giảng tại Italy


07-12 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ
12-18 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Srinagar , Ấn Độ
18-7 đến 13-8: thăm và thuyết giảng tại Ladakh, Ấn Độ

10-13 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ
13-18 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Dehradun , Ấn Độ
18-7 đến 13-8: thăm và thuyết giảng tại Ladakh, Ấn Độ

07-22 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại USA
22-24 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Anh Quốc

Năm 2011:

07-10 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ
10-18 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Sarnath , Ấn Độ
18-19 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

11-12 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ
12-14 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Ireland
14-17 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Thụy Điển
17-19 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Đan Mạch

28/4 đến 02/05: thăm và thuyết giảng tại Nhật Bản

02-14 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại USA

07-09 tháng 6: thăm và thuyết giảng tại Tân Tây Lan

09-20 tháng sáu: thăm và thuyết giảng tại Úc Châu

5-18 tháng bảy: thăm và thuyết giảng tại USA

09-11 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

11-12 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại ThụyĐiển
12-16 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Pháp
16-18 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Estonia
18-21 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Phần Lan
21-24 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Đức Quốc

04-06 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ
06-08 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Mexico
12-15 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Argentina
15-17 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Brazil

28 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Dehra Dun, Ấn Độ

29/10 đến 07/11 thăm và thuyết giảng tại Nhật Bản
07-11 tháng mười một: thăm và thuyết giảng tại Mông Cổ
11-12 tháng mười một: thăm và thuyết giảng tại Nhật Bản

29/11 đến 01/12: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ
01-02 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Kolkata, Ấn Độ

02-04 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

04-08 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Hunsur , Ấn Độ

08-12 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

10-13 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Czech Republic

Năm 2010:

1-2 tháng giêng: thăm và thuyết giảng tại Mumbai, Ấn Độ

2- 4 tháng giêng:thăm và thuyết giảng tại Palitana, Ấn Độ

4-10 tháng giêng:thăm và thuyết giảng tại Bodh Gaya, Ấn Độ

10-11 tháng giêng:thăm và thuyết giảng tại Kolkata, Ấn Độ

11-14 tháng giêng:thăm và thuyết giảng tại Chandragiri, Ấn Độ

14 tháng giêng:thăm và thuyết giảng tại Bhubaneshwar, Ấn Độ

15-16 tháng giêng:thăm và thuyết giảng tại Vadodara, Ấn Độ

17-24 tháng hai: thăm và thuyết giảng tại Hoa Kỳ

25-26 tháng hai: thăm và thuyết giảng tại Đức Quốc

17-18 tháng ba: thăm và thuyết giảng tại Bhopal, Ấn Độ

18-22 tháng ba: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

3-4 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Rishikesh, Âu Châu

6-7 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Slovenia, Âu Châu

7-12 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Thụy Sỹ, Âu Châu

16 tháng tư: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

10-11 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Đức, Âu Châu

11-24 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Hoa Kỳ

10-11 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Đức, Âu Châu

26-27 tháng năm: thăm và thuyết giảng tại Patna, Ấn Độ

5-6 tháng sáu: thăm và thuyết giảng tại Gulabgarh - Paddar, Ấn Độ

16-17 tháng sáu: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

18-28 tháng sáu: thăm và thuyết giảng tại Nhật Bản

20-28 tháng bảy: thăm và thuyết giảng tại Ladakh, Ấn Độ

8-11 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

16-17 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Kullu, Ấn Độ

18-20 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Jispa, Ấn Độ

21-22 tháng tám: thăm và thuyết giảng tại Manali, Ấn Độ

30/8-3 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Bylakuppe, Ấn Độ

3-4 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Bangalore, Ấn Độ

4-5 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Kochi, Ấn Độ

13-16 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Ladakh, Ấn Độ

16-17 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

16-17 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Hungary, Âu Châu

21-22 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Đức, Âu Châu

22-23 tháng chín: thăm và thuyết giảng tại Hòa Lan, Âu Châu

9-10 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Mumbai, Ấn Độ

10 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Pune, Ấn Độ

11 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Nhật Bản

11-22 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Hoa Kỳ

22-25 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Canada

26-27 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Hoa Kỳ

25-28 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Anh Quốc,

28-29 tháng mười: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

5 tháng mười một: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

6-16 tháng mười một: thăm và thuyết giảng tại Nhật Bản

16-24 tháng mười một: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

9-11 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Lucknow, Ấn Độ

12-15 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

15 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Pelling, Ấn Độ

15-18 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Tashiding, Ấn Độ

18-19 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Ravangla, Ấn Độ

19-23 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Gangtok, Ấn Độ

23-24 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Salugara, Ấn Độ

24-29 tháng mười hai: thăm và thuyết giảng tại Delhi, Ấn Độ

Năm 1999:

Ngày 16 tháng 6: ông Josckha Fischer, Bộ trưởng ngoại giao Đức

Ngày 12 tháng 5: ông Robin Cook, Bộ trưởng ngoại giao Anh

Ngày 13tháng 5: ông Tony Blair, Thủ tướng Anh

Ngày 4 tháng 5: ông Jean Luc Dehaene, Thủ tướng Bỉ

Ngày 14 tháng 4: ông Edwardo Frei, Tổng thống cộng hòa Chile

Ngày 7 tháng 4: ông Fernando Henrique Cardoso, Tổng thống Brazil

Năm 1998:

Ngày 8 tháng 12: ông Jacques Chirac, Tổng Thống Pháp

Ngày 8 tháng 12: ông Lionel Jospin, Thủ tướng Pháp

Ngày 8 tháng 12: ông Kofi Annan, Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc

Ngày 10 tháng 12: ông William J. Clinton, Tổng thống Mỹ

Ngày 10 tháng 12: ông Albert Gore, Phó Tổng thống Mỹ

Ngày 10 tháng 12: bà Madeleine Alright, Ngoại trưởng Mỹ

Ngày 20 tháng 12: ông Claes Anderson, Bộ Trưởng Văn Hóa, Phần Lan

Ngày 16 tháng 12: bà Elisabeth Guigou, Bộ Trưởng Tư Pháp, Pháp quốc

Ngày 9 tháng 12: ông Wolfgang Schuessel, Bộ Trưởng Ngoại giao, Áo

Năm 1997

Ngày 23 tháng 4: bà Madeleine Albright, Ngoại trưởng Mỹ

Ngày 23 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng thống Mỹ

Ngày 23 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng thống Mỹ

Ngày 24 tháng 3: ông Lin Feng-cheng, Bộ Trưởng Nội Vụ, Đài Loan

Ngày 26 tháng 3: ông Lien Chan, Phó Tổng Thống Đài Loan

Ngày 27 tháng 3: ông Lee Teng-hui, Tổng Thống Đài Loan

Ngày 26 tháng 9: ông John Howard, Thủ tướng Úc

Năm 1996

Ngày 23 tháng 10: ông Van Mierlo, Ngoại Trưởng Phần Lan

Ngày 23 tháng 10: Tiến sĩ Klaus Hansch, Chủ tịch Nghị Viện Châu Âu

Ngày 23 tháng 10: ông Jacques Santer, Chủ tịch Liên Minh Châu Âu

Ngày 29 tháng 10: ông Jacues Toubon, Bộ Trưởng Tư Pháp, Pháp quốc

Ngày 26 tháng 9: ông John Howard, Thủ tướng Úc

Ngày 14 tháng 9: ông Alexander Downer, Ngoại trưởng Úc

Ngày 11 tháng 9: ông Jim Bolger, Thủ tướng Tân Tây Lan

Ngày 11 tháng 9: ông Don McKinnon, Phó Thủ tướng Tân Tây Lan

Ngày 22 tháng 6: ông Nelson Mandela, Tổng thống Nam Phi

Ngày 17 tháng 7: ông Malcom Rifkind, Ngoại trưởng Anh

Ngày 28 tháng 5: ông Bjore Godal, Ngoại trưởng Na Uy

Ngày 27 tháng 5: ông Pekka Haavisto, Bộ Trưởng Môi Sinh, Phần Lan

Ngày 23 tháng 5: bà Lena Hjelm-Walln, Ngoại Trưởng Thụy Điển

Ngày 20 tháng 5: Giáo hoàng John Paul II

Ngày 15 tháng 5: ông Niels Petersen, Ngoại Trưởng Đan Mạch

Ngày 30 tháng 4: Hoàng tử Albert, xứ Monaco

Ngày 26 tháng 9: ông John Howard, Thủ tướng Úc

Năm 1995

Ngày 13 tháng 9: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ

Ngày 13 tháng 9: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ

Ngày 4 tháng 5: Tiến sĩ Klaus Kinkel, Ngoại trưởng Đức

Ngày 23 tháng 6: ông Flavio Cotti, Ngoại Trưởng Thụy Sĩ

Năm 1994

Ngày 8 tháng 10: bà Gro Harlem Brundtland, Thủ Tướng Na Uy

Ngày 3 tháng 7: bàVioleta Chamorro, Tổng Thống Nicaragua

Ngày 17 tháng 6: ông Silvio Berlusconi, Thủ Tướng Italy

Ngày 16 tháng 6: ông Oscar Luigi Scalfaro, Tổng Thống Italy

Ngày 9 ttháng 6: ông Marin Gonzalez, Phó Chủ Tịch Liên Minh Châu Âu

Ngày 7 tháng 6: ông Jean Luc Dehene, Thủ Tướng Bỉ

Ngày 6 tháng 6: ông Pleter Kooilmans, Ngoại Trưởng Hà Lan

Ngày 5 tháng 6: ông Wim Kok, Tổng Trưởng Tài chính Hà Lan

Ngày 29 tháng 4: Giáo sư Karl-Hans Laermann, Tổng Trưởng Giáo Dục Đức

Ngày 28 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ

Ngày 28 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ

Ngày 21 tháng 3: ông Yossi Sarid, Bộ Trưởng Môi Sinh Israel

Năm 1993

Ngày 16 tháng 11: ông Francois Mitterrand, Tổng Thống Pháp

Ngày 16 tháng 11: ông Alain Juppe, Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp

Ngày 14 tháng 11: ông Philippe Douste Blazy, Bộ Trưởng Y Tế Pháp

Ngày 30 tháng 10: ông Alain Carignon, Tổng Trưởng Thông Tin Pháp

Ngày 28 tháng 10: ông Michel Barnier, Bộ Trưởng Môi Sinh Pháp

Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Thomas Klestil, Tổng Thống Áo

Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Alois Mock, Bộ Trưởng Ngoại giao Áo

Ngày 14 tháng 6: Tiến sĩ Nikolaus Michalek, Bộ Trưởng Tư Pháp Áo

Ngày 15 tháng 6: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo

Ngày 15 tháng 6: Tiến sĩ Erhard Buiek, Phó Thủ Tướng Áo

Ngày 29 tháng 6: bà Barbara McDougal, Bộ Trưởng Nội Vụ Canada

Ngày 12 tháng 5: ông Douglas Hurd, Bộ Trưởng Ngoại giao Anh

Ngày 27 tháng 4: ông William J. Clinton, Tổng Thống Mỹ

Ngày 27 tháng 4: ông Albert Gore, Phó Tổng Thống Mỹ

Ngày 26 tháng 4: ông Warren Christopher, Bộ Trưởng Ngoại giao Mỹ

Năm 1992

Ngày 6 tháng 4: ông Gareth Evan, Bộ Trưởng Ngoại giao Úc

Ngày 8 tháng 4: ông Paul Keating, Thủ Tướng Úc

Ngày 14 tháng 4: ông Don McKinnon, Bộ Trưởng Ngoại giao Tân Tây Lan

Ngày 11 tháng 4: ông Carlos Menem, Tổng Thống Argentina

Ngày 17 tháng 5: ông Patiricio Aylwin, Tổng Thống Chile

Ngày 16 tháng 7: Tiến sĩ Thomas Klestil, Tổng Thống Áo

Ngày 26 tháng 7: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo

Năm 1991

Ngày 22 tháng 3: bà Mary Rohinson, Tổng Thống Ái Nhĩ Lan

Ngày 16 tháng 4: ông George Bush, Tổng Thống Mỹ

Ngày 16 tháng 8: His Highness Hans Adam, Prince of Lichtenstein

Ngày 19 tháng 8: ông Rene Felber, Bộ Trưởng Ngoại giao Thụy Sĩ

Ngày 16 tháng 8: ông Ronald Dumas, Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp

Ngày 2 tháng 9: ông Kurt Waldheim, Tổng Thống Áo

Ngày 2 tháng 9: ông Alois Mock, Bộ Trưởng Ngoại giao Áo

Ngày 3 tháng 9: ông Franz Vranitzky, Thủ Tướng Áo

Ngày 29 tháng 9: ông Vytautas Landsbergis, Tổng Thống Lithaunia

Ngày 30 tháng 9: ông Gediminas Vagnorius, Thủ Tướng Lithaunia

Ngày 1 tháng 10: ông Kazimieras Motieka, Phó Tổng Thống Lithaunia

Ngày 2 tháng 10: ông Anatolijs Gorbunvos, Tổng Thống Lavtia

Ngày 3 tháng 10: ông Andregs Krastins, Phó Tổng Thống Lavtia

Ngày 4 tháng 10: ông Bronius Kuzmickas, Phó Tổng Thống Estonia

Ngày 5 tháng 10: ông Zhelyn Zhelev, Tổng Thống Bulgaria

Ngày 2 tháng 12: ông John Major, Thủ Tướng Anh

Ngày 4 tháng 12: bà Margaretha af Ugglas, Tổng Thống Thụy Điển

Ngày 5 tháng 12: ông Uffe Ellemann-Jensen, Bộ Trưởng Ngoại giao Đan Mạch

Ngày 8 tháng 12: ông Torvald Stoltenberg, Bộ Trưởng Ngoại giao Na Uy

Năm 1990

Ngày 2 tháng 2: ông Vaclav Havel, Tổng Thống Czechoslovakia

Ngày 24 tháng 24: Hon Lizin, Bộ Trưởng thương MạiHợp Tác Pháp

Ngày 1 tháng 6: Đức Giáo hoàng John Paul II

Ngày 2 tháng 9: ông Gerry Weiner, Ngoại Trưởng Canada

Ngày 10 tháng 9: ông H. van den Broek, Bộ Trưởng Ngoại giao Hà Lan

Ngày 7 tháng 10: ông Richard von Weizsacher, Tổng Thống Đức

Năm 1989

Ngày 27 tháng 6: Tiến sĩ Oscar Arias, Tổng Thống Costa Rica

Ngày 3 than1g 7: ông Carlos Salinas de Gortari, Tổng Thống Mexico

Ngày 6 tháng 12: ông Jurgen Wohlrabe, Tổng Thống Tây Đức

Ngày 9 tháng 12: ông Kjell Magne Bondevik, Bộ Trưởng Ngoại giao Na Uy

Ngày 10 tháng 12: Vua Olav, Na Uy

Ngày 11 tháng 12: ông Jan P. Syse, Thủ Tướng Na Uy

Năm 1986

Ngày 13 tháng 5: Tiến sĩ Rudolf Kirchschlaeger, Tổng Thống Áo

Ngày 27 tháng 5: ông Jacques Chirac, Thủ Tướng Pháp

Năm 1982

Ngày 27 tháng 7: ông Tunku Abdul Rahman, Bộ Trưởng Ngoại giao Mã Lai

Ngày 26 tháng 7: ông A. Ratu Perwiranegasa, Tổng Trưởng Tôn giáo Mã Lai

Ngày 2 tháng 8: Ông Adam Malik, Phó Tổng Thống Nam Dương

Năm 1980

Ông Suzuki Zenko, Thủ Tướng Nhật Bản

Năm 1978

Bà J.R. Jayewardene, Phu nhân Tổng Thống Sri Lanka

Năm 1973

Ngày 1 tháng 9: Đức Giáo Hoàng Paul V

Ngày 10 tháng 10: ông Erskine Chidlers, Tổng Thống Ái Nhĩ Lan

Ngày 10 tháng 10 ông Lien Cosgrade, Thủ Tướng Ái Nhĩ Lan

Ngày 10 tháng 10: ông Frank Aiken, Bộ Trưởng Ngoại giao Ái Nhĩ Lan

Năm 1967

Ngày 13 tháng 11: ông Field Marshal T. Kittikachorn, Thủ Tướng Thái Lan

Ngày 14 tháng 11: Vua Bhumibol Adulyadej, Thái Lan

Năm 1956

Tất cả các vị Thủ Tướng, Tổng Thống, Phó Tổng Thống Ấn Độ

Năm 1954

Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình

10. Một tu sĩ Phật Giáo bình thường:

Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng: ''Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình thường, không hơn, không kém'' (I am just a simple Buddhist monk - no more, no less). Sống trong một tịnh thất nhỏ ở Dharamsala, ngài thức dậy vào lúc bốn giờ sáng, ngồi thiền, rồi tiếp tục làm việc theo thời khóa biểu của văn phòng chính phủ, tiếp khách và diễn giảng giáo lý cho các khóa tu hoặc chứng minh các đại lễ.

11. Tác phẩm của ngài:

Mặc dù bận rộn với nhiều công tác của chính phủ và hoằng pháp, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng dành những thời gian nhất định để viết những tác phẩm Phật học, lịch sử, tự truyện... để phổ biến những tinh túy trong giáo lý của Phật Đà. Khởi viết cuốn ''Đất nước và con người của tôi'' (My Land and My People) vào năm 1964 sau khi ngài đến tị nạn tại Ấn Độ, tính đến nay đã có trên dưới 50 tác phẩm các loại, do chính ngài tự tay viết hoặc do đệ tử ghi chép những bài giảng của ngài hoặc họ viết về ngài. Đáng chú ý trong số tác phẩm này là: "Khai mở con mắt trí tuệ" (The opening of the Wisdom eye) xuất bản 1972; "Phật giáo của Tây Tạng'' (The Buddhism of Tibet, xuất bản 1975); "Dalai Lama: chính sách của Lòng Từ" (The Dalai Lama: A Policy of Kindness, xuất bản 1990); "Tự do nơi lưu đầy'' (Free in Exile, xuất bản 1991); "Ý nghĩa của cuộc sống'' (The meaning of Life, xuất bản 1992) "Tia sáng trong bóng đêm" (Flash of Lightning in the Dark of Night, xuất bản 1994); ''Cuộc đối thoại về trách nhiệm chung và giáo dục ''(Dialogues on Universal Responsibility and Education, xuất bản 1995); "Sức mạnh của lòng từ'' (The power of compassion, xuất bản 1995); "Con đường giải thoát'' (The path of Enlightenment, xuất bản 1995); "Bạo lực và Lòng từ bi/ sức mạnh của Phật giáo" (Violence and Compassion/ Power of Buddhism, xuất bản 1995); "Bốn Chân Lý Mầu Nhiệm" (The Four Noble Truths, xuất bản 1998); "Nghệ thuật hạnh phúc" (The art of Happiness, xuất bản 1998).,"Mật Tông Kalachkra (Kalachakra Tantra, xuất bản 1999); "Ý nghĩa của cuộc sống"(The Meaning Of Life xuất bản 1999); " Khoa học Tâm Linh, cuộc đối thoại của Đông &Tây" ( Mind Science, An East-West Dialogue, xuất bản 1999); "Ngủ, nằm mơ và chết, một cuộc khám phá của tâm thức" (Sleeping, Dreaming And Dying, An Exploration of Consciousness, xuất bản 1999) "Thế giới của Phật giáo Tây Tạng, khái quát về triết lý và thực hành" (The World Of Tibetan Buddhism, An Overview of Its Philosophy and Practice, xuất bản 1999 ) v.v...

Địa chỉ liên lạc để thỉnh sách của ngài là: Snow Lion, PO Box 6483. Thaca, NY 14851, USA. Tel: 001-607-273-8519. Fax: 001-607-273-8508. http://www.snowlionpub.com. Wisdom Publication, 361 Newbury Street, Boston, Ma. 02115, USA. Tel: 001-617-536-3358, Fax: 001-617-536-1897. http://www.snowlionpub.com; Dharma Publishing, 2910 San Pablo Ave, Berkeley, CA 94702, USA. Tel: 001-510-548-5407. Fax: 001-510-548-2230. Wisdom Books, 402 Hoe Street, London E17 9AA, UK. Tel: 0044-181-520-5588. Fax: 0044-181-520-0932. http://www.demon.co.uk/wisdom. Địa chỉ liên lạc với tác giả: His Holiness the Dalai-Lama's Religious and Cultural Society. Gangchen Kyishong, Dharamsala 176215, District Kangra, Himachal Pradesh India.

12. Kết luận:

Như sự mô tả của giáo sư Eric Sharpe, thánh nhân là người suốt đời chú trọng đến việc mang lại an lạc cho con ngườicuộc đời. Trong khi theo đuổi lý tưởng ấy, họ thường phải hứng chịu những trở ngại, đau đớn hoặc nguy hiểm đến sinh mạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là hiện thân cho những gì đã được mô tả ấy. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, sự xuất hiện của ngài như là một định mệnh, đã thừa kế tước vị Dalai Lama ở trong một giai đoạn bấp bênh nhất trong toàn bộ lịch sử cao quý này. Hiện nay, vẫn trong thân phận người tị nạn lưu vong, tuy nhiên, ngài rất lạc quanhy vọng cho tương lai độc lậptự do cho thế giới và xứ sở của ngài như lời ngài đã nhắc tới trong bức Thông Điệp 2000: "Thế kỷ 20 đầy xung đột và chiến tranh. Từng bước, chúng ta bảo đảm thế kỷ tới sẽ có đặc tính bất bạo động và đối thoại là điều kiện tiên quyết để cùng hiện hữu bên nhau trong hòa bình". "Xã hội nào cũng có những khác biệt và xung đột. Tuy vậy, chúng ta cần phát triển niềm tin tưởng rằng: đối thoại và tình bạn là một đường lối chín chắn để tránh bạo động. Trước thiên kỷ mới, điều mọi người cần thực hiệntăng cường tinh thần trách nhiệm đối với quốc tế".

Tổng hợp theo các tài liệu:

- Mary craig (1997) Kundun, A biography of the Family of the Dalai Lama, Harper Collins Publishers, London

- Roger Hicks & Ngakpa Chogyam (1984) Great Ocean, An Authories Biography of the Buddhist Monk Tenzin Gyatso His Holiness The 14th Dalai Lama, Element Books, Great Britain.

- Tenzin Gyatso Dalai Lama (1998), Freedom in Exile, Snow Lion Publications, New York.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7969)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35337)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19529)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23058)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13265)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5807)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10557)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10290)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 9955)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20755)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6174)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6819)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8841)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 5977)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18106)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6313)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6699)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6522)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12933)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5832)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7842)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10131)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7826)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9811)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9032)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5919)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24480)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36270)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7665)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11471)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 9979)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5202)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5396)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9936)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7831)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9325)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8580)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46363)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6869)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12165)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5759)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14400)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12910)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12345)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14406)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12318)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10918)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9585)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16611)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8432)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5927)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9891)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6344)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11281)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7001)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46565)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13458)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8326)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6833)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9129)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6160)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6868)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17741)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18051)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15686)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6911)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31102)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9542)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7654)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21512)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34082)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33184)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14178)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35546)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 12978)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15738)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13633)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 32913)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41300)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40234)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19998)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33617)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29642)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33697)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18792)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48911)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11935)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11138)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22403)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17930)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15066)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15966)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13081)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19656)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12037)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant