Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

04. Kinh Pháp Hoa - Phẩm Thường Bất Khinh

11 Tháng Tư 201400:00(Xem: 4051)
04. Kinh Pháp Hoa - Phẩm Thường Bất Khinh

TÂM NHƯ - TRÍ THỦ TOÀN TẬP

Hòa Thượng Thích Trí Thủ

QUYỂN I: KINH

KINH PHÁP HOA

PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH

Lúc ấy, Phật dạy Đắc đại thế Bồ tát: Ông nên hiểu nếu tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di thọ trì kinh Pháp hoa mà ai độc miệng mắng nhiếc, công kích thì kẻ ấy bị những tội báo khủng khiếp như ta đã nói ở trước. Còn công đức của người thọ trì thì cũng như trước ta đã nói, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý sáu căn đều được thanh tịnh.

Đắc Đại Thế! Quá khứ cách nay những kiếp số nhiều đến nỗi không thể nghĩ và nói, có đức Phật hiệu Oai Âm Vương đầy đủ mười danh hiệuNhư lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, tôn xưng Thế tôn. Thời kỳ ngài gọi là Thoát ly suy biến, nước ngài xuất hiệnĐại Thành. Lúc ấy đức Phật Oai Âm Vương thuyết pháp cho loài người, những loài trên loài người như chư thiên và những loài dưới loài người như quỷ thần, bằng cách ai muốn cầu đạo thanh văn thì ngài dạy cho bốn chân lý giải thoát sanh lão bệnh tử, cứu cánh niết bàn; ai muốn cầu đạo quả duyên giác thì ngài dạy cho mười hai nguyên lý nhân duyên; còn đối với các vị bồ tát thì nhân vô thượng bồ đề mà nói sáu ba la mật, hoàn thành tuệ giác Phật đà.

Đắc Đại Thế! Đức Phật Oai Âm Vương sống lâu với những kiếp số bằng số cát của bốn mươi vạn sông Hằng, chánh pháp của ngài tồn tại với những kiếp số bằng số vi trần của một cõi Diêm phù, tượng pháp của ngài tồn tại với những kiếp số bằng số vi trần của bốn châu thiên hạ. Đức Phật Oai Âm Vương làm lợi ích cho chúng sanh rồi mới diệt độ, và khi chánh pháp cũng như tượng pháp của ngài chấm dứt, thế giới hệ này lại có đức Phật xuất hiện cũng hiệu Oai Âm Vương và đầy đủ mười danh hiệuNhư lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, tôn xưng Thế tôn. ( ). Cứ như vậy, tuần tự có đến hai vạn ức đức Phật xuất hiện, cùng một danh hiệu.

Đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên, khi diệt độchánh pháp của ngài chấm dứt, trong thời tượng pháp những kẻ tỷ kheo có tánh tăng thượng mạn rất có thế lực. Lúc bấy giờ có một vị tỷ kheo Bồ tát tên là Thường Bất Khinh. Đắc Đại Thế! Tại sao tên Thường Bất Khinh? Là vì vị tỷ kheo ấy, hễ thấy ai, không kể tỷ kheo, tỷ kheo ni, hay ưu bà tắc, ưu bà di, đều thi lễ ca tụng, nói rằng tôi thâm kính các người, không dám khinh thị. Tại sao như thế? Vì Các người ai cũng có thể thực hành bồ tát hạnh và đều sẽ thành Phật.

Vị Tỷ kheo Thường không chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ thực hành sự thi lễ như vậy, đến nỗi dầu thấy những người đằng xa, không kể tỷ kheo, tỷ kheo ni, hay ưu bà tắc, ưu bà di, đều cố đến mà thi lễ, ca tụng, thưa rằng Tôi không dám khinh các người, các người ai cũng sẽ làm Phật. Trong số người nghe, có kẻ nổi giận, tâm trí nhơ bẩn, độc miệng mắng nhiếc, rằng cái ông tỳ kheo ngu xuẩn này, ở đâu đến đây không ai bảo mà cũng nói tôi không dám khinh thị các người, và quyết đoán cho chúng ta rằng sẽ làm Phật; chúng ta không cần đến sự quyết đoán viễn vông như vậy.

Mặc dù trải qua nhiều năm, thường bị mắng nhiếc như vậy, mà lòng không giận dữ, ngài Thường Bất Khinh vẫn luôn luôn nói rằng Các người sẽ làm Phật. Khi nói như vậy, có kẻ đánh bằng gậy gộc, ném bằng ngói đá, ngài chạy tránh đứng xa, vẫn lớn tiếng nói rằng Tôi không dám khinh thị các người, các người ai cũng sẽ làm Phật. Vì ngài thường nói nên những kẻ tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu ba di có tánh tăng thượng mạn gọi ngài là Thường Bất Khinh.

Vị tỷ kheo Bồ tát Thường Bất Khinh ấy, khi gần mất, được nghe trọn kinh Pháp Hoađức Phật Oai Âm Vương đầu tiên đã diễn thuyết, gồm có hai mươi ngàn vạn ức bài kệ ( ). Nghe rồi ngài thọ trì được cả. Do đó mà sáu căn nhãn, nhĩ tỷ thiệt thân ý đều được thanh tịnh như ta đã nói ở trước. Được sự thanh tịnh của sáu căn rồi tăng thêm tuổi thọ đến hai trăm vạn ức năm một cách rộng rãi, ngài vì mọi người thuyết pháp kinh Pháp Hoa ấy. Lúc ấy những kẻ tăng thượng mạn trong hàng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đã khinh thị ngài và gọi ngài là Thường Bất Khinh, thấy ngài được năng lực đại thần thông, năng lực nhạo thuyết biện, năng lực đại thiện tịch, nên nghe sự giảng giải kinh Pháp Hoa của ngài, tất cả đều tín phục tùy thuận.

Vị tỷ kheo Bồ tát ấy lại giáo hóa cho ngàn vạn ức người khác, làm cho họ an trú vô thượng bồ đề nên sau khi mất ngài lại gặp được hai ngàn ức đức Phật cùng một danh hiệuNhật Nguyệt Đăng Minh, và ở trong thời chánh pháp, tượng phápmạt pháp ( ) của các đức Phật ấy, ngài đều giảng giải kinh Pháp Hoa. Nhờ vậy mà lại gặp được hai ngàn ức đức Phật cùng danh hiệu Vân Tự Tại Đăng Vương. Trong thời chánh pháp, tượng phápmạt pháp của các đức Phật ấy, ngài Thường Bất Khinh vẫn thọ trì, đọc tụnggiảng giải cho tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di kinh Pháp Hoa này, do đó mà được thanh tịnh của sáu căn bình thường ( ), thuyết pháp cho tứ chúng tâm không còn e sợ. Đắc Đại Thế! Ngài Thường Bất Khinh đại sĩ phụng sự cho bao nhiêu đức Phật đó, cung kính, trân trọng, ca tụng và gieo trồng gốc rễ thiện pháp, nên sau đó lại được gặp ngàn vạn ức đức Phật nữa và trong thời chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp của các đức Phật này cũng giảng giải kinh Pháp Hoa, công đức thành tựu, sẽ thành Phật.

Đắc đại thế! Ông nghĩ sao, Bồ tát Thường Bất Khinh lúc bấy giờ có phải ai khác đâu, mà chính là ta đây. Nếu đời trước ta không thọ trì đọc tụnggiảng giải cho người khác kinh Pháp Hoa này thì ta không thể hoàn thành mau chóng vô thượng bồ đề. Vì nơi các đức Phật quá khứ, ta đã thọ trì đọc tụnggiảng giải cho người kinh Pháp Hoa nên hoàn thành mau chóng vô thượng bồ đề ấy.

Đắc Đại Thế! Lúc bấy giờ trong tứ chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, những kẻ vì giận dữ mà khinh dễ ta thì tuy đến hai trăm ức kiếp họ không gặp Phật, không nghe pháp, không thấy tăng, ngàn kiếp chịu sự khổ sở khủng khiếp trong vô gián địa ngục, nhưng hết tội báo ấy rồi, họ lại được gặp Bồ tát Thường Bất Khinh và được ngài giáo hóa cho pháp vô thượng bồ đề. Đắc Đại Thế! Ông nghĩ sao, những kẻ trong tứ chúng khinh thị Bồ tát Thường Bất Khinh lúc ấy có phải ai khác đâu, chính là những người hiện diện trong pháp hội này, tức năm trăm bồ tát như ông Bạt đà la vân vân, năm trăm tỷ kheo như ông Sư tử nguyệt vân vân, năm trăm ưu bà tắc như ông Ni tư phật vân vân, đều là những kẻ ngày nay đã được bất thoái chuyển đối với vô thượng bồ đề.

Đắc Đại Thế! Ông nên hiểu rằng kinh Pháp Hoa này rất ích lợi cho các vị Bồ tát đại sĩ, có năng lực làm cho họ đạt đến vô thượng bồ đề. Vì lí do ấy mà sau khi ta diệt độ, các vị Bồ tát đại sĩ nên luôn luôn thọ trì, đọc tụng, giảng giải và viết chép kinh Pháp Hoa.

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn trình bày lại ý nghĩa đã dạy nên nói bài kệ ( ) sau đây:

Quá khứđức Phật

Danh hiệu Oai Âm Vương

Thần thôngtrí tuệ

Tất cả đều vô lượng.

Giáo hóa và dắt dẫn

Tất cả các chúng sanh

Nhân, thiên và long thần

Hết thảy đều phụng sự.

Khi Phật ấy diệt độ

chánh pháp chấm hết, ( )

Thì có một Bồ tát

Danh hiệu Thường Bất Khinh.

Bấy giờ trong tứ chúng

Những kẻ nặng pháp chấp ( )

Bồ tát Thường Bất Khinh

Tìm đến chỗ của họ 

Và nói với họ rằng

Tôi không dám khinh người,

Vì tất cả các người 

Ai cũng có khả năng

Thực hành hạnh bồ tát

Và đều sẽ làm Phật.

Những người nghe nói thế

Có kẻ khinh mà mắng;

Nhưng ngài Thường Bất Khinh

Nhẫn nhụcchịu đựng.

Khi tội báo trả hết, 

Sự sống sắp kết thúc,

Ngài được nghe kinh này,

Sáu căn đều thanh tịnh.

Do năng lực thần thông

Kéo dài thêm sự sống,

Nên lại nói kinh này

Cho hết thảy mọi người.

Những kẻ pháp chấp trước

Cũng nhờ ngài tác thành

Mà được an trú nơi

Vô thượng giác của Phật

Sau khi ngài mạng chung

Được gặp vô số Phật,

Vẫn đem nói kinh này

Nên được vô lượng phước,

Dần dần đủ công đức

Mau chóng thành Phật đạo ( )

Thường Bất Khinh lúc ấy

Chính là thân ta đây;

Còn những kẻ pháp chấp

Trong tứ chúng lúc ấy

Nghe Thường Bất Khinh nói

Các người sẽ làm Phật,

Nhờ cái nhân duyên ấy,

Được gặp vô số Phật;

Nay trong pháp hội này

Năm trăm bồ tát chúng

Cùng với bốn bộ chúng,

Thiện namtín nữ

Nghe pháp trước mặt ta, 

Là hàng pháp chấp ấy.

Ta trong thời quá khứ 

Từng khuyến hóa mọi người

Nên kính thọ kinh này,

kinh pháp vô thượng.

Muốn giáo hóa mọi người

An trú nơi niết bàn

Thì đời đời thọ trì

Kinh điển Pháp Hoa ấy.

Trải qua vạn ức kiếp

Lâu đến không thể nghĩ,

Có lúc mới được nghe

Kinh điển Pháp Hoa này.

Cũng đến vạn ức kiếp

Lâu xa không thể nghĩ,

Chư Phật mới có lúc

Nói kinh Pháp Hoa này.

Vì vậy người tu hành

Sau khi Phật diệt độ

Được nghe kinh Pháp Hoa

Lòng đừng sinh nghi hoặc.

Cần phải chuyên một lòng

Đem kinh này truyền bá,

Thì đời đời gặp Phật

Mau chóng thành Phật đạo.

KINH A DI ĐÀ
Phật dạy kinh A di đà:

Như thật tôi nghe 

Một thời đức Phật

Ở nước Xá vệ

Vườn Cấp cô độc

Cùng tỳ kheo tăng

Một ngàn hai trăm

Năm mươi người đủ 

Đều là những bậc

Đại A la hán

Tai mắt đại chúng

Trưởng lão Xá lợi

Đại Mục kiền liên

Ma ha Ca diếp

Đại Ca chiên diên

Đại Câu thi la

Ly bà đa

Châu lợi bàn đà

A nan, Nan đà

La hầu la

Kiều phạm ba đề

Tân đầu, La đọa

Ca lưu đà di

Đại Kiếp tân na

A nâu lâu đà

Và Bạt câu la

Như vậy đông đủ 

Các hàng đệ tử 

Bồ tát đại sĩ

Văn thù sư lợi

Vương tử Văn thù 

A dật đa

Bồ tát Hương thượng

Bồ tát Bất hưu

Bồ tát Thường cần

Cùng như vậy thảy

Các đại bồ tát

Thích đề hoàn nhân

Vô lượng chư thiên

Đại chúng đông đủ,

Bấy giờ Phật gọi,

Ngài Xá lợi phất

Mà bảo như vầy:

Từ đây đi qua,

Đến hướng Tây phương,

Cách mười vạn ức,

Quốc độ chư Phật, 

một thế giới

Hiệu là Cực lạc

Trong thế giới ấy

Có một đức Phật

Hiệu A Di Đà

Hiện đang thuyết pháp

Này Xá lợi phất!

Vì sao cõi ấy

Tên làCực lạc ?

Chúng sanh cõi ấy,

Không có các khổ, 

Hoàn toàn an vui,

Nên gọi Cực lạc

Lại Xá lợi phất!

Cõi nước Cực lạc,

Bảy lớp lan can

Bảy lớp lưới giăng,

Bảy lớp hàng cây, 

Đều dùng bốn báu

Bao quanh bốn phía

Cho nên, cõi kia

Gọi là Cực lạc.

Lại Xá lợi phất!

Quốc độ Cực lạc,

Có hồ bảy báu

Có nước tám đức,

Vừa đầy trong đó,

Dưới đáy nước hồ, 

Toàn bằng cát vàng,

Bốn phía bờ đường,

Vàng bạc lưu ly

Pha lê xa cừ,

Họp lại mà thành,

Trên có lầu gác,

Cũng dùng vàng bạc,

Lưu ly pha lê,

Xa cừ mã não

Mà trang điểm đó. 

Hoa sen trong hồ, 

Lớn như bánh xe, 

Sen xanh ánh xanh,

Sen vàng ánh vàng,

Sen đỏ ánh đỏ,

Sen trắng ánh trắng,

Hương thơm ngào ngạt

Thanh khiết nhiệm mầu.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Cực lạc

Thành tựu như thế,

Công đức trang nghiêm.

Lại Xá lợi phất!

Quốc độ Phật kia,

Thường tấu nhạc trời

Vàng ròng làm đất,

Ngày đêm sáu thời

Rưới hoa mạn đà,

Chúng sinh ở đó 

Tảng sáng mỗi ngày

Đều dùng đảy gấm 

Đựng các thứ hoa

Cúng dường chư Phật.

Ở khắp mười phương

Mười vạn cõi Phật

Trong chừng giây lát

Trở về xứ mình,

Ăn cơm, kinh hành.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Cực lạc

Thành tựu như thế, 

Công đức trang nghiêm.

Còn như vầy nữa,

Này Xá lợi phất!

Cõi kia thường có 

Các thứ chim lạ, 

Màu sắc đẹp đẽ

Bạch hạc, khổng tước,

Anh vũ, xá lợi,

Ca lăng tần già,

Và chim cộng mạng.

Các loài chim ấy

Ngày đêm sáu thời

Kêu tiếng hòa nhã,

Tuyên dương những pháp

Năm căn năm lực,

Bảy phần bồ đề,

Tám phần thánh đạo,

Các pháp ấy thảy.

Chúng sinh ở đó 

Nghe tiếng ấy rồi, 

Đều nhớ niệm Phật

Niệm pháp, niệm tăng

Này Xá lợi phất!

Chớ bảo chim ấy

Thật do tội báo,

Bởi nghiệp sanh ra.

Lý do vì sao ?

Này Xá lợi phất! 

Quốc độ Phật kia, 

Không ba đường dữ

Này Xá lợi phất!

Cõi kia ác đạo

Còn không có tên

Làm gì có thật ?

Các loài chim ấy

Do Phật Di Đà

Muốn cho tiếng pháp

Vang khắp mọi nơi,

biến hóa ra.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Phật kia,

Gió dịu phảng phất

Thổi vào hàng cây,

Và các lưới báu,

Xuất tiếng nhiệm mầu,

Ví như trăm ngàn

Các thứ âm nhạc

Đồng thời hòa tấu.

Nghe tiếng nhạc ấy,

Tự nhiên sanh lòng

Niệm Phật, niệm pháp,

Niệm thánh hiền tăng.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Phật ấy,

Thành tựu như thế,

Công đức trang nghiêm.

Này Xa lợi phất!

Ý ông nghĩ sao ?

Phật kia vì sao

Gọi A Di Đà ?

Này Xá lợi phất!

Ánh sáng Phật kia,

Vô lượng vô biên,

A tăng kỳ kiếp

Cho nên, được gọi

A Di Đà.

Này Xá lợi phất!

Phật A Di Đà

Thành Phật đến nay

Đã qua mười kiếp.

Đại Xá lợi phất!

Phật kia hiện có 

Vô lượng vô biên

Thanh văn đệ tử 

Đều A la hán

Không thể tính kể 

Mà biết số lượng

Các hàng bồ tát,

Cũng lại như vậy.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Phật kia,

Thành tựu như thế

Công đức trang nghiêm.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Cực lạc

Chúng sanh sinh về

Đều được bất thối,

Trong đó hạng người

Nhất sinh bổ xứ,

Số ấy thật nhiều

Không thể tính kể

Biết được số lượng, 

Chỉ có thể nói

Vô lượng vô biên

A tăng kỳ kiếp.

Này Xá lợi phất!

Chúng sinh được nghe

Thì hãy phát nguyện,

Sanh về nước kia.

Lý do vì sao ?

Sinh về đó rồi,

Thường cùng các bực

Thượng thiện trí thức

Ở chung một chỗ.

Này Xá lợi phất!

Không thể do bởi

Chút ít thiện căn

Phước đức nhơn duyên

Mà được sanh về

Quốc độ Phật kia.

Này Xá lợi phất!

Nếu có thiện nam,

Hay người tín nữ 

Nghe nói cảnh giới 

Phật A di đà,

Chấp trì danh hiệu

Hoặc chỉ một ngày

Hoặc hai ba ngày

Hay năm sáu ngày

Cho đến bảy ngày,

Nhất tâm bất loạn,

Người ấy lâm chung

Khi bỏ báo thân,

Phật A di đà 

Và các thánh chúng

Hiện ra trước mắt.

Người ấy khi chết,

Lòng không điên đảo

Liền được vãng sanh

Quốc độ Cực lạc

Phật A di đà.

Này Xá lợi phất!

Ta thấy lợi ấy, 

Nên nói lời này:

Nếu chúng sanh nào,

Nghe pháp thoại này,

Hãy nên phát nguyện

Sinh về nước kia.

Lại Xá lợi phất!

Như ta hôm nay,

Xưng dương tán thán

Lợi ích công đức

Bất khả tư nghì.

Phật A di đà,

Phương Đông cũng có 

Phật A súc bệ,

Phật Tu di tướng,

Phật đại Tu di,

Phật Tu di quang,

Và Phật Diệu âm,

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới,

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sinh

Nên tin những lời 

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao

Bất khả tư nghì 

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương Nam,

Phật Nguyệt đăng 

Phật Danh văn quang,

Phật Đại diệm kiên,

Phật Tu di đăng

Phật lực Tinh tấn,

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba nghìn

Đại thiên thế giới,

Nói lời chân thật

Tất cả chúng sanh

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Bất khả tư nghì

Công đức lớn lao

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn.

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương Tây

Có Phật Vô lượng thọ,

Phật Vô lượng tướng,

Phật Vô lượng tràng,

Phật Đại quang,

Phật Đại minh

Phật Bửu tướng,

Phật Tịnh quang,

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình 

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sinh,

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao

Bất khả tư nghì,

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn.

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương Bắc

Thế giới phương Bắc

Có Phật Diệm kiên

Phật Tối thắng âm

Phật Nan trở 

Phật Nhật Minh

Phật Võng minh

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình 

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sanh

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao 

Bất khả tư nghì,

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương dưới

Phật Sư tử 

Phật Danh văn

Phật Đạt ma

Phật Pháp tràng

Phật Trì pháp

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình 

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sanh

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao 

Bất khả tư nghì,

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương trên

Có Phật Phạm âm

Phật Tú vương,

Phật Hương thượng,

Phật Hương quang,

Phật Đại diệm kiên,

Phật Tạp sắc,

Bảo hoa nghiêm thân,

Ta la thọ vương,

Phật Bảo hoa đức,

Kiến nhứt thiết nghĩa,

Phật Tu di sơn,

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sanh

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao 

Bất khả tư nghì,

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn

Này Xá lợi phất!

Ý người nghĩ sao?

Vì sao gọi là

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn?

Này Xá lợi phất!

Nếu có thiện nam 

Hay người thiện nữ

Nghe được kinh này,

Chuyên tâm thọ trì

Và nghe danh hiệu

Chư Phật Thế tôn,

Thì người thiện nam

Hay thiện nữ ấy

Đều được tất cả

Chư Phật thế tôn

Luôn luôn hộ niệm,

Đều không thối chuyển

Vô thượng bồ đề.

Vì vậy cho nên,

Này Xá lợi phất!

Các người đều phải

Nên tin lời ta

Và lời chư Phật

Này Xá lợi phất!

Nếu có những người

Đã phát nguyện rồi

Hay đang phát nguện

Hoặc sẽ phát nguện,

Muốn sanh quốc độ

Phật A Di Đà

Tất cả người ấy

Được không thối chuyển

Vô thượng bồ đề,

Và đã sinh về

Hoặc nay đang sinh

Hoặc sau sẽ sinh

Về quốc độ kia.

Vì vậy cho nên

Này Xá lợi phất!

Các người thiện nam

Hoặc kẻ thiện nữ

Nếu có lòng tin

Hãy nên phát nguyện

Sinh quốc độ kia.

Này Xá lợi phất!

Như ta hôm nay,

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao

Bất khả tư nghì

Của chư Phật ấy.

Thì các Phật kia

Lại cũng xưng tán

Công đức lớn lao

Bất khả tư nghì.

Các ngài nói rằng:

Đức Phật Thích ca

Mâu ni Thế tôn

Hay làm những việc

Hi hữu khó làm.

cõi Ta bà

Trong đời dữ dội

Bởi năm thứ trược,

Kiếp trược, kiến trược

Phiền não, chúng sanh

thọ mạng trược,

Để chứng đạo quả

Vô thượng bồ đề,

Lại vì chúng sanh

Nói ra những việc

Khó tin khó làm.

Này Xá lợi phất!

Ngươi biết, ta ở 

Trong đời ác trược

Làm việc khó ấy, 

Chứng được đạo quả

Vô thượng bồ đề,

Lại vì tất cả

Chúng sinh thế gian

Nói pháp khó tin,

Thật là rất khó.

Phật dạy đến đây,

Ngài Xá lợi phất

Cùng các tỳ kheo

Tất cả thế gian

Mọi người, chư thiên,

A tu la

Nghe lời Phật dạy

Hoan hỷ tín thọ,

Lạy Phật mà lui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17648)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24465)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25975)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13761)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13170)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22024)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19061)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9996)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11903)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13033)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15178)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10529)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21791)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10112)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9837)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9741)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10183)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27353)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17828)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13187)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25120)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34627)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26740)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19054)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13077)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8996)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9449)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9130)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11789)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18512)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8771)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10657)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10942)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27985)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17869)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14403)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16357)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13196)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15514)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14686)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7590)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17025)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8381)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30692)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant