Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

HT Thích Trí Nghiêm (1911-2003)

06 Tháng Tư 201400:00(Xem: 7708)
HT Thích Trí Nghiêm (1911-2003)

ht_tri_nghiem
HT Thích Trí Nghiêm (1911-2003)

Hòa thượng thế danh Phan Diệp, sinh ngày 09 tháng Giêng năm Tân Hợi (1911) tại huyện Đồng Xuân (nay là Sông Cầu), tỉnh Phú Yên.

Sinh trưởng trong một gia đình giàu truyền thống, nhiều đời quy tín Tam Bảo, năm 15 tuổi, Ngài đã xuất gia thọ giới với Vĩnh Hảo đại sư tại chùa Phước Long - Phú Yên. Năm 22 tuổi, Ngài thọ đại giới tại chùa Bảo Sơn - Phú Yên, do Hòa thượng Vạn Ân - Tổ đình Hương Tích làm Đàn Đầu, với pháp húy là thượng Tâm hạ Bổn, tự Truyền Lai, hiệu Trí Nghiêm, thuộc dòng Lâm Tế, đời thứ 43. Năm 27 tuổi, Ngài được trúng tuyển và tu học 8 năm tại Phật Học đường Báo Quốc do Hòa thượng Trí Độ làm Đốc giáo.

Sau khi mãn học, Ngài bắt đầu công việc hoằng hóa, lưu hành diễn giảng giáo lý tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Năm 35 tuổi (1945), Ngài về trụ trì chùa Thiên Tôn ở Tuy An 9 năm và tham gia Phật Giáo Cứu Quốc, thuộc Liên khu 5. Kể từ 1955, là một Giảng sư kỳ cựu của Hội Phật học miền Trung, Ngài tiếp tục công cuộc hoằng hóa tại các Tỉnh hội Phật học Khánh Hòa, Phú Yên... xây dựng các trường Bồ Đề, Cô Nhi Viện ở Phú Yên. Năm 1957, Ngài ra giữ chức Hội trưởng Hội Phật học Thừa Thiên Huế. 3 năm sau, Ngài vào thường trú tại chùa Long Sơn, Nha Trang - trụ sở Tỉnh hội Phật Giáo Khánh Hòa. Kể từ đây, nhiều trọng trách Phật sự của Giáo hội được đặt lên đôi vai đảm đương của bậc thạc đức. Ngài đã làm các Phật sự lớn lao như Thành viên Hội đồng Giáo Phẩm Trung Ương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Chánh Đại Diện Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Khánh Hòa, sau đó là Chứng minh Đạo sư của Tỉnh hội. Năm 1980, trước yêu cầu thống nhất Giáo hội, Ngài được mời làm thành viên Ban vận động thống nhất Phật giáo toàn quốc, rồi là thành viên Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương Giáo hội. Với lòng từ bi và luôn chăm lo cho tiền đồ Phật Pháp, Ngài đã thí giới tại các đại Giới đàn từ 1968, nhất là liên tục làm Hòa thượng đàn đầu trong ba Giới đàn mang tên vị cao tăng tiền bối của Ngài - Giới Đàn Trí Thủ I, II, III - Nha Trang.

Mặc dù gánh vác nhiều trọng trách lãnh đạo, hoằng hóa nhưng để tiếp dẫn hậu lai, Ngài vẫn tinh tấn chăm lo việc phiên dịch kinh luận, như:

- Kinh Lời Vàng, nguyên danh là Phật Giáo Thánh Kinh, 01 quyển, do nữ cư sĩ Dương Tú Hạc biên soạn.

- Luận Thành Thật, 20 quyển, do Ngài Ha Lê Bạt Ma Tát soạn.

- Kinh Phổ Môn Giảng Lục, do Bảo Tịnh Pháp Sư giảng.

- Kinh Pháp Hoa Giảng Lục, do Tháiđại sư giảng.

- Và quan trọng nhất, đáng cung ngưỡng nhất là bộ Đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa, gồm 24 tập, 600 quyển, 5 triệu chữ, do pháp sư Huyền Trang Hán dịch.

Đáng lưu tâm hơn là những tư tưởng, những tinh túy, những cốt tủy tinh thần trong toàn bộ kinh đã được Ngài tiếp thu, thể nghiệm và làm chất sống trong suốt cuộc đời truyền đăng tục diệm của mình. Tinh thần này, chúng ta sẽ dần dần tìm hiểu ở phần sau.

Năm 1996, tứ đại huyễn thân của Ngài đã thọ cơn bạo bệnh, có lẽ đối với Ngài đây là cơ hội để tạm gác các Phật sự, đình chỉ sự dao động thân tâm bởi trần cảnh. Hơn 6 năm để chiêm nghiệm thật tướng các pháp thật là một thời gian khá dài, lúc này, Ngài vẫn tiếp tục dùng thân giáo để chỉ thị Pháp thật tướng bằng những bài pháp vô ngôn trường kỳ, miên mật. Đến ngày 13/01/2003 (tức 11 tháng 12 năm Nhâm Ngọ), Ngài đã an nhiên thị tịch, trụ thế 92 tuổi, 70 hạ lạp.

httringhiem-qd


Tinh thần Kim Cang Bát-nhã của Ngài

Dù theo tôn ý của Ngài là “Thiện hành vô triệt tích” (khéo đi qua không để lại dấu vết), nhưng với bề dày những Phật sự Ngài đã làm được cũng như đức độ vô lượng, vô ngôn thuyết của Ngài, chúng ta cũng nên “dĩ giả thị chơn”, mượn lời giả huyễn để ca dương tán thán, hầu mong tiếp nối gương cao, trạch pháp tu hành.

Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể

Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê

An nhiên, thật tướng Bồ Đề

Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như.

Trong suốt cuộc đời mình, Ngài đã để lại trong tâm thức của đàn hậu bối biết bao nhiêu hình ảnh cao quý, tuyệt vời: khi thuyết pháp lúc dịch kinh, khi trang nghiêm giáo giới hay lúc dí dỏm vui tươi với những ngôn từ toát ra những tiếng cười nhẹ nhàng thanh thoát, trước thực tại nhiêu khê, nhiễu loạn giữa cái giả và cái chân. Ngài lại là một người hết sức bình dân, giản dị, bình đẳng thương yêu ngay cả con chó lai Nhật, con mèo tam thể, con cá tai tượng, hay cả con thằn lằn cũng được làm bạn thân và được chia phần cơm mỗi ngày. Những hình ảnh ấy cho chúng ta nói rằng: Ngài là một bậc tu hành Giới đức viên dung, lòng từ bi và đức độ bao dung thật diệu kỳ, một trí tuệ giải thoát luôn lần theo mạng mạch Phật pháp để tìm về tận nguồn Niết bàn.

Trong tư tưởng văn chương bình dân Ấn Độ, Bồ tát là một mẫu người lý tưởng, là những tấm gương minh triết, dũng liệt, xả thân cứu đời... Công hạnh của một vị Bồ tát thường được thể hiện ở việc bố thí, nhẫn nhục, và có tuệ giác lớn... Nhưng quan trọng nhất là phát Bồ Đề tâm, phát nguyện cứu độ tất cả chúng sanh và phát huy tự lợi, lợi tha song hành. Theo kinh Kim Cang, hình ảnh vị Bồ tát được nêu ra dưới hai đặc điểm lớn: hành trì Bát nhã và không ngã chấp. Hành trì Bát nhãnỗ lực đạt đến không tánh, an trụ và hàng phục tâm trong tánh không rốt ráo ấy. Không ngã chấphoàn toàn vắng mặt bốn ngã tướng:

- Ngã, tức là khái niệm tự ngã;

- Nhân, tức khái niệm tái sinh;

- Chúng sanh, tức khái niệm một sinh thể liên tục;

- Thọ giả, tức là khái niệm có đời sống tồn tại.

Điểm qua một số nét đời Ngài, ta sẽ thấy đây chính là hình ảnh đích thực của một vị Bồ tát đang du phương đây đó để thực hành công hạnh dẫn dắt chúng sanh đến bến bờ an vui giải thoát.

Trước hết, xin nói về đặc điểm chính của phong cách sống trong suốt cuộc đời Ngài: giản dị, bình dân nhưng toát ra ngoài một điều gì đó trang nghiêm thanh thoát. Nếu ai đã từng đến am Hoàng Trúc - nơi cư trú của Ngài - để trực tiếp cảm nhận, thì mới biết đó thật sự là tịnh địa Niết bàn của một bậc cao Tăng.

Cốc của Ngài được xây dựng rất đơn sơ, nằm trên đồi Trại Thủy - tấm bình phong của chùa Long Sơn - ẩn mình trong các hàng cây cổ thụ, khuất sau trường Trung Cấp Phật Học Khánh Hòa. Muốn đến được cốc Ngài phải leo lên con đường cấp ngoằn ngoèo bọc quanh sườn núi giống như cánh con dơi đang xoè ra, có nhiều lớp để bước. Khi hết con đường “đăng sơn” ấy, một “trận địa” đa dạng sẽ hiện ra trước mắt: bao nhiêu là bầu rượu, vỏ ốc, hộp bánh, nhánh cây, đĩa mẻ, chén bể... trông vừa ngộ nghĩnh, mà vừa thấy hay hay chi lạ. Chỉ bao nhiêu đó, vị Bồ tátNhất thiết chúng sanh hỷ kiến” đã thuyết cho người khác một bài pháp thế nào là thiên nhiên, cách sốngtiếp xúc với thực tại hiện hữu?! Thế là một niềm vui nho nhỏ vị Bồ tát đã ban cho đời. Đúng, lên đến cốc Ngài, người ta đã thấm mồ hôi, cảm giác mệt mỏi xuất hiện, nhưng bước vào trận địa của Ngài, xoay một vòng để nhìn, nghe lá rừng xào xạc, chim hót ríu rít và đón nhận làn gió nhè nhẹ thoáng qua, ta sẽ thấy lòng mình gạn đi bao nhiêu phiền não, âu lo, muộn phiền.

Còn cuộc sống của Ngài ? Rất mộc mạc, mộc mạc vô cùng, mộc mạc đến độ có khi chúng ta thấy rất vui, nhưng cũng dễ ứa nước mắt. Cánh cửa không cần kín gió, chỗ nằm rất đơn sơ, chiếc võng cũ mèm, đặc biệt cái giường đầy rệp như một tấm nệm đen, mà bọn rệp này chỉ sống chung với Ngài, hay là phát nguyện trải thân cúng dường ngọa cụ cho Ngài thôi, chứ không hề thấy một dấu cắn hay hút máu nào trên thân Ngài. Mảnh áo sờn Ngài mặc cũng rất hay: một cái mặc đủ hai mùa, khi trời nóng thì Ngài xé lưng cho mát, trời lạnh thì khâu lại cho ấm. Bữa ăn nào Ngài cũng chia bốn phần cho: Thiền sư, hai thằng điệu (con chó và con mèo theo cách Ngài gọi), con thằn lằn và con cá tai tượng. Con cá này to lắm, nó ăn cũng rất khoẻ. Ai lên thăm, Ngài cũng gọi nó lên cho xem. Bạn thân của Ngài nhiều lắm, mà có lẽ cây bạch đàn phía trước là bạn thân lâu nhất. Có lần anh em học Tăng lên hầu thăm, Ngài chỉ cây bảo (rặt tiếng nẫu, giọng Phú Yên): “Lúc tui mới dìa đây là tui trồng nó. Hơn ba chục năm rầu, ngày nào nó cũng hát cho tui nghe. Nó trung thành lắm!”.

Phong cảnh và cuộc sống của Ngài đúng là thiền vị. Một anh cư sĩ cùng gia đình, khi lên cốc Ngài liền xin quy y. Khi được hỏi, họ trả lời: “Nơi ở và cách sống của Ôn đúng là bậc thầy, đơn sơ mà cao cả. Thân giáo của Ôn là bài học không lời nhưng mà đọng lại trong lòng người những niềm vui bất tận.”

Ngoài cuộc sống bề ngoài, người khác còn cảm nhận đức độ thanh đạm của Ngài từ những cư xử rất mực vị tha. Những vật dụng tứ sự hằng ngày, như chúng ta biết Ngài không còn vướng bận, thủ trước, cho nên có những câu chuyện rất đáng học tập. Ai cúng dường gì Ngài cũng nhận, nhưng chỉ cần một hai ngày, vật dụng ấy sẽ được Ngài cho lại người khác ngay. Nếu như chúng ta không hiểu được công hạnh đầu đà, vị tha phổ độ phát xuất từ tấm lòng từ bi vô hạn nơi một vị Bồ tát, có lúc chúng ta sẽ cảm thấy buồn phiền, khó chịu vì cảm tưởng như vật cúng dường của mình bị chê bai vậy.

Có một vị Tăng trẻ trú dưới chân núi, gần thiền thất của ôn Thiện Bình, khi lên cốc quét dọn thấy vị lão sư với chiếc áo mỏng manh, sắp đến mùa đông chắc sẽ không chịu nỗi lạnh, nên phát khởi ước nguyện “ước gì mình có một chiếc áo ấm để dâng cúng Ôn”. Lòng thành như thẩm thấu đến chư Phật, hay là nhờ đức gia hộ của Ngài, qua ngày hôm sau, vị Tăng được một Phật tử dưới phố cúng dường một chiếc áo len mới tinh. Một ngày sau khi dâng cúng lên Ngài phẩm vật như sở nguyện, vị ấy ra trường Trung cấp, thấy một Tăng sinh đang mặc chiếc áo len giống hệt chiếc hôm qua. Hỏi ra mới biết chiếc áo ấy chính Ngài đã cho lại. Cả hai việc cho và nhận trên cho thấy hạnh bố thí của Ngài đúng nghĩa Ba-la-mật. Chỉ một pháp nhỏ thôi, khi qua tay Ngài, nó đã đem lại lợi lạc cho rất nhiều người. Ngài đã thực hành đầy đủ “tài pháp nhị thí, đẳng vô sai biệt, đàn Ba-la-mật, cụ túc viên mãn”. Chúng ta nhìn nhận và áp đặt cho Ngài một cái gọi là “bố thí”, chứ thật ra đó là công hạnh thủ xả tùy duyên, đã trở thành một pháp thường tại, mặc nhiên thị hiện của Ngài, đúng theo tinh thần kinh Kim Cang: “Tu Bồ Đề, Bồ tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thanh hương vị xúc pháp bố thí. Tu Bồ Đề, Bồ tát ưng như thị bố thí, ... kỳ phước đức bất khả tư lượng

Những lời dạy của Ngài tuy rất bình thường, ngắn gọn, không giáo điều cao siêu mà chỉ là những xúc sự hằng ngày, những từ ngữ hàm chứa nhiều ý nghĩa, nhưng có công năng khai ngộ rất hiệu quả tùy căn cơ, thời điểm khác nhau. Với Ngài, bất cứ lúc nào, đối tượng nào cũng có thể dạy Phật Pháp được cả.

Buổi chiều nọ, khi đang chăm sóc mấy chậu vạn thọ, nhặt bỏ lá úa trước sân, thấy một chú Tăng sinh bước lên cấp vái chào mình, Ngài liền hỏi:

- Chú có biết trên thế gian này, cái gì là thường còn không?

Hết sức bất ngờ, nhưng nhờ nụ cười “móm mà tươi, nhăn mà đẹp” trên khuôn mặt ung dung của bậc chân nhân, chú ấy liền chắp tay trả lời:

- Bạch Ôn, có ạ, đó là vô thường.

Ngài lại mỉm cười, không trả lời, vào trong lấy ra cho chú một cục xà phòng và một chai thuốc nhỏ mắt của Pháp, hình như của ai mới cúng hồi sáng.

Thầy Minh Tâm, khi còn ở Phật học viện Hải Đức, lên thăm và chào Ngài để về Huế. Ngài hỏi: “Đã thăm và chào bà Bảy dưới bếp chưa?” “Bạch Ôn, chưa ạ”. Ngài mỉm cười: “Một thiếu sót lớn!” Chỉ một câu nhắc khéo thôi mà sao chí chơn chí tình và sâu sắc, nhớ đời đến thế.

Hay theo lời Thầy Trí Viên kể: Một lần, Ngài cùng chúng Hải Đức đi dự lễ kỵ Tổ ở Vạn Ninh. Ghé thăm chùa Pháp Hoa, khi lên viếng chánh điện, lễ Phật xong, Ngài dạy: “Thế này là không được!”. Chúng hỏi cái gì không được, Ngài tiếp: “Nơi chánh điện tôn nghiêm mà viết chữ Hán thảo là chưa hiểu gì hết”. Thật hiếm có vị Giáo thọ sư nào chỉ dạy tỉ mỉ, cặn kẽ như vậy.

Có một anh cư sĩ tên Phiệt cư trú trong khuôn viên chùa Long Sơn, buổi trưa lên cốc, thấy Ngài đang nghỉ, anh ta quay ra cố tình đi thật nhẹ, nhưng vừa qua khỏi giậu trúc thì nghe một lời nói rất hỏm hỉnh: “Con trong quá khứ có lần làm thân bướm, hay lạc vào vườn buổi trưa”. Anh ta biết Ngài còn thức, liền đến chào. Ngài hỏi: “Con có biết thâm ý của cha con khi đặt cho con tên Phiệt không?” Quá bất ngờ trước vấn đề hơn 50 năm chưa nghĩ đến, anh ta thưa: “Bạch Ôn, con nghĩ Phiệt có nghĩa là tài giỏi, giàu mạnh như tài phiệt, thế phiệt vậy”. Ngài cười bảo “Không đúng, phiệt có nghĩa là dấu phẩy, còn về tượng hình nó là một chiếc bè”. Đúng thế, cái tấm thân tứ đại giả tạo này sớm còn tối mất như một dấu phẩy để chuyển sang ý văn khác trong câu vậy. Nhưng nó lại là một chiếc bè chở hành khách vượt qua con sông mê, tìm về nguồn chơn trong vắt, vắng mặt tất cả tham ái, vô minh.

Câu chuyện kể nghe rất đơn giản như thế, nhưng nhân vật chính trong câu chuyện chắc chắn phải luôn hun đúc, thể nghiệm một hình ảnh hết sức đặc sắc, mang đậm nét triết lý, thường được nêu ra trong các kinh điển Phật giáo. Đó chính là hình ảnh chiếc bè được dùng để ví dụ cho Pháp của Phật trong Kim Cang: “Như Lai thường thuyết, nhữ đẳng Tỳ kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp”.

Cao cả hơn những giai thoại mang tính chất ứng cơ giáo dục ấy, ta còn thể nghiệm được ở Ngài “quá trình trọn vẹn hóa các phạm trù giác ngộ (Tự giác, Giác thaGiác hạnh viên mãn) của một vị Bồ tát đang phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Thế nào là Bồ tát phát tâm? Theo tinh thần Kim Cang, một vị Bồ tát phát tâm, phải nói cho đủ 3 lĩnh vực là: phát tâm, trú tâm và hàng phục tâm.

- Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giácphát khởi, phát huy lòng mong cầu cái tuệ giác biết rõ, biết hết, biết thấu suốt và biết hơn tất cả. Cái tuệ giác ấy gọi là “Bát nhã” - cái tuệ giác của chư Phật đã phát nguyện và đã đạt được. Nếu vị Bồ tát phát huy trọn vẹn cái tuệ giác ấy tức nhiên cũng là thành Phật. Đối với một vị Bồ tát thị hiện trong cõi ngũ trược ác thế này, sự phát tâm lưu xuất từ hai động cơ: 1, thương xót nỗi đau của chúng sanhnỗ lực cứu đời; 2, thương xót sự suy tàn của chánh phápnỗ lực duy trì.

- Trú tâm là đứng vững nơi sự phát tâm đó, tâm được phát từ chỗ không trụ, cho nên trú tâm ở đây là một trạng thái không dính mắc, không trú vào đâu. Đó chính là ý nghĩaứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.

- Hàng phục có nghĩa là buộc đối phương đầu hàng, tức là chiến thắng được, sửa chữa được, hay hủy diệt được sự chấp ngã chấp tướng.

Hai lĩnh vực trú tâm và hàng phục tâm sở dĩ thực hiện được là nhờ vận dụng được trí tuệ Bát nhã một cách rốt ráo. Ở đại lão Hòa thượng, mọi nơi mọi lúc Ngài đều vì lợi lạc quần sanh, nêu cao chí nguyện xả kỷ vị tha làm đích để thú hướng. Một niệm không rời hạnh nguyện độ sanh, một đời tinh chuyên vun bồi hạt giống Bồ Đề rải khắp nhân gian. Đó không phải là trú tâm Vô thượng Bồ Đề chăng? Vả lại, quá trình trú tâm đó hoàn toàn ở trong trạng thái “PHI” - tức không vướng kẹt, rời khỏi tất cả các tưỡng về ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Trạng thái “PHI” khiến Ngài luôn có tâm trí rỗng không như không gian, tâm hồn phong phú như hoa lá. Khi đã phi, cái gì Ngài cũng phi, cả cái “PHI” cũng phi luôn. Cả hai đối tượng siêu nhiêntục lụy, bậc hiền nhân đều không vướng kẹt. Đối với cuộc đời, Ngài phi tức mà cũng phi ly. Do hàng phục được tâm như vậy, nên Ngài thong dong đi vào cuộc đời như kẻ vô tâm thỏng tay vào chợ, trạng thái thích ứng như con mèo từ trên không trung rơi xuống đất, luôn chuyển mình để bốn chân được tiếp xúc mặt đất một cách nhẹ nhàng.

Đó chính là trạng thái thích ứng của tâm Kim Cang vào cuộc đời thật thiện xảo quyền biến. Thế nào là tinh thần thích ứng của Kim Cang? Chúng ta hãy đọc lại một số pháp thoại về Ngài sẽ thấy rõ ràng bằng trực giác, không cần qua ngôn ngữ bình phẩm, diễn phân. Dẫu biết rằng thật tướng các pháp là không tướng, là phi, nhưng khi đã đạt được chân lý, thẩm thấu được chánh pháp của chư Phật, một vị Bồ tát sẽ không đặt chánh pháp ra ngoài lợi ích cuộc đời, không đặt sự toàn giác ra ngoài chí nguyện độ sinh. Một người thấy được thật tướng không tánh mà còn cho rằng “ta thấy rõ không tướng”, như vậy người này cũng chưa thật sự thấy thật tướng. Bởi vì, thấy có, thấy không đều do bản năng, phát xuất từ tự ngã của một chủ thể nhìn nhận. Với cái thấy như vậy, giả sử nêu cao lòng vị tha đến mức như lý tưởng thì cũng trở thành đỉnh cao của vị kỷ mà thôi. Ngược lại, nếu biến mọi hoạt động của bản năng thành cái thể tự nhiên của nó, không có sự giao xen của ngã tướng, thì cái bản năng lúc này lại là pháp khí đại thừa, có lợi ích lớn cho chúng sanh.

Nhận thức thấu suốt vấn đề như vậy, nên Hòa thượng tuy biết là hữu vi không thật, việc làm của hữu lậu chỉ đạt đến phước báo nhơn thiên, nhưng Ngài vẫn tùy thuận mọi cơ duyên, không từ bỏ bất cứ một việc thiện nhỏ nào. Ý tưởng này của Ngài thể hiện hầu như mọi nơi mọi lúc. Trong lời Đạo từ của Đàn Đầu Hòa thượng trong Giới Đàn năm 1993 tại Nha Trang, Ngài dạy: “... Hỡi các Giới tử! Thiết lập một Giới Đàn như thế này, từ nhà trên đến nhà dưới, từ bàn Phật đến bàn Tổ, từ nhà khách đến nhà trù, mỗi người đều có môt trách nhiệm. Nhiệm vụ nào, trách nhiệm nào cũng đều quan trọng cả ... Không có sự phân biệt cao thấp, tốt xấu. Không phải người ngồi trên cao là đệ nhất, còn người dưới bếp là không phải là đệ nhất. Vì không có người nấu nướng dưới bếp, thì người ngồi trên cao cũng không yên được. Nghĩa là tất cả mọi việc đều có tương quan nhân duyên sanh...”.Thật là khế lý khế cơ và thấu suốt nhân tình thay!

Giữa lúc đất nước lâm nguy, dân tộc bị chìm trong khói lửa chiến tranh, tiếng gọi Từ Bi tận tâm can của mẫu từ vang lên thúc giục Ngài phải làm gì đó thiết thực để giảm bớt nỗi đau của chúng sanh. Để thực hiện nghĩa vụ cứu độ chúng sanh, Ngài đã đi khắp các tỉnh miền Trung. Hạt cơm Ngài thọ dụng lúc này là hạt cơm vì đạo nghiệp, vì nghĩa tình dân tộc. Đôi dép cao su ngày ấy đã mòn theo dặm đường hóa độ, thể hiện tấm lòng chung thủy và cái khí phách của một Đại Mục Kiền Liên, cái trí dũng song toàn của một Phú Lâu Na, cũng như cái tinh thần Đại Thừa Kim Cang đã hun đúc nên Ngài. Cái tên gọi “Phật Giáo cứu quốc” nghe sao vang vọng thiết tha, gắn bó nghĩa tình non sông đất nước này với những người con Phật Việt Nam. Với nghĩa cử vị tha tột bực, việc tham gia phong trào xả thân vì Đạo của Ngài như thế đã thể hiện trọn vẹn tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ bi, hộ quốc an dân, đẹp Đạo tốt đời, gióng trống lôi âm, vang rền tiếng Pháp, nêu cao gương uy mãnh giữa rừng tà. Ngài đã vận dụng tùy duyên bất biến để truyền trì đạo mạch, phát huy chân lý Phật đà một cách trong sángtích cực qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử. Đức tính vị tha vô ngã của Ngài đã dễ dàng nhiếp hóa tất cả Tăng Ni, Phật tử hữu duyên phát khởi tín tâm, tu hành tinh tấn, vững bền đạo nghiệp, tiến bước trên đường giải thoát.

“Công Ngài đổ xuống đất này

Cho hoa Đạo pháp ngày ngày thêm tươi”.

Đây là tinh túy của tinh thần vô trụ trong Kim Cang mà Ngài đã từng thọ trì, ứng dụng. Tinh thần này có một mãnh lực kỳ diệu, làm đảo lộn tâm trí của các bậc sĩ nhân, thúc đẩy họ lên đường hành động theo chí nguyện Bồ đề một cách hiên ngang tự tại giữa đời ngũ trược, không có gì có thể làm vướng chân.

Lòng Từ bi vô hạn của một vị Bồ tát như Ngài cũng đã thể hiện rõ qua nhân duyên khởi dịch tác phẩm đầu tiên (Kinh Lời Vàng). Trong lá thư Ngài viết gởi cho Biên giả của bản kinh (bà Dương Tú Hạc) để xin phép được dịch sang Tiếng Việt, Ngài đã thể hiện tính cách cẩn trọng và sự kính nể đối với một học giả; đồng thời Ngài còn cho biết: lý do dịch kinh là để xuất bản và ủng hộ cho Cô nhi viện đang thiếu hụt tài chánh trong thời cuộc quá đỗi tang thương.

Ngài viết: “... Nếu được Bà hoan hỷ việc này là Bà đã ban cho hàng ngàn vạn lon sữa cam lồ pháp nhũ, các em được hân hạnh bú mút ngày đêm ... Lại nữa, nếu Bà đồng ý thời có hai điều lợi ích: một là truyền bá Giáo lý của đức Phật; hai là cứu độ những đứa con bạc phước của loài người. Vậy là chúng ta thờ phụng lòng Từ Bi của đức Phật bằng cách cứu người như Ngài đã làm...”

Với tâm nguyện và lời lẽ thuần từ như vậy, chắc chắn tác giả quyển kinh không dám từ chối mà còn vô cùng nể phục. Tưởng cũng nên đọc vài dòng lá thư hồi âm của Bà để thấy lòng tôn kính của người Phật tử nước ngoài đối với Hòa thượng: “... Kính Ngài Trí Nghiêm Thượng nhơn! Đọc bức thư Pháp giáo của Ngài, đệ tử lấy làm vui sướng vô cùng. Ngài là bậc Đức trọng Đạo cao, được bốn chúng trong nước tôi kính mến từ lâu; riêng chỉ vì tôi nhân duyên còn lận đận nên chưa có dịp vượt non quá bể để đến hầu Pháp với Ngài thật nghĩ cảm cho kẻ phước mỏng này... Còn về việc biên chép quyển kinh, nếu Ngài chẳng cho là vụng vềphát tâm dịch sang chữ Việt và đem cho Cô nhi viện quý xứ ấn hành, để góp phần tài chánh mà nuôi các em, ấy là một nghĩa cử cao cả. Đệ tử rất tán đồng, không có gì trở ngại, chỉ xin sau khi dịch xong gởi cho vài quyển để làm kỷ niệm...”

Không chỉ lúc tình thế đất nước đảo điên, nhân tâm tán loạn, Ngài mới ra tay hành sự; mà cho đến lúc nước nhà thống nhất, nhưng con thuyền Phật giáo còn đang lênh đênh khi có quá nhiều người chèo chống, Ngài lại thể hiện tinh thần nhập thế, ứng dụng tư tưởng vô trụ vô trước để tiếp tụcsự nghiệp hoằng dương chánh Pháp. Đó là những năm cuối thập niên 70 - thời kỳ Phật giáo đang có một nhu cầu cấp bách đặt ra là cần phải thống nhất các hệ phái lại trong một tổ chức. Nhưng thống nhất thế nào đây? Một câu hỏi gần như bị bế tắc, nhưng với trí tuệ Kim cang năng đoạn tất cả phiền não, Hòa thượng đã trả lời thỏa đáng câu hỏi trên, trút được gánh nặng cho các bậc kỳ túc trưởng lãocùng chung thao thức. Năm 1979, cuộc họp tại Sài Gòn diễn ra gần một ngày mà vẫn chưa tìm ra được phương hướng và mô hình thống nhất. Trước tình trạng bế tắc ấy, Ngài phát biểu: “Chúng ta thống nhất ý chílãnh đạo, thống nhất tổ chức và hành động, còn nếp sống tu hành thì giáo phái nào giữ nguyên giáo phái đó”. Thế là Đại Hội được khai thông. Đến nay, câu này được ghi vào lời nói đầu của Hiến chương Giáo Hội. Khi họp xong, ông Nguyễn Văn Linh đến bắt tay Hòa thượng, mừng rỡ và tán thán: “Hòa thượng có sáng kiến tuyệt vời!”

Có lẽ đây không phải là sáng kiến, mà nó là một trong những những biểu hiện thật tướng Kim Cang của Ngài. Nó chứng tỏ giá trị siêu việt, vĩnh cửu của tinh thần Bát Nhã. Bởi chỉ có Bát Nhã tánh không mới đưa tâm hồn hành giả ra khỏi cái vỏ ốc ngã chấp vị kỷ, để làm việc lợi lạc quần sanh, không hề vì một mục đích nhỏ nào là để phô trương cái ngã trong đó.

Với tất cả những tâm nguyện vị tha tột bực ấy, Ngài đã thi ân bố đức khắp cả thế gian, nơi nơi đều nương nhờ pháp nhũ, nhưng Ngài luôn tự tại, không hề vướng kẹt bởi đối tượng chúng sanh nào mình đã ra ân cứu bạt. “Chung nhật đô sanh, vô sanh khả độ”, đúng theo tinh thần kinh Kim Cang dạy:“... Ngã giai linh nhập vô dư Niết Bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ, vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả”. Tinh thần tự tại ấy thêm một lần chứng thực ở Ngài thân giáo, khẩu giáo vẹn toàn.

Đối với hàng hậu tấn, Ngài cũng là một vị Thiện tri thức lớn, thường ân cần nhắc nhủ, sách tấn con đường tu tập. Là những học tăng có duyên được gần gủi Ngài, khó ai có thể quên những lời Ngài thường nhắn nhủ: “Người tu cũng giống như người tài xế. Nếu người tài xế không cẩn thận, hay lái xe không vững sẽ đưa mọi người đi lạc đường, nguy hiểm hơn nữa sẽ đưa người ta đến chỗ chết”. Đó là một trong những ví dụ rất súc tích, hàm ẩn nhiều ý nghĩa giáo dục tinh thần trách nhiệm cao. Có lúc, Ngài lại sử dụng những ví dụ rất thông thường, nghe như chuyện tiếu lâm nhưng xuất phát từ kim khẩu của một Thân giáo sư đại nhạo thuyết biện tài, thì nó lại là những bài học vô giá. Có lần chúng lên đảnh lễ Ngài nhân dịp mãn hạ, sau khi nhắc nhủ, khuyến tấn về học tập hành đạo, Ngài kể câu chuyện:

Có anh chàng nọ rất thích chơi xỏ "ngừ" khác (Ngài kể bằng tiếng “nẫu” - Phú Yên - rất vui và lôi cuốn). Một hôm anh ta thấy một anh điếc đến chơi, anh ta bèn cầm trái ớt lên hỏi:

- Ăn cư... không? (Ngài đưa ngón tay út lên để minh họa).

- Không, cay lắm! - Anh điếc lắc đầu trả lời.

Cả chúng không dám phá lên cười mà chỉ nhìn nhau khúc khích. Ngài nghiêm nghị dạy: “Các “ngư” biết “cừ” là tốt “rầu”, nhưng nếu không khéo thì “ngừ” ta sẽ “cừ” lại các “ngư” đấy” Cả chúng đều kinh ngạc, Ngài dạy tiếp: “Các “ngư” không chịu học thì có khác nào anh chàng điếc kia, có tai mà không nghe, có mắt mà không thấy được. “Ngừ” ta đọc một câu chữ Hán, mình nghe âm mà không hiểu; “ngừ” ta đưa một bài “quại” ngữ, mình đọc vào chẳng biết nghĩa ra sao. Như dzậy không phải là điếc, là mù ư?” Lúc này cả chúng mới vỡ lẽ ra và hiểu được cái yếu chỉ về sự khuyến tấn học tập của Ngài.

Tinh thần tự tại của Ngài thể hiện càng siêu đẳng hơn trong thời gian thọ bệnh. Có một môn đệ về viếng thăm bệnh, Ngài dạy: “Thời gian trước, Thầy cũng đã tu và hành đạo, song hành đạo nhiều hơn tu. Còn bây giờ đang thọ bệnh, Thầy có thời gian nhiều hơn để phản quan tựkỷ, để mình được sống với chính mình”. Quả thật, trải sáu năm sàng ngọa, thế mà tinh thầnthể lực Ngài vẫn đầy đủ, sáng suốt; diện mạo luôn lạc quan, không não phiền, than thở. Ngài luôn tịch mặc tự nhiên cho đến giờ tịch diệt. Giờ phút lâm chung của Ngài được ôn Đỗng Minh kể lại: “Tôi vô đứng bên giường Ôn, hơi thở từ từ chấm dứt, ... tuyệt nhiên không có sự trăn thở, rên rỉ nào, mặc dù mấy chỗ khoét nơi lưng và mông của Ôn mấy bữa nay rất nguy kịch. Thế là Ôn giữ chánh niệm rất tốt! Diện mạo của Ôn sau khi trút hơi thở rất tự nhiên, có tánh thuyết phục cao cho những người đến thăm và nhìn tận mắt về gương mặt Ôn! ... Thế là sự sống bấp bênh, cái chết bảo đảm!”.

Và như vậy, Ngài đã thong dong gậy trúc vân du. Ngài đã về với bản thể chân như thanh tịnh, để tiếp tục tùy cơ thị hiện độ sanh như bao lần Ngài đã đến và đi qua nhiều phương thế giới. Để kết thúc, xin trích ghi đoạn thơ của một Phật tử viết về Ngài:

“... Khi nương gậy trúc dìu tay

Dấu hài phương trượng còn đầy lối rêu.

Lặng yên tịnh thất sớm chiều,

Ung dung hoa nở chim kêu cúng dường.

Nâu sòng hòa nếp rau tương

Y vàng nhuận thể hoằng dương trọn đời...

Trăng đêm man mác vườn Thiền

Hoa Ưu đàm rụng về miền Chân Như

Thềm xuân tiễn bước nghiêm từ,

Thong dong gậy trúc vân du phương nào”.

(thơ của Tôn Nữ Thanh Yên)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8002)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35484)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19642)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11676)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23159)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13336)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5838)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10578)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10327)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10012)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20826)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6196)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6843)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8879)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6007)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18136)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6344)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6719)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6544)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12984)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5858)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7872)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10188)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7858)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9853)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9064)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5965)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24528)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36360)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 11532)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10023)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5222)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5410)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9989)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7869)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9351)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8643)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46476)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6890)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12271)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5788)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14476)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12966)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12409)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14525)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12384)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10946)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9622)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16666)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8461)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5950)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9941)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6370)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11336)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7037)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46677)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13484)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8380)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6848)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9164)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6177)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6891)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17818)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18152)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15760)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6938)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31204)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9567)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7678)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21601)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34153)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33285)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14227)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35624)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13000)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15763)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13673)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33014)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26339)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41384)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40336)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20030)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33686)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29673)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33719)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18859)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22678)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22407)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48983)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11957)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11154)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22490)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17986)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15108)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22668)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15995)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13107)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19713)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12057)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17650)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant