Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

19. Nghi thức Cầu an và lễ Thành hôn

11 Tháng Tư 201400:00(Xem: 4400)
19. Nghi thức Cầu an và lễ Thành hôn

TÂM NHƯ - TRÍ THỦ TOÀN TẬP

Hòa Thượng Thích Trí Thủ

QUYỂN I: KINH

NGHI THỨC CẦU AN - LỄ THÀNH HÔN

LỜI DẶN

Trước khi cử hành nghi thức Cầu an Lễ thành hôn, hai họ có mặt tại chùa sắp hai hàng nam giới đứng bên trái, nữ giới bên phải (từ trong chánh điện nhìn ra). Cô dâu chú rể đứng giữa. Dâu bên phía nữ, rể phía nam giới. Đốt đèn nhang, xông trầm rồi mới thỉnh Chư tăng và vị Chủ lễ. Đổ ba hồi chuông trống bát nhã khi vị chủ lễ niêm hương nơi bàn Tổ.

NGHI THỨC
I. CHỦ LỄ TỊNH TAM NGHIỆP

Trang nghiêm mật niệm:

Tịnh pháp giới chơn ngôn:

An lam tóa ha (21 lần, tưởng chữ... vào chén nước sái tịnh để trên bàn).

Tịnh tam nghiệp chơn ngôn

Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần).

 

II. NIỆM HƯƠNG 

A.Nguyện Hương. 

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Ngát tỏa khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thề trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sanh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Chí tu học vững bền

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác.

Đấng Pháp vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y tròn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

B. Bạch Phật cầu nguyện

Ngưỡng bạch thập phương Chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo, chư long thiên hộ pháp, nhất thế thiện thần đồng thùy chứng giám:

Hôm nay, ngày... có hai thiện nam tín nữ tên... và... pháp danh (nếu có)... vâng lời cha mẹ hai bên, long trọng cử hành lễ thành hôn tại...

Hai đệ tử xin cần cầu đảnh lễ trước ngôi Tam Bảo, ngưỡng xin từ bi gia hộ cho hai đệ tử bồ đề tâm kiên cố, phước huệ trang nghiêm, vạn sự kiết tường, trăm năm hảo hợp, đời đời kiếp kiếp nguyện kết thành bồ đề quyến thuộc trong ánh đạo Từ bi, hộ trì chánh pháp thường tại thế gian lợi lạc hữu tình (cắm hương vào lư).

III. LỄ PHẬT

Xướng: 

Quy mạng thập phương điều ngự sư

Diễn dương thanh tịnh vi diệu pháp

Tam thừa tứ quả giải thoát tăng

Nguyện tứ từ bi ai nhiếp thọ.

Chí tâm đảnh lễ nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo (1 lạy).

Xướng: 

Thiên thượng thiên hạ vô như Phật

 Thập phương thế giới diệc vô tỷ

 Thế gian sở hữu ngã tận kiến

 Nhất thế vô hữu như Phật giả

Chí tâm đảnh lễ nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Linh sơn hội thượng Phật, Bồ tát (1 lạy).

Xướng: 

Phật thân thanh tịnh tợ lưu ly

Phật diện do như mãn nguyệt huy 

Phật tại thế gian thường cứu khổ

Phật tâm vô xứ bất từ bi.

Chí tâm đảnh lễ nam mô Đông phương giáo chủ Dược sư lưu ly Quang vương Phật, Tây phương giáo chủ A Di Đà Phật, biến pháp giới thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (1 lạy).

IV. TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT

Chủ lễ đọc văn sái tịnh Khai chuông mõ Tán hương... Tiếp tán: Quán âm bồ tát diệu nan thù... Chủ lễ bưng chén nước đọc:

Phù thử thủy giả bát công đức thủy tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, lưu nhập tỳ lô hoa tạng giới, cá trung vô xứ bất siêu luân, thủy bất tẩy thủy, diệu cực pháp thân, trần bất nhiễm trần, phản tác tự kỷ, quyên trừ nội ngoại, đảng địch đàn tràng sái khô mộc nhi tác dương xuân, khiết uế bang nhi thành tịnh độ, sở vị đạo: nội ngoại trung gian vô trược uế, thánh phàm u hiển tổng thanh lương.

Bồ tát liễu đầu cam lồ thủy

Năng linh nhất đích biến thập phương

Tinh chuyên cấu uế tận quyên trừ

Linh thử đàn tràng tất thanh tịnh.

Giáo hữu mật ngôn cẩn đương trì tụng. Tụng chú Đại Bi.

Lưu ý: Khi làm lễ sái tịnh, vị chủ lễ chỉ dùng một bông hoa nhỏ chấm vào chén nước rồi điểm ngay trên đỉnh đầu của hai người, không nên rải nước nhiều như các nghi thức khác. Trong lúc sái tịnh, vị chủ lễ thầm niệm "án lam tóa ha" ba lần, chấm nước ba lần.

Tụng:

Đại từ đại bi mẫn chúng sanh

Đại hỷ đại xả tế hàm thức

Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm

Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.

Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo.

Đọc lời cầu nguyện (Dâu rể đều quì, chú rể đọc trước lời cầu nguyện tự viết lấy).

Lời khuyên khi trao nhẫn 

(Bảo hai trẻ quì, vị chủ lễ đến trước mặt tay cầm nhẫn nói lời khuyên)

Hôm nay là ngày thành hôn của hai con, ngày kỷ niệm trọng đại trong đời. Vì vậy nên về mặt tâm linh mới có phần nghi lễ trang nhiêm này. Thầy đã thay mặt ngôi Tăng Bảo ngưỡng bạch lên mười phương chư Phật, cầu thùy từ chúng minh gia hộ cho hai con được an vui hạnh phúcvạn sự kiết tường như ý. Sau đây, Thầy có đôi lời khuyên nhủ: Kể từ hôm nay các con không còn ỷ lại vào mẹ cha mà các con đã thực sự nhận lãnh trách nhiệm của tuổi trưởng thành đối với bản thân, gia đìnhxã hội.

a/ Đối với bản thân. Nói về tam quy

Nếu các con chưa quy y ngôi Tam Bảo, thì nên cần cầu quy y. Nếu đã quy y rồi, thì các con phải giữ tròn tam quy ngũ giới và phải luôn luôn nghe lời Phật dạy, giữ đúng là một Phật tử tại gia, học tu đúng chánh pháp hầu làm lợi ích cho mình và cho mọi người mọi loài chung quanh mình.

Hai con luôn luôn khắc sâu vào tâm trí hình ảnh của chư Phật, bởi vì Phật là đấng phước trí vẹn toàn.

Hai con phải luôn nhớ rõ những lời Phật dạy, vì lời dạy của chư Phật là nguồn chơn lý thậm thâm vi diệu.

Hai con phải luôn tuân cứ với sự khuyên dạy của chư tăngChư Tăng là bậc thay mặt Phật tu hành tinh nghiêm thường trụ tại thế gian truyền trì chánh pháp, làm nhiêu ích cho chúng sanh.

(Giảng rộng thêm nếu có thì giờ)

Khi hai con đã hiểu sự lợi ích to lớn và ý nghĩa cao quý về Phật Pháp Tăng là ba ngôi báu nhất, thường còn ở thế gian này, các con đã hướng về quy ngưỡng rồi thì dầu gặp phải hoàn cảnh nào, trường hợp nào các con cũng không xa rời. Các con không quy ngưỡng theo trời thần ma quỉ, không tin theo ngoại đạo tà giáo, không tùy tùng bè bạn xấu ác. Được như vậy, các con chẳng những đời này đầy đủ phước đứcvĩnh kiếp không còn sa đọa nơi ba đường dữ địa ngục ngạ Quỷvà súc sanh.

Về phần năm giới

Phật dành riêng răn dạy cho hàng tại gia, hai con phải nhớ và làm theo:

Hai con không nên sát sanh, làm cho kẻ khác vì mình mà chết. Trái lại, luôn tôn trọng sự sống của người và muôn vật.

Không nên gian tham trộm cắp bất cứ vật quý báu hoặc nhỏ nhặt.

Không được phạm thuần phong mỹ tục, phá hoại hạnh phúc gia đìnhtiết hạnh của người khác.

Phải giữ sự thành tín, không nói lời giối trá để thủ lợi về mình, gieo họa cho kẻ khác.

Không nên vì sự buồn vui vô lý mà phạm vào việc say sưa rượu chè.

Tuân giữ đúng tam quy ngũ giớiđiều kiện tiên quyết của người con Phật tại gia, không thể thiếu được.

Kinh dạy: Bốn điều TIN không thể mất. Bốn điều này phải giữ thanh tịnh không gì lay chuyển nổi (Bốn điều tin là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Chánh giới).

b/ Đối với gia đình. Trong kinh Thiện Sanh đức Phật dạy con người sống phải có mối tương quan giữa vợ và chồng.

Chồng đối với vợ có năm điều. 

1. Lễ độ với vợ 

2. Không xem thường vợ 

3. Chung thủy với vợ 

4. Trao quyền nội chính cho vợ 

5. May sắm đầy đủ cho vợ.

Vợ đối với chồng cũng phải đủ năm điều. 

1. Thay chồng quản lý nhà cửa ngăn nắp

2. Săn sóc giúp đỡ chồng

3. Trinh thuận với chồng

4. Giữ gìn gia sản chung

5. Siêng năng làm việc và thuận thảo với cha mẹ, thân bằng quyến thuộc hai bên.

Phần này hai con phải tìm học nơi kinh Thiện sanh, kinh Ưu bà tắc, và phải giữ đúng lời Phật chỉ dạy. Thực hành đúng phần này là gầy dựng được hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và làm nền tảng gầy dựng phước đức an vui cho con cháu.

c/ Đối với xã hội

Quan hệ vợ chồng, gia đình, thân quyến khắn khít, sẽ giúp cho liên quan xã hội mật thiết. Vì gia đìnhphần tử của xã hội. Nếu mọi người đều tốt thì xã hội tốt. Và nếu xã hội tốt thì cảnh thiên đường niết bàn ở ngay chốn trần gian này. Chân lý nhân sinh vũ trụ là không có sự vật gì đơn độctồn tại. Luôn có nhân duyên liên quan tương đối với nhau. Hai con phải có sự hiểu biết như thế để nhớ làm tròn phận sự đối với xã hội, chu toàn nghĩa vụ công dân đất nước và chung cùng trách nhiệm đời sống cũng như tình cảm với bà con chòm xóm láng giềng.

Ân Tam bảo, ân thầy bạn, ân cha mẹ, ân đất nước và chúng sanh là bốn ân người Phật tử phải làm tròn.

Trao nhẫn Vị chủ lễ cầm hai chiếc nhẫn khuyến nhủ:

Này hai con, tục lệ vào ngày lễ thành hôn có phần trao nhẫn để làm điều kết ước cùng nhau và cũng chính vật kết tước này nhắc nhở cho nhau ghi nhớ mãi mãi.

Chiếc nhẫn làm bằng vàng hình khoen vòng tròn đeo vào ngón tay. Vàng là một trong những vật quý của người đời, tượng trưng cho sự trong sạch không nhiễm ố, không thay đổi chất màu với thời gian. Vòng tròn tượng trưng cho sự tròn đầy trong quy luật gia đình. Tên của nó gọi là NHẪN nhắc nhớ người đeo phải nhẫn nhịn nhau. Kinh Pháp Hoa Phật dạy là có nhẫn nhục được thì mới nhu hòa. Kẻ nào nhẫn nhục nhu hòa là kẻ ấy đang mặc áo Như lai, hưởng đủ đầy công đức.

Trong đời sống hằng ngày, hai con không sao tránh khỏi ngang trái. Khi gặp hoàn cảnh nghịch ý, hai con đưa ngón tay nhìn vào chiếc nhẫn để rồi nhẫn nhịn hoặc nhẫn nhục. Được như thế hai con mới xây dựngbảo vệ hạnh phúc cho nhau và cho mọi thành viên của đại gia đình mình.

Phật dạy: "Nhẫn là gốc của muôn hạnh lành. Trong các hạnh, nhẫn ở địa vị cao nhất". Thay mặt người thân hai con, Thầy trao đôi nhẫn làm vật kết ước này để tượng trưng dẫn dắt hai con luôn sống với hạnh nhẫn.

(LƯU Ý: Khi trao nhẫn, vị chủ lễ không trực tiếp đeo mà bảo chú rể cô dâu ngửa tay nhận và đeo cho nhau. Chờ đeo xong, tiếp tục khuyên nhủ)

Được nhận nhẫn, hai con luôn nhớ sống theo hạnh nhẫn nhục và khắc ghi ân sanh thành nuôi dạy của cha mẹ đôi bên, bởi người đã lam lũ hy sinh và trao trọn tình thương vô bờ bến cho hai con. Có đức tin vững chắc và hạnh nhẫn nhục kiên trì, bước đường tương lai của hai con chắc chắn sẽ hoàn toàn an vui hạnh phúc.

V. TỤNG TIÊU TAI, TỰ QUY, HỒI HƯỚNG

A. Tiêu tai cát tường thần chú: Nẳng mồ tam mãn đa một đà nẩm, a bát ra để hạ đa xá ta nẳng nẩm, đát điệt tha, án khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha.

B. Nguyện an lành:

Nguyện ngày an lành, đêm an lành,

Đêm ngày sáu thời thường an lành

Tất cả các thời đều an lành

Xin nguyện từ bi thường gia hộ.

Nam mô tiêu tai giáng kiết tường Bồ tát.

C. Tự quy:

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh

Thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng (lạy). 

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh

Thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển (lạy).

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh

Thống lý đại chúng, hết thảy không ngại (lạy).

D. Hồi hướng

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tửchúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo.


GHI CHÚ: Sau lễ, đại diện hai họ nên đọc lời cảm tạ Tam Bảo, chư tăng, họ hàng thân hữu và nhắc nhớ củng cố khắc ghi ở hai trẻ. Lễ tạ ba lạy rồi lui ra.

KINH A DI ĐÀ
Phật dạy kinh A di đà:

Như thật tôi nghe 

Một thời đức Phật

Ở nước Xá vệ

Vườn Cấp cô độc

Cùng tỳ kheo tăng

Một ngàn hai trăm

Năm mươi người đủ 

Đều là những bậc

Đại A la hán

Tai mắt đại chúng

Trưởng lão Xá lợi

Đại Mục kiền liên

Ma ha Ca diếp

Đại Ca chiên diên

Đại Câu thi la

Ly bà đa

Châu lợi bàn đà

A nan, Nan đà

La hầu la

Kiều phạm ba đề

Tân đầu, La đọa

Ca lưu đà di

Đại Kiếp tân na

A nâu lâu đà

Và Bạt câu la

Như vậy đông đủ 

Các hàng đệ tử 

Bồ tát đại sĩ

Văn thù sư lợi

Vương tử Văn thù 

A dật đa

Bồ tát Hương thượng

Bồ tát Bất hưu

Bồ tát Thường cần

Cùng như vậy thảy

Các đại bồ tát

Thích đề hoàn nhân

Vô lượng chư thiên

Đại chúng đông đủ,

Bấy giờ Phật gọi,

Ngài Xá lợi phất

Mà bảo như vầy:

Từ đây đi qua,

Đến hướng Tây phương,

Cách mười vạn ức,

Quốc độ chư Phật, 

một thế giới

Hiệu là Cực lạc

Trong thế giới ấy

Có một đức Phật

Hiệu A Di Đà

Hiện đang thuyết pháp

Này Xá lợi phất!

Vì sao cõi ấy

Tên làCực lạc ?

Chúng sanh cõi ấy,

Không có các khổ, 

Hoàn toàn an vui,

Nên gọi Cực lạc

Lại Xá lợi phất!

Cõi nước Cực lạc,

Bảy lớp lan can

Bảy lớp lưới giăng,

Bảy lớp hàng cây, 

Đều dùng bốn báu

Bao quanh bốn phía

Cho nên, cõi kia

Gọi là Cực lạc.

Lại Xá lợi phất!

Quốc độ Cực lạc,

Có hồ bảy báu

Có nước tám đức,

Vừa đầy trong đó,

Dưới đáy nước hồ, 

Toàn bằng cát vàng,

Bốn phía bờ đường,

Vàng bạc lưu ly

Pha lê xa cừ,

Họp lại mà thành,

Trên có lầu gác,

Cũng dùng vàng bạc,

Lưu ly pha lê,

Xa cừ mã não

Mà trang điểm đó. 

Hoa sen trong hồ, 

Lớn như bánh xe, 

Sen xanh ánh xanh,

Sen vàng ánh vàng,

Sen đỏ ánh đỏ,

Sen trắng ánh trắng,

Hương thơm ngào ngạt

Thanh khiết nhiệm mầu.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Cực lạc

Thành tựu như thế,

Công đức trang nghiêm.

Lại Xá lợi phất!

Quốc độ Phật kia,

Thường tấu nhạc trời

Vàng ròng làm đất,

Ngày đêm sáu thời

Rưới hoa mạn đà,

Chúng sinh ở đó 

Tảng sáng mỗi ngày

Đều dùng đảy gấm 

Đựng các thứ hoa

Cúng dường chư Phật.

Ở khắp mười phương

Mười vạn cõi Phật

Trong chừng giây lát

Trở về xứ mình,

Ăn cơm, kinh hành.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Cực lạc

Thành tựu như thế, 

Công đức trang nghiêm.

Còn như vầy nữa,

Này Xá lợi phất!

Cõi kia thường có 

Các thứ chim lạ, 

Màu sắc đẹp đẽ

Bạch hạc, khổng tước,

Anh vũ, xá lợi,

Ca lăng tần già,

Và chim cộng mạng.

Các loài chim ấy

Ngày đêm sáu thời

Kêu tiếng hòa nhã,

Tuyên dương những pháp

Năm căn năm lực,

Bảy phần bồ đề,

Tám phần thánh đạo,

Các pháp ấy thảy.

Chúng sinh ở đó 

Nghe tiếng ấy rồi, 

Đều nhớ niệm Phật

Niệm pháp, niệm tăng

Này Xá lợi phất!

Chớ bảo chim ấy

Thật do tội báo,

Bởi nghiệp sanh ra.

Lý do vì sao ?

Này Xá lợi phất! 

Quốc độ Phật kia, 

Không ba đường dữ

Này Xá lợi phất!

Cõi kia ác đạo

Còn không có tên

Làm gì có thật ?

Các loài chim ấy

Do Phật Di Đà

Muốn cho tiếng pháp

Vang khắp mọi nơi,

biến hóa ra.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Phật kia,

Gió dịu phảng phất

Thổi vào hàng cây,

Và các lưới báu,

Xuất tiếng nhiệm mầu,

Ví như trăm ngàn

Các thứ âm nhạc

Đồng thời hòa tấu.

Nghe tiếng nhạc ấy,

Tự nhiên sanh lòng

Niệm Phật, niệm pháp,

Niệm thánh hiền tăng.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Phật ấy,

Thành tựu như thế,

Công đức trang nghiêm.

Này Xa lợi phất!

Ý ông nghĩ sao ?

Phật kia vì sao

Gọi A Di Đà ?

Này Xá lợi phất!

Ánh sáng Phật kia,

Vô lượng vô biên,

A tăng kỳ kiếp

Cho nên, được gọi

A Di Đà.

Này Xá lợi phất!

Phật A Di Đà

Thành Phật đến nay

Đã qua mười kiếp.

Đại Xá lợi phất!

Phật kia hiện có 

Vô lượng vô biên

Thanh văn đệ tử 

Đều A la hán

Không thể tính kể 

Mà biết số lượng

Các hàng bồ tát,

Cũng lại như vậy.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Phật kia,

Thành tựu như thế

Công đức trang nghiêm.

Này Xá lợi phất!

Quốc độ Cực lạc

Chúng sanh sinh về

Đều được bất thối,

Trong đó hạng người

Nhất sinh bổ xứ,

Số ấy thật nhiều

Không thể tính kể

Biết được số lượng, 

Chỉ có thể nói

Vô lượng vô biên

A tăng kỳ kiếp.

Này Xá lợi phất!

Chúng sinh được nghe

Thì hãy phát nguyện,

Sanh về nước kia.

Lý do vì sao ?

Sinh về đó rồi,

Thường cùng các bực

Thượng thiện trí thức

Ở chung một chỗ.

Này Xá lợi phất!

Không thể do bởi

Chút ít thiện căn

Phước đức nhơn duyên

Mà được sanh về

Quốc độ Phật kia.

Này Xá lợi phất!

Nếu có thiện nam,

Hay người tín nữ 

Nghe nói cảnh giới 

Phật A di đà,

Chấp trì danh hiệu

Hoặc chỉ một ngày

Hoặc hai ba ngày

Hay năm sáu ngày

Cho đến bảy ngày,

Nhất tâm bất loạn,

Người ấy lâm chung

Khi bỏ báo thân,

Phật A di đà 

Và các thánh chúng

Hiện ra trước mắt.

Người ấy khi chết,

Lòng không điên đảo

Liền được vãng sanh

Quốc độ Cực lạc

Phật A di đà.

Này Xá lợi phất!

Ta thấy lợi ấy, 

Nên nói lời này:

Nếu chúng sanh nào,

Nghe pháp thoại này,

Hãy nên phát nguyện

Sinh về nước kia.

Lại Xá lợi phất!

Như ta hôm nay,

Xưng dương tán thán

Lợi ích công đức

Bất khả tư nghì.

Phật A di đà,

Phương Đông cũng có 

Phật A súc bệ,

Phật Tu di tướng,

Phật đại Tu di,

Phật Tu di quang,

Và Phật Diệu âm,

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới,

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sinh

Nên tin những lời 

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao

Bất khả tư nghì 

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương Nam,

Phật Nguyệt đăng 

Phật Danh văn quang,

Phật Đại diệm kiên,

Phật Tu di đăng

Phật lực Tinh tấn,

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba nghìn

Đại thiên thế giới,

Nói lời chân thật

Tất cả chúng sanh

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Bất khả tư nghì

Công đức lớn lao

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn.

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương Tây

Có Phật Vô lượng thọ,

Phật Vô lượng tướng,

Phật Vô lượng tràng,

Phật Đại quang,

Phật Đại minh

Phật Bửu tướng,

Phật Tịnh quang,

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình 

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sinh,

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao

Bất khả tư nghì,

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn.

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương Bắc

Thế giới phương Bắc

Có Phật Diệm kiên

Phật Tối thắng âm

Phật Nan trở 

Phật Nhật Minh

Phật Võng minh

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình 

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sanh

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao 

Bất khả tư nghì,

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương dưới

Phật Sư tử 

Phật Danh văn

Phật Đạt ma

Phật Pháp tràng

Phật Trì pháp

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình 

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sanh

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao 

Bất khả tư nghì,

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn

Này Xá lợi phất!

Thế giới phương trên

Có Phật Phạm âm

Phật Tú vương,

Phật Hương thượng,

Phật Hương quang,

Phật Đại diệm kiên,

Phật Tạp sắc,

Bảo hoa nghiêm thân,

Ta la thọ vương,

Phật Bảo hoa đức,

Kiến nhứt thiết nghĩa,

Phật Tu di sơn,

Như vậy cho đến

Vô lượng vô số

Chư Phật thế tôn

quốc độ mình

Hiện ra tướng lưỡi

Đẹp đẽ rộng dài

Trùm khắp ba ngàn

Đại thiên thế giới

Nói lời chân thật:

Tất cả chúng sanh

Nên tin những lời

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao 

Bất khả tư nghì,

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn

Này Xá lợi phất!

Ý người nghĩ sao?

Vì sao gọi là

Kinh được hết thảy

Chư Phật giữ gìn?

Này Xá lợi phất!

Nếu có thiện nam 

Hay người thiện nữ

Nghe được kinh này,

Chuyên tâm thọ trì

Và nghe danh hiệu

Chư Phật Thế tôn,

Thì người thiện nam

Hay thiện nữ ấy

Đều được tất cả

Chư Phật thế tôn

Luôn luôn hộ niệm,

Đều không thối chuyển

Vô thượng bồ đề.

Vì vậy cho nên,

Này Xá lợi phất!

Các người đều phải

Nên tin lời ta

Và lời chư Phật

Này Xá lợi phất!

Nếu có những người

Đã phát nguyện rồi

Hay đang phát nguện

Hoặc sẽ phát nguện,

Muốn sanh quốc độ

Phật A Di Đà

Tất cả người ấy

Được không thối chuyển

Vô thượng bồ đề,

Và đã sinh về

Hoặc nay đang sinh

Hoặc sau sẽ sinh

Về quốc độ kia.

Vì vậy cho nên

Này Xá lợi phất!

Các người thiện nam

Hoặc kẻ thiện nữ

Nếu có lòng tin

Hãy nên phát nguyện

Sinh quốc độ kia.

Này Xá lợi phất!

Như ta hôm nay,

Xưng dương tán thán

Công đức lớn lao

Bất khả tư nghì

Của chư Phật ấy.

Thì các Phật kia

Lại cũng xưng tán

Công đức lớn lao

Bất khả tư nghì.

Các ngài nói rằng:

Đức Phật Thích ca

Mâu ni Thế tôn

Hay làm những việc

Hi hữu khó làm.

cõi Ta bà

Trong đời dữ dội

Bởi năm thứ trược,

Kiếp trược, kiến trược

Phiền não, chúng sanh

thọ mạng trược,

Để chứng đạo quả

Vô thượng bồ đề,

Lại vì chúng sanh

Nói ra những việc

Khó tin khó làm.

Này Xá lợi phất!

Ngươi biết, ta ở 

Trong đời ác trược

Làm việc khó ấy, 

Chứng được đạo quả

Vô thượng bồ đề,

Lại vì tất cả

Chúng sinh thế gian

Nói pháp khó tin,

Thật là rất khó.

Phật dạy đến đây,

Ngài Xá lợi phất

Cùng các tỳ kheo

Tất cả thế gian

Mọi người, chư thiên,

A tu la

Nghe lời Phật dạy

Hoan hỷ tín thọ,

Lạy Phật mà lui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17597)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24398)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25904)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13729)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13148)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 21937)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19021)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9973)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11880)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13008)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15139)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10509)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21730)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10087)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9825)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9730)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10170)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27243)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17793)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13154)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25012)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34545)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26697)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 18991)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 8980)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13038)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8968)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9428)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9109)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11765)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18479)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8748)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10634)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10909)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27936)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17842)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14381)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16332)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13173)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15435)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14653)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7552)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 16940)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8347)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30625)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant