Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

06. Tưởng Niệm Thầy Thích Trí Tịnh

02 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 5202)
06. Tưởng Niệm Thầy Thích Trí Tịnh

TƯỞNG NIỆM THẦY THÍCH TRÍ TỊNH

Nguyên Giác

thich_tri_tinh_001Trong trí nhớ mơ hồ, tôi có nhiều kỷ niệm với Thầy Thích Trí Tịnh. Nói cho chính xác, tôi chưa từng gặp Thầy, chưa từng trực tiếp diện kiến, thậm chí cũng chưa từng đứng từ xa nhìn về Thầy. Nhưng những gì Thầy viết, tôi có cơ duyên đọc nhiều, đọc từ cả những khi chưa hiểu gì về Phật Pháp, và dĩ nhiên là đã nghe tụng đọc nhiều lần bên tai. Bất kể rằng, tôi chưa bao giờ tụng kinh giỏi như nhiều người khác, và nếu không có cuốn kinh trước mặt thì cũng không thể nào nghe tụng rõ từng chữ được. Nhưng tên của Thầy vẫn luôn ở trong lòng tôi.

Ngắn gọn, do những cơ duyên cảm nhận từ rất xa xưa, tôi đã nghe kinh Phật, và khi lớn lên là đọc kinh Phật, y hệt như những dòng nhạc dị thường, những dòng nhạc ngấm vào toàn thân. Đã có nhiều thập niên tôi vẫn không hiểu trọn nghĩa kinh Phật, thực sự không hiểu – và tự thấy rằng, y như nghe những dòng nhạc hòa tấu, không thể hiểu hết tại sao phải có nét nhạc vươn cao, rồi xuống thấp. Nhưng kinh Phật tuyệt vời hơn nhạc thính phòng nhiều, đó là điều tôi nghiệm ra bằng toàn thân mình: những âm thanh từ dòng kinh Phật ngấm vào da thịt mình mát rượi, một cảm giác rất mực bình an.

*

Thầy Thích Trí Tịnh là người đã dịch ra rất nhiều kinh Phật, có lẽ là vị Thầy dịch kinh Bắc Tông ra Việt ngữ nhiều nhất, và các kinh này được các chùa Việt Nam đọc tụng nhiều nhất.

Khi nghe tin Thầy viên tịch vào ngày 28-3-2014, tôi nhớ ra những kiểng chùa Sài Gòn, một thời thơ ấu tôi đã tới thăm, tới ngồi nghỉ chân, và có nơi có rất nhiều kỷ niệm như Chùa Xá Lợi -- nơi tôi và rất nhiều cậu học trò đã vào ngồi miệt mài nhiều năm để học thi.

Trong trí nhớ của tôi vẫn còn in hình những cuốn kinh có bìa cứng màu đỏ, nằm trang trọng trên các giá gỗ và các Phật Tử ngôì mở từng trang ra tụng kinh.

Trí nhớ tôi vẫn hiển hiện nhiều hình ảnh, từ ngôi chùa rất nhỏ như Viên Thông Tự ở đường hẻm Nguyễn Thông nối dài, chánh điện trên lầu chỉ ngồi chừng mươi người là chật, cho tới ngôi chùa Quang Minh Tự ở một hẻm nhỏ Phú Nhuận, cho tới ngôi chùa thật lớn như Chùa Xá Lợi nằm nhìn qua trường Gia Long, và cho tới Tây Tạng Tự (ở Bình Dương), nơi tôi và nhiều bạn hữu Nhóm Triết đã gặp một vị Thầy rất mực dị thường.

Tôi nhớ màu đỏ bìa kinh, nằm hàng dãy trên các giá gỗ, lặng im – tôi thích giây phút lặng im trước khi tụng kinh, khi chưa ai ngồi vào chỗ. Sau này nghiệm ra, tôi hiểu vì sao thời nhỏ mình ưa thích lắng nghe giây phút trước khi âm thanh khởi lên. Giây phút trước khi kinh Phật được tụng đọc... Giây phút trước khi lời của Đức Phật được xương minh... Đó là những giây phút tự chiêm nghiệm tâm mình, trước khi chữ được tụng đọc, trước khi cảnh hiện ra – và dù trước hay sau gì, cũng là tự nhìn vào tâm mình. Có những lúc hạnh phúc vô ngần, khi nghe tụng đọc kinh và thấy lòng mình vắng bặt như không hề có âm thanh nào khởi lên quanh mình.

Tên của Thầy Thích Trí Tịnh hiện lên ở hầu hết các kinh sách trong chùa. Và do vậy, gắn liền với trí nhớ của tôi.

*

Sau này, lên bậc Đại học, tôi đọc nhiều bản dịch Kinh Nam Tông do Thầy Thích Minh Châu dịch. Thỉnh thoảng, được biết có những cuộc thảo luận về vấn đề Kinh Nam Tông, Kinh Bắc Tông. Dĩ nhiên là hai Thầy – Thích Minh Châu và Thích Trí Tịnh – như dường là hai thế giới khác nhau. Nói theo kiểu truyện xưa, hai Thầy là hai đỉnh núi khác nhau, hai cõi khác nhau. Có thể nào kinh Phật được diễn ra bằng chữ nghĩa hệt như ở hai phương trời cách biệt như thế?

Hay phải chăng, Đức Phật đã từng nói, ta chưa hề nói một lời nào trong 49 năm? Hay nói như thế chỉ như một ẩn dụ, vì thực sự Đức Phật tuy vẫn đang đi đứng nằm ngồi nhưng vẫn chưa bao giờ rời khỏi chánh định?

Như thế, vào nhà Phật, nên vào cửa Bắc, hay cửa Nam? Tôi có cơ duyên với Bắc Tông từ nhỏ.

Để nhắc lại một kỷ niệm. Tôi vẫn còn nhớ rằng đó là lần đầu, và cũng là lần duy nhất cho tới giờ, bước vào ngôi Chùa Từ Ân ở Chợ Lớn. Lúc đó là một ngày cuối tuần, có thể là Chủ Nhật. Phật Tử đi lại đông đảo trong chùa. Họ hầu hết là người Hoa; tôi nhận thấy điều này qua khuôn mặt, qua cách cầm nhang đốt rồi đưa vào các tháp giữa sân. Tôi tới Chùa Từ Ân lúc đó là khoảng năm 1979 hay 1980, để tìm mua một bản Việt dịch của Trung Phong Bổn Thiền Sư, hay là Trung Phong Bổn Ngữ Lục chi đó. Tôi cũng không nhớ ai đã bảo tôi tới Chùa này tìm một cuốn sách, mà người đó đã nói là rất quan trọng cho người muốn học Thiền. Đó cũng là lần đầu tiên tôi nghe đến tên Thiền Sư Trung Phong Bổn.

Tôi hỏi và được chỉ lên lầu ba. Và nơi đó, tôi được trao cho một ấn bản photocopy. Hành lang lầu ba rất hẹp, người đi lại cũng đông. Cầm sách xong, tôi về ngay. Tôi về đọc ngấu nghiến ngay trong ngày, và chỉ hiểu mơ mơ màng màng, nghĩa là không hiểu nổi. Rồi cũng quên ngay, bây giờ không nhớ nổi người dịch ra Việt Ngữ là ai; nhưng cảm giác ngây ngất vẫn tin rằng ngôn ngữ đó là sự thật, là pháp nhà Phật, là pháp Thiền Tông tuyệt vời. Lúc đó, cả nước đang một thời kỳ cực kỳ căng thẳng và đói kém. Nhiều năm sau, mới biết người dịch là Thầy Thích Duy Lực; và rồi tôi cũng có nhiều cơ duyên gần vị Thầy này, những khi Thầy về ở Quận Cam.

*

Bây giờ, cả ba vị Thầy – Thích Minh Châu, Thích Trí Tịnh, Thích Duy Lực -- đều đã viên tịch.

Sang Hoa Kỳ, tôi đọc lại nhiều kinh luận -- cả Nam Tông, Bắc TôngThiền Tông -- bằng Anh ngữ. Nhìn lại mới thấy tuyệt vời. Và cả ba vị Thầy đều tuyệt vời trong cách riêng của họ.

Có nhiều bản văn tưởng rất là khó, nhưng khi đọc bản Anh văn mới thấy dễ dàng, in hình tương hợp như chữ của Kinh, của chư Tổ là lưu xuất tự tâm của tôi. Cũng có thể, vì mình cũng đã trải qua nhiều năm tu học, hay cũng có thể vì nghiệp của mình đã nhẹ bớt chăng...

Còn như tất cả quý Thầy, những dị biệt cũng có thể xem như chỉ là vì tùy sở thích, tủy cơ duyên...

Căn bản, thực sự quý Thầy nhìn về Phật pháp không hể khác nhau gì hết. Quý Thầy chỉ làm ra vẻ là khác nhau thôi. Bởi vì, tất cả các pháp đều được quý Thầy quy về tâm.

*

Thí dụ, Thầy Thích Minh Châu trong bản dịch Kinh Pháp Cú, khởi đầu là 2 đoạn:

1. Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo .

2. Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý thanh tịnh, nói lên hay hành động, an lạc bước theo sau, như bóng, không rời hình . 

Đó là tuyệt vời: tâm mở ra khắp cả các pháp, khắp cả thế giới.

Nhưng làm thế nào để tâm ý, lời nói, hành động đều thanh tịnh?

Thầy Thích Minh Châu, trong Kinh Phật Tự Thuyết (link: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-1191/kinh-phat-tu-thuyet-udana-muc-luc.html) đã ghi lời Đức Phật dạy cho ngài

Bàhiya Darucìriya tu tập:

“Vậy này Bàhiya, ngươi cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri... Như vậy, này Bàhiya, nhà ngươi cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, như với ngươi, trong thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng, trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya ngươi không là chỗ ấy. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.” (Kinh I, 10)...” (hết trích)

Nghĩa là, đừng chấp vào các pháp ở thế gian, chĩ nên quán sát rằng tất cả các pháp chỉhiển lộ của cái thấy, cái nghe, cái thọ tưởng, cái thức tri... Và không hề có cái ngã nào thực sự hết, vì thế gian biến hiện vô thường hệt như cuốn phim hiện ra cho tâm chúng ta thấy nghe, thọ tưởng, thức tri... Và cái “ngươi” đó không ở chặng nào hết, vì đều là vô ngã.

Tôi không thấy lời dạy trên có cái gì gọi là Nam hay Bắc Tông, hay Thiền Tông... vì pháp này xuyên suốt tất cả các pháp.

*

Trong khi đó, Thầy Thích Trí Tịnh dạy những gì? Căn bản cũng hướng về tâm: Thầy dạy quán vô thường, đừng khởi tâm tham luyến cảnh, đừng để phiền não tham sân khởi, tỉnh biết như thế si mê sẽ giảm, căn bản là Giới Định Huệ... Đúng vậy, Thầy Thích Trí Tịnh đã dạy như thế.

Trong cuốn Hương Sen Vạn Đức (Phần 1 -- link: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-5481_5-50_6-1_17-43_14-2_15-2/#nl_detail_bookmark), Thầy Thích Trí Tịnh dạy:

“...Đức Phật dạy phải luôn quán vô thường: “Thân này vô thường, cảnh vật vô thường”. Biết được thân vô thường phải ráng lo tinh tấn tu hành, chớ bỏ ngày tháng trôi qua. Nhờ thấy cảnh vật vô thường, không nên có sự tham luyến, cũng không nên khởi những vọng niệm phiền não. Tất cả đều nhớ quán vô thường, từ chỗ thân vô thường thì cố gắng tinh tấn tu hành, đối với cảnh thì không có tham luyến và trái ý, nhờ vậy tham sân cũng không khởi. Biết được mấy điều đó, si mê cũng lần lần ít đi, thiện căn công đức mỗi ngày mỗi tăng, đó là mình mỗi ngày mỗi bước tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.” (Ngày Khánh Tuế 17/07 năm Ất Dậu, 21/08/2005)

Hay là:

“...Căn bản của sụ tu hành là Giới, Định, Huệ. Từ nơi Giới hạnh được tinh nghiêm mà tâm tĩnh lặng. Tâm được tĩnh lặng thì trần lao phiền não không chi phối được. Do được tĩnh lặng đó mà phát sanh ra Định. Và từ nơi Định mới sanh ra Huệ. Huệ này do có Định mới phát, chớ không phải do tạo tác mà thành. Nếu do tạo tác thì đó chỉ là phân biệt hơn thua, phải quấy, hay dở. Và đó chỉ là ở trong vòng sanh tử mà thôi. Huệ từ nơi Định sanh, Huệ đó mới là giác, là giải thoát. Người đời không biết quý trọng nơi sự giải thoát mà chỉ lo làm cho mạnh thêm cái phân biệt hay dở nên không quan tâm gì đến Giới Định Huệ. Tu pháp môn Trì danh niệm Phật cũng là cách đạt được Định và Huệ.” (Mùng 01 Tết năm Bính Tuất, 2006)

*

Trong khi đó, Thầy Thích Duy Lực trong Duy Lực Ngữ Lục quyển Thượng (link: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-17617_5-50_6-1_17-24_14-2_15-2/#nl_detail_bookmark) nói rằng:

"Tổ sư có bốn câu kệ nói về vấn đề huyễn:

Nhược nhơn kiến huyễn bổn lai chơn,

Thị tắc danh vi kiến Phật nhơn.

Viên thông pháp pháp vô sanh diệt,

Vô diệt vô sanh thị Phật thân.

- Ý nói nếu người nào thấy huyễn vốn là chơn, thì người ấy gọi là thấy Phật. Theo viên thông tự tánh thì pháp vô sanh diệt, vô diệt vô sanhpháp thân của Phật, của mình. Còn theo ngài Khuê Phong thì còn sanh diệt, diệt sanh diệt rồi mới hết sanh diệt. Về thiền môn thì chẳng có sanh diệt để diệt, như tôi thường thí dụ, do vọng tâm của mình hoạt động ngày đêm không ngừng nên thấy có sanh tử luân hồi, đến khi vọng tâm ngưng rồi thì sanh tử ngưng và thấy cứu cánh Niết bàn."(hết trích)

Bốn câu kệ này không khác gì bài Kinh Bàhiya được Thầy Thích Minh Châu dẫn trên.

Quý thầy Thiền Tông nói, hễ thấy huyễn vốn là chơn thì là thấy Phật.

Trong bài Kinh Bàhiya chỉ rằng, các pháp biến hiện trước mắt, bên tai, trong thọ tưởng, hiển lộ qua thức tri... y hệt như ciné, như phim ảnh, như kịch diễn... nhưng cái thấy nghe thọ tưởng thức tri vẫn bất động, vẫn không sanh diệt... 

Cái thấy, cái nghe vốn vô hình, vô tướng. Chúng ta chỉ có thể thấy cái được thấy, chỉ có thể nghe cái được nghe. Nghĩa là, thấy cảnh mới biết là có tâm, vì tâm vốn vô tướng, không hình dạng. Tâm biến hiện ra khắp cảnh, ra khắp âm thanh... y hệt như tấm gương trong trẻo, hiện ra khắp cảnh, nhưng không cảnh nào lưu ở tâm này, ở tấm gương này. Hễ có hình ảnh nào, hay có âm thanh nào dính vào tấm gương trong trẻo đó, tức là tâm tham luyến khởi lên, là lại sinh tử luân hồi.

Cho nên, bài kệ dẫn trong Duy Lực Ngữ Lục nói, hễ thấy huyễn vốn là chơn, tức là thấy vô tướng, tức là giảỉ thoát.

Và pháp tu Đức Phật dạy cho ngài Bàhiya là:

“Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.

“Khi với ông, này Bahiya, trong cái được thấy chỉ là cái được thấy… [nhẫn tới]… trong cái được thức tri chỉ là cái được thức tri, thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘với đó.’ Này Bahiya, khi ông không là ‘với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘trong đó.’ Này Bahiya, khi ông không ‘trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi này, cũng không ở nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là đoạn tận khổ đau.” (Bài Pháp Khẩn Cấp: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-108_4-15168/bai-phap-khan-cap-bahiya-sutta.html)

*

Đức Phật chỉ dạy một pháp là Giới Định Huệ, để trừ tham sân si. Nhưng khi tiếp cận khắp các thành phần dân chúng, từ già trẻ nam nữ, từ người trí thức uyên bác cho tới người ít chữ... Đức Phật có cách giảỉ thích nhiều khi khác nhau. Nhưng tất cả đều quy về tâm. Tất cả các vị Thầy cũng thế.

Tôi mang ơn Thầy Thích Trí Tịnh quá nhiều. Thầy là hình ảnh những cuốn kinh bìa đỏ, đặt trên giá gỗ chờ đọc tụng.Những cuốn kinh lặng lẽ, chờ Phật Tử mở ra từng trang.

Vài năm sau 1975, tôi đã nhìn thấy một bà cụ ngồi nơi chính điện một ngôi chùa nhỏ, mở một cuốn kinh ra, tụng đọc một mình. Lúc đó, vị sư trụ trì nói là đi vắng một chút, và dặn sẽ về ngay. Tôi ngồi ở một góc chùa, chờ bà cụ. Và chờ vị sư.

Bà cụ tụng đọc, rồi có lúc, giọng nghẹn lại, và rồi nước mắt ràn rụa chảy – trên một quyển kinh do Thầy Thích Trí Tịnh dịch.

Hình ảnh đó tôi không bao giờ quên được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8006)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35524)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19656)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11683)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5841)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10596)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10343)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10036)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20845)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6201)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6846)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8885)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6009)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18146)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6345)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6722)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6549)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12990)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5861)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7881)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10192)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7862)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9857)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9070)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5979)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24533)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36365)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7714)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11543)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10032)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5225)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5417)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9993)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7877)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9353)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8648)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46493)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6892)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12288)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5793)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14484)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14541)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12404)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10949)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9625)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16684)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8466)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5954)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9947)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6373)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11345)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7040)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46689)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13488)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8383)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6851)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9166)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6179)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6896)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17830)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18162)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15783)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6942)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31221)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9570)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7680)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21612)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34163)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33291)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14232)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35633)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13003)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15767)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13679)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33024)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26346)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41402)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40343)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20034)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33692)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29676)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33723)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18862)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22684)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48988)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11961)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11157)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22503)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17991)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15113)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22675)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15996)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13109)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19718)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12061)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant