Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vua Lưu LyDòng Họ Thích

11 Tháng Bảy 201414:28(Xem: 6730)
Vua Lưu Ly Và Dòng Họ Thích

VUA LƯU LYDÒNG HỌ THÍCH

Toàn Không
(Tăng Nhất A Hàm, quyển 2, Phẩm Đẳng Kiến, từ trang 301)

1) - NHÂN DUYÊN:

Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi. Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng: “Nay ta mới nối ngôi, ta nên cưới con gái dòng họ Thích, nếu được cho cưới, thật vừa lòng ta, nếu không bằng lòng, ta sẽ áp lực bức bách.”

Lúc ấy, Vua bảo một vị Quan đến thành Ca Tỳ La Vệ để làm sao cưới được con gái dòng họ Thích, khi ấy Quan Đại Thần vậng lệnh Vua đến thành Ca Tỳ La Vệ gặp các người dòng họ Thích và nói:

- Vua Ba Tư Nặc hỏi thăm sức khỏe quý vị, Vua muốn cưới con gái họ Thích, nếu được chấp thuận gả cho thật là đại hạnh, nếu không gả, Vua sẽ phải dùng áp lực.

Các vị dòng họ Thích nghe nói những lời ấy hết sức sân hận bàn riêng với nhau: “Chúng ta là dòng dõi lớn, duyên cớ gì lại cùng tên hèn mọn kết duyên”. Trong số đó, có người nói nên cho, có người nói không nên cho, lại có người tên Ma Ha Nam nói:

- Chư vị chớ nên bực tức. Tại sao? Vua Ba Tư Nặc là người bạo ác, nếu không gả con gái cho hắn, hắn sẽ đánh phá nước ta, để tôi sẽ đến gặp hắn bàn về sự việc này, vì tôi đã có cách.

Trong nhà Ma Ha Nam có một nô tỳ nữ sinh được một đứa con gái diện mạo thanh tú đẹp đẽ nết na hiếm có trên đời. Ma Ha Nam sai cho sửa soạn son phấn mặc đẹp cho cô gái trông càng hấp dẫn, Ông dẫn con gái ấy theo đến gặp Vua Ba Tư Nặc và nói:

- Đây là con gái tôi có thể cùng Vua kết duyên trăm năm.

Vua Ba Tư Nặc được cô gái đẹp đẽ như thế hết sức vui mừng, liền lập làm đệ nhất Phu nhân, chưa bao lâu sau cô mang thai, trải qua hơn chín tháng sinh một con trai đẹp đẽ thế gian hiếm có. Khi đặt tên, Vua mời thầy coi tướng đặt tên, thầy tướng nói: “Lúc cầu hôn họ Thích, người bàn nên cho kẻ bàn không nên cho khiến đây đó lưu ly, nay nên đặt tên là Lưu Ly.

Vua Ba Tư Nặc yêu thương Thái tử Lưu Ly vô cùng, khi mới 8 tuổi Vua bảo Thái tử:

- Nay con đã lớn, nên đến Ca Tỳ La Vệ học bắn cung.

Rồi Vua cấp cho Thái tử những người hầu, cho cưỡi voi đến nhà Ông ngoại Ma Ha Nam dòng họ Thích nói rằng:

- Phụ Vương con sai con đến đây học cách bắn cung, cúi xin Ông ngoại dạy bảo.

Ma Ha Nam bảo:

- Muốn học thuật bắn cung phải khéo tập tành.

Rồi Ma Ha Nam tụ tập rất nhiều thiếu niên đến khiến cùng Lưu Ly học tập bắn cung nỏ, bấy giờ dòng họ Thích mới xây dựng một giảng đường lớn còn chưa xong hẳn, họ thiết trí bên trong giống như Thiên cung cõi Trời để sẽ cúng dàng đức Phật và chúng Tỳ Kheo.

Khi ấy, Lưu Ly cùng với một số trẻ vào giảng đường lại leo lên tòa sư tử ngồi. Những người họ Thích thấy thế hết sức tức giận, bèn chạy tới cầm cánh tay kéo xuống khỏi chỗ ngồi, rồi lôi ra ngoài cửa, xúm nhau mắng nhiếc rằng: “Đây là con nô tỳ, không ai dám vào đây mà đứa con nô tỳ này dám trèo lên tòa sư tử ngồi!”

Rồi có người xô Lưu Ly ngã té lăn xuống đất. Lưu Ly đứng dậy than thầm, rồi Lưu Ly thấy con Phạm chí là bạn chơi, người hầu tên Hiếu Khổ đứng gần ngay đấy, liền đến sát bên bảo nhỏ Hiếu Khổ:

- Họ Thích hạ nhục ta đến thế này!, sau này nếu ta nối ngôi Vua, nhớ nhắc ta chuyện này.

LỜI BÀN:

Phàm là con người, đa phần hay có tính giận dữ khi thấy bất cứ việc gì xảy ra không vừa ý, liền sinh ra nói ác (ác khẩu) nói lời độc ác, làm cho người nghe đau đớn khổ sở tâm thần. Việc xô đẩy làm cho Lưu Ly ngã xuống chỉ là phụ thôi, cũng như cho thêm dầu vào lửa khiến lửa cháy bùng to lên, chính lời nói hạ nhục mới là lời dữ độc tệ hại nhất; nếu khéo cư xử, trong trường hợp ấy, chỉ cần bảo nhỏ nhẹ là trẻ nhỏ nghe theo, nếu không nghe theo mới phải bắt xuống khỏi tòa sư tử một cách nhẹ nhàng. Rồi yêu cầu tất cả trẻ nhỏ đi ra ngoài chơi, nên đóng cửa lại hoặc có người trông chừng không cho các em vào trong để phá; tuyệt đối không nên hạ nhục các em dưới bất cứ hình thức nào, nhất là hành động nắm lôi kéo xô đẩy hay đánh các em lại càng phải tránh, nếu cư xử được như vậy thì đâu có những hậu hoạn nữa? Âu là do nghiệp báo xui khiến, nên những người họ Thích mới nói ra (miệng) và hành động (thân) như thế để có duyên cớ cho Lưu Ly hành động sau này. Chúng ta theo dõi tiếp câu chuyện dưới đây:

2) – HẬN THÙ XƯA:

Từ đó, Hiếu Khổ thường không quên nhắc Thái tử, đến khi Vua Ba Tư Nặc qua đời, Thái tử Lưu Ly được làm Vua, Hiếu Khổ nhắc tâu:

- Vua hãy nhớ khi xưa bị họ Thích làm nhục.

Khi ấy Lưu Ly nổi cơn giận dữ, liền triệu tập Quần Thần rồi hỏi:

- Nay chúa tể nhân dân là ai?

Quần Thần đều thưa:

- Ngày nay do Đại Vương thống lãnh.

Vua Lưu Ly ra lệnh:

- Vậy thì các ông hãy sửa soạn binh mã, quân xa, bốn bộ, ta muốn đi chinh phạt dòng họ Thích.

Sau khi quân mã các binh chủng sẵn sàng đầy đủ, Vua Lưu Ly đẫn đoàn quân đông đảo hùng mạnh tiến đến nước Ca Tỳ La Vệ. Bấy giờ, một số Tỳ Kheo nghe tin trên liền đến thưa với đức Phật, Ngài nghe xong đi đến ngồi kết già dưới một gốc cây bên đường mà Vua Lưu Ly sẽ đem quân đi ngang qua. Khi Vua Lưu Ly đến gần trông thấy đức Phật, liền xuống xe đi bộ đến chỗ Ngài ngồi cúi lạy rồi thưa:

- Có những cây lá tươi tốt xum xê, sao Ngài lại ngồi dưới cây khô này?

Đức Phật đáp:

- Bóng mát của thân tộc hơn hẳn người ngoài.

Lưu Ly nghĩ:

- Hôm nay Thế Tônthân tộc, vậy hôm nay ta nên trở về, chẳng nên chinh phạt Ca Tỳ La Vệ nữa.

Nghĩ rồi, Vua ra lệnh rút quân, Vua cúi đầu chào Phật xong trở về, một thời gian sau, Hiếu Khổ lại tâu Vua:

- Đại Vương hãy nhớ khi xưa bị dòng họ Thích làm nhục.

Vua nghe lời này liền nổi giận, ra lệnh bốn quân khởi binh đi chinh phạt nước Ca Tỳ La Vệ lần thứ hai, lần này cũng vậy, sau khi các Tỳ Kheo báo cáo thưa trình sự việc, đức Phật cũng đến gốc cây ngồi kiết già. Vua Lưu Ly trông thấy đức Phật cũng đến cúi đầu lễ Ngài và nói tương tự như lần trước, Đức Phật cũng bảo: “Bóng mát của thân tộc hơn người ngoài”, rồi Ngài nói kệ:

Bóng mát của thân tộc,

Từ họ Thích có Phật,

Đều là cành lá Ta,

Nên ngồi dưới cây này.

Bấy giờ Lưu Ly nghĩ: “Thế Tôn xuất phát từ dòng họ Thích, ta không nên trừng phạt mà hãy quay về”, nghĩ rồi, Vua liền ra lệnh lui quân, và cúi đầu chào Phật trở về.

Một thời gian sau, Phạm chí Hiếu Khổ lại nhắc Vua về sự bị làm nhục thuở xưa ấy, nghe xong Vua lại triệu tập đại quân bốn binh chủng tiến đến nước Ca Tỳ La Vê. Lúc ấy, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nghe tin liền đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ xong thưa:

- Hôm nay, Vua Lưu Ly lại triệu tập bốn binh (Gồm: Quân cưỡi voi, quân cưỡi ngựa, quân ngồi trong xe, và quân đi bộ), với áo giáp, cung tên gươm đao giáo mác v.v... rất hùng dũng. Tuy nhiên, con có thể đủ sức khiến Vua Lưu Ly và bốn binh kia không làm gì được bằng cách đưa tất cả dân thành Ca Tỳ La Vệ đến thế giới khác.

Đức Phật bảo:

- Thầy có thể đem túc duyên của họ đưa sang thế giới khác được sao?

Suy nghĩ vài giây, Tôn giả thưa:

- Thật không thể đem túc duyên của họ mà đặt vào thế giới khác, nhưng con có thể đem cả thành Ca Tỳ La Vệ để lên hư không.

Đức Phật bảo:

- Thầy hãy về chỗ ngồi đi, Thầy có thể đem túc duyên của họ Thích đặt lên hư không sao?

Suy nghĩ vài giây, Tôn giả lại thưa:

- Thưa không thể làm được, vậy xin phép Thế Tôn cho phép con biến hóa ra lồng sắt lớn chụp lên thành Ca Tỳ La Vệ để bảo toàn sinh mạng của dòng họ Thích, được không?

Đức Phật lại bảo:

- Thế nào Mục Kiền Liên, có thể lấy lồng sắt chụp lên túc duyên chăng?

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên suy nghĩ rồi thưa:

- Quả là không thể, thưa Thế Tôn.

Đức Phật nói:

- Thầy hãy về chỗ ngồi đi, hôm nay túc duyên đã chín, sẽ phải thọ báo.

Rồi đức Phật nói kệ:

Muốn hư không làm đất,

Lại khiến đất thành không,

Chỗ duyên xưa trói buộc,

Duyên này không hư hoại.

LỜI BÀN:

Vua Lưu Ly có người bầy tôi trung thành không quên nhắc Vua về nhục xưa, nên Vua Lưu Ly đã hai lần tiến quân rồi lại quay về vì hai lần đều gặp Phật. Vua Lưu Ly vì sự tôn kính của Vua cha là Vua Ba Tư Nặc đối với đức Phật, nên ông phải kính nể theo mà rút quân.

Một điểm đáng để ýVua Ba Tư NặcPhật tử thuần thành, nhưng ông lại có người con không biết gì về Phật pháp, nên đã để sự thù hằn riêng tư của mình dẫn dắt, nếu là người học Phật thuần thành đã không hành động trả thù, để rồi tạo ác.

Khi Vua Lưu Ly đem quân đi lần thứ ba, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên đề nghị với đức Phật cho Tôn giả được phép dùng thần thông để mang dòng họ Thích đến thế giới khác, hoặc giấu họ Thích trên không, hoặc biến hóa ra lồng sắt lớn chụp khắp thành Ca Tỳ La Vệ để bảo toàn sinh mạng dòng họ Thích; Đức Phật đã bác bỏ tất cả, vì không thể dùng thần thông để đối phó với nghiệp báo nhân quả được.

Đức Phật hỏi Tôn giả: “Có thể lấy lồng sắt chụp lên túc duyên sao?”

Túc duyên là gì? Là duyên đã đầy đủ rồi, tức là cái nghiệp xưa đã tạo ra, nay đã chín mùi rồi nên phải nhận; cũng như gây duyên trồng cây, cây sẽ dần dần lớn lên, rồi sinh hoa kết quả, quả lớn dần lên, tới thời quả chín, tự nhiên nó phải rụng, không thể làm cách nào cho quả không rụng được, tạo nghiệp ác cũng giống như vậy. Chúng ta theo dõi đoạn Kinh kế tiếp:

3) – CHIẾN TRANH:

Lúc ấy các người họ Thích nghe tin Vua Lưu Ly đem quân đến đánh, họ huy động tụ tập bốn bộ quân trong một do tuần (Khoảng từ 15 đến 20 cây số = 10 dặm Anh) để cự địch. Khi họ trông thấy rồi, từ xa bắn qua chỗ Vua Lưu Ly, nhưng họ lại bắn vào mũ và tóc, không làm tổn thương đầu, hoặc bắn vào áo giáp không làm tổn thương thân. Hoặc bắn vào cung cho gẫy không hại đến người, hoặc bắn vào xe, vào cờ quạt, không hại mạng quân địch v.v...

Vua Lưu Ly thấy thế sợ hãi và bảo quân thần:

- Phải cho họ chết hết mới nên trở về Xá Vê.

Lúc ấy Phạm chí Hiếu Khổ tâu Vua:

- Đại Vương đừng sợ! vì sao? Vì: những người họ Thích đều trì giới của Phật, côn trùng họ còn không muốn hại huống chi lại là người, Đại Vương không cần phải sợ, nay ta cứ tiến quân lên, ắt có thể phá được họ.

Do đó Vua Lưu Ly mạnh dạn hơn, tiến dần lên, họ Thích phải rút về thành. Lúc ấy ở ngoài thành, Vua Lưu Ly cho quân sĩ truyền nói vọng vào bảo rằng:

- Mau mở cửa thành, nếu không sẽ giết chết cả thành.

Bấy giờ, trong thành Ca Tỳ La Vệ có một thanh thiếu niên tuổi mới 15, 16 tên Xà Ma thấy hai bên đánh nhau, liền mặc áo giáp, cầm gậy, một mình ra khỏi thành đánh nhau với quân của Lưu Ly. Thanh thiếu niên ấy có sức khỏe và võ nghệ, nên giết nhiều binh lính của Lưu Ly, làm cho quân bộ của Lưu Ly chạy tán loạn, lúc ấy Lưu Ly sợ hãi phải chạy tránh vào một hố đất, rồi hỏi quần thần:

- Trông giống như một đứa bé mà sao nó đi tới đâu quân ta rạt ra tới đấy, đó là Trời hay Quỷ Thần mà ghê gớm thế?

Những người họ Thích ở trong thành trông thấy binh lính của Lưu Ly bị giết, bị bại, chạy rạt ra như thế, họ hỏi ra được biết thanh thiếu niên đó là người từ trong thành ra đánh giết, nên họ Thích liền cho người gọi vào thành mà bảo:

- Ngươi còn nhỏ cớ sao làm nhục dòng họ Thích chúng ta, há Ngươi chẳng biết họ Thích tu hành pháp lành sao? Chúng ta có thể phá tan quân địch kia, chúng ta có thể một người giết nhiều quân địch, nhưng như thế sẽ giết hại chúng sanh vô số kể. Đức Thế Tôn đã nói: “Phàm giết người khi chết sẽ vào địa ngục”, nếu Ngươi hiểu, Ngươi hãy rời khỏi đây ngay đi, không được hại người nữa; bấy giờ Xà Na liền đi ra khỏi thành đến nước khác.

Vua Lưu Ly thấy đứa bé vào trong thành rồi không thấy ra đánh nữa nên mừng trong bụng. Sau một thời gian, Vua lại cho lệnh quân binh nói lớn yêu cầu trong thành mở cửa, không được chần chờ chậm trễ nữa, khi ấy, các người họ Thích bàn nhau nên mở cửa hay không nên nở cửa, làm sao cho phải, họ chưa quyết định được. Bấy giờ, tệ Thiên Ma Ba Tuần biết được sự tình, liền biến nhập vào một người dòng họ Thích, bảo mọi người:

- Các Ông nên cho mở cửa thành, chứ chịu vây khốn mãi sao?

Họ Thích liền cho mở cửa thành, khi ấy, Vua Lưu Ly bảo quần thần:

- Nhân dân họ Thích rầt nhiều, chẳng phải đao kiếm có thể hại hết được, nên đem chôn chân xuống đất, rồi cho voi dữ đạp chết.

Bấy giờ quần thần vâng lệnh Vua, liền ra lệnh cho quân binh thi hành và cho voi giầy đạp chết những người họ Thích, Lưu Ly còn ra lệnh:

- Các Ông mau chọn 500 con gái sinh đẹp cho ta.

Quần thần vâng lệnh Vua, liền tìm bắt 500 thanh thiếu nữ đẹp đem nhốt vào một chỗ cho Vua, khi ấy Thích Ma Ha Nam đến chỗ Lưu Ly bảo:

- Hãy theo ý nguyện của tôi.

Vua Lưu Ly nói:

- Ông muốn nguyện những gì?

Ma Ha Nam bảo:

- Nay tôi lặn xuống đáy hồ nước, tùy lúc lặn mau hay chậm, Vua để các người họThích được quyền chạy trốn, nếu tôi nhô lên ra khỏi nước thì tùy ý giết họ.

Vua Lưu Ly nói:

- Việc này rất hay.

Thích Ma Ha Nam già cả liền đi xuống lặn dưới nước, Vua ra lệnh cho quân lính tạm ngưng giết trong chốc lát; khi ấy, các người họ Thích trong thành chạy trốn, nhưng người ở cửa Đông chạy qua cửa Tây, người ở cửa Tây chạy qua cửa Đông, người ở cửa Nam chạy qua cửa Bắc, người ở cửa Bắc chạy qua cửa Nam. Vua Lưu Ly chờ lâu quá không thấy ông Ngoại Ma Ha Nam trồi lên, nên bảo quần thần:

Tổ phụ Ma Ha Nam cớ sao lặn xuống nước lâu rồi không thấy lên, tại sao?, quần Thần cho người lặn xuống tìm kiếm, mò mãi mới đem được xác Ma Ha Nam đã chết lên, thì ra Ma Ha Nam đã lấy tóc cuốn cột vào rễ gốc cây ở dưới nước mà chết!, Lưu Ly mới hối hận nói:

- Ông của ta chết vì yêu thân tộc, ta chẳng biết nên để Ông chết, nếu biết thế này, ta chẳng chinh phạt họ Thích.

Lúc ấy, Vua Lưu Ly đã giết chín nghìn chín trăm chín mươi nghìn người (9,990,000, tức 9 triệu 990 ngàn người), máu chảy lênh láng khắp quanh thành Ca Tỳ La Vệ, rồi Vua Lưu Ly đến vườn Ni Câu Lưu chỗ giữ các thiếu nữ dòng họ Thích, đến rồi bảo các cô gái:

- Các cô cẩn thận, chớ sầu lo, ta là chồng các cô, các cô sẽ là vợ ta, phải nên tiếp đãi nhau.

Nói xong, Lưu Ly liền vươn tay nắm một cô, ý đùa cợt. Cô gái ấy hỏi:

- Đại Vương muốn làm gì?

Lưu Ly nói:

- Muốn cùng cô vui vầy.

Cô gái nói:

- Cớ sao phải cùng con của đầy tớ chung vui?

Lưu Ly liền tức giận ra lệnh:

- Mau đem người này chặt chân tay rồi đẩy xuống hầm sâu.

Năm trăm cô gái thấy thế liền đồng thanh mắng nhiếc Lưu Ly:

- Ai mà đem thân này cùng con của đầy tớ thông giao?

Lưu Ly giận dữ ra lệnh chặt hết tay chân 500 cô gái ấy, rồi xô xuống hầm sâu hết thảy!

LỜI BÀN:

Dòng họ Thích đã không biết dã tâm của Vua Lưu Ly là đánh để trà thù tiêu diệt, chứ chẳng phải để chiếm đất nước cai trị (Do đó nước Ca Tỳ La Vệ đã bị xóa tên vì chết hầu hết). Nếu họ Thích biết rằng sau khi Lưu Ly đánh thắng sẽ giết hết mọi người như thế thì chắc chắn họ đã không mở cửa thành, mà phải hô hào mọi người chống trả tới cùng, dù có phải giết địch để bảo vệ mạng sống của nhân dân họ. Nếu họ biết dã tâm của Lưu Ly độc ác như thế, thì họ đã không ngăn cản thiếu niên yêu nước thương nòi một mình xông pha nơi trận địa, đã không khích lệ khen thưởng, còn bị mạt sát đuổi đi! Âu là nhân duyên diệt vong cho dòng họ Thích đã tới như lời đức Phật đã nói, nên xui khiến như vậy!

Cũng là tới “số”, nên Thiên Ma mới xen vào, mà Ma thì luôn luôn thấy chỗ nào làm cho chết chóc là có mặt, nên Ma mới nhập vào người của họ Thích để nói lời Ma muốn; cũng vì không biết lòng ác độc của Lưu Ly, nên những người họ Thích đã cho mở cửa thành để lãnh thảm họa của hận với thù.

Một điều cần để ý nữa là Thích Ma Ha Nam dùng kế chịu chết để cứu những người dòng họ Thích chạy thoát, nhưng những người này lại chạy từ cửa thành này qua cửa thành khác, chứ không chạy đi, nên tất cả đều bị giết. Tại sao họ không thể chạy trốn khỏi?, đây là Thiên Ma làm, Ma dẫn đường vào chỗ chết. Đây cũng là nghiệp tận số cùng đã đến, cái mà đức Phật gọi là “Túc duyên”, túc duyên dẫn dắt họ chạy lòng vòng vào chỗ chết. Thê thảm thay! thương thay!

Vụ hành xác chặt chân tay 500 cô gái nguyên do từ đâu? Việc chinh phạt là do sự xỉ nhục trước kia, nay các cô gái nhắc lại sự xỉ nhục ấy, nên đã làm cho Lưu Ly càng thêm giận dữ hơn lên gấp bội. Sự xỉ nhục ấy cũng là do Lưu Ly đánh phá giết hại nhân dân Ca Tỳ La Vệ mà các cô vừa chứng kiến; sự xỉ nhục ấy cũng là ác khẩu và thêm nghiệp nhân cho túc duyên xưa mau thành khổ quả mà các cô phải nhận.

Vụ thảm sát do Vua Lưu Ly gây ra thời ấy đã làm chấn động thế giới Ấn Độ thời đó vì đã giết quá nhiều người trong chỉ vài ngày. Máu chảy thành sông hồ, thây chất thành núi! Thế giới đã xảy ra những vụ thảm sát bạo tàn bao nhiêu lần trước, và bao nhiêu lần sau đó?

Nếu thế giới này, tất cả mọi người đều được học và thực hành giáo lý của đức Phật, sự hận thù sẽ giảm đi rất nhiều, và như vậy mới mong thế giới hòa bình được, những gì sẽ xảy ra sau chiến tranh, chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn Kinh kế tiếp dưới đây:

4) – SAU CHIẾN TRẬN:

Khi Vua Lưu Ly đã tàn hại hết nước Ca Tỳ La Vệ, rồi trở về thành Xá Vệ. Lúc ấy Thái tử Kỳ Đà ở trong cung cùng các mỹ nữ vui chơi. Đi xa xa, Vua nghe tiếng đàn ca liền hỏi tùy tùng về tiếng đàn ca ấy, nên được biết là Thái tử đang vui chơi; Vua cho voi rẽ vào nơi cung ấy, người giữ cửa tâu Vua khoan vào vì Thái tử đang vui vầy, Vua liền giết người ấy; khi nghe tiếng ồn ào bên ngoài, nên Thái tử vội ra thấy Vua cha, chào hỏi và mời vào cung nghỉ.

Vua Lưu Ly hỏi:

- Con có biết là ta cùng họ Thích đánh nhau không? Tại sao con mải vui chơi không chịu giúp ta?

Thái tử Kỳ Đà đáp:

- Con có nghe, nhưng con chẳng kham giết hại chúng sanh, nên không thể giúp được.

Lúc ấy Lưu Ly tức giận rút gươm chém chết Vương tử Kỳ Đà!

Đức Phật dùng Thiên nhãn thấy Kỳ Đà đã chết sinh lên cõi Trời Đạo Lợi, rồi Ngài nói kệ:


Hưởng phúc trong Trời Người,

Đức Vương tử Kỳ Đà,

Làm lành sau hưởng báo,

Đều do nhân hiện tại.

Trước khổ sau cũng khổ,

Lưu Ly hai chỗ lo,

Làm ác sau thọ dữ,

Đều do nhân hiện tại.

Bấy giờ 500 cô gái họ Thích ở trong hầm sâu đau đớn kêu tên hiệu Như Lai và nói rằng:

- Như Lai ra đời từ nơi này xuất gia thành Phật, thế mà Ngài chẳng nhớ đến chúng con đang gặp khổ nạn nơi đây, chịu đau đớn thế này sao?

Lúc ấy, đức Phật dùng Thiên nhĩ nghe các cô gái họ Thích than thở kêu oán, Ngài liền bảo các Tỳ Kheo:

- Tất cả các Thầy hãy theo Ta đến xem thành Ca Tỳ La Vệ cùng các người họ Thích bị giết.

Rồi đức Phật cùng các Tỳ Kheo đi đến thành Ca Tỳ La Vệ, các cô gái thấy đức Phật và các Tỳ Kheo từ xa đến đều sinh hổ thẹn, khi ấy có Vua Trời Đế Thích tay cầm phất trần đi phía bên phải, Tỳ Sa Môn Thiên Vương đi phía bên trái cầm lọng báu che cho Phật. Đức Phật thấy thế liền quay qua bảo Vua Đế Thích:

- Những cô gái kia đều hổ thẹn.

Đế Thích đáp:

- Đúng thế, thưa Thế Tôn.

Đế Thích liên lấy áo trời che lên thân thể các cô gái, lúc ấy, đức Phật bảo Tỳ Sa Môn Thiên Vương:

- Các cô gái này đói khát, Ông nên làm cách nào ban bố cho họ.

- Xin vâng, Thế Tôn.

Tỳ Sa Môn Thiên Vương liền sai các Quỷ Thần bày biện mang các thức ăn tự nhiên của Trời cho các cô gái đều được no đủ. Rồi đức Phật thuyết pháp cho 500 cô gái nghe:

- Tất cả rồi sẽ ly tán, hội ngộ rồi sẽ biệt ly, nên biết năm ấm của con người đều chịu sự khổ đau phiền não. Phàm thọ thân phải có nghiệp báo, phải có hành báo, nên có thụ thai, đã thọ thai rồi sẽ chịu quả báo khổ vui bệnh già chết. Nếu không có 5 ấm sẽ không thọ thân nữa, nếu không thọ thân nữa thì không sinh không bệnh, không già, không chết, nên không có hội họp biệt ly, không có khổ não.

Rồi Ngài nói về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, cách diệt khổ, và con đường đạo; khổ là do ái dục tham lam, sân hận ngu si gây ra, nên cần phải dứt bỏ.

Các cô gái đều được tâm ý khai mở, dứt hết ô uế của cuộc đời, được tâm thanh tịnh, mỗi cô ở chỗ của mình mà qua đời, đều được sinh lên Trời, lúc ấy đức Phật nói kệ:


Tất cả hành vô thường,

Có sinh ắt có chết,

Chẳng sinh thì chẳng diệt,

Diệt này là vui nhất.

Lúc ấy, đức Phật bảo các Tỳ Kheo:

- Ngày xưa Ta ở vườn Ni Câu Lưu này thuyết pháp cho các Tỳ Kheo, nhân dân sung túc, mấy vạn chúng ở đây đắc đạo, được pháp nhãn thanh tịnh, nay ở đây trống rỗng chẳng còn nhân dân, từ nay Như Lai sẽ không trở lại nơi đây nữa.

Đức Phật nói rồi bèn rời nơi ấy, các Tỳ Kheo đi theo về vườn Cấp Cô Độc rừng Kỳ Đà.

LỜI BÀN:

Đọc đến đây, chúng ta thấy Vua Ba Tư NặcPhật tử thuần thành, tới con là Vua Lưu Ly lại là người không hiểu Phật pháp, nên đã hành động theo bản tính thường tình, đó là bị sự giận dữ thù hằn sai khiến nên đã làm một việc đại ác giết người không thương tiếc như thế!

Tới cháu đích tôn của Vua Ba Tư NặcThái tử Kỳ Đà lại là Phật tử thuần thành, hiểu rõ Phật pháp, nên đã nói với Vua Lưu Ly rằng: “Con chẳng kham giết hại chúng sinh, nên không thể giúp được”. Tức là chẳng nỡ, chẳng đành lòng giết hại chúng sanh, nên không thể đi giết người để giúp Vua cha; vì vậy, Lưu Ly đã nổi điên lên liền rút gươm giết luôn con mình không cần suy nghĩ!

Mặt khác, 500 cô gái họ Thích đã bị chặt chân tay rồi bỏ trong hầm sâu rất đau đớn, nhưng chưa chết được. Một điểm cần nêu ra ở đây là việc làm vô cùng ác độc của Lưu Ly và quân lính, đã chặt tay chân còn lột hết quần áo khiến các cô gái đều lõa thể trần truồng. Đây là thú tính của con người tàn ác dã man nên mới làm như thế!

Khi các thanh thiếu nữ ấy thân bị vứt nằm ngổn ngang trong hầm đau đớn kêu than cầu Phật nhớ đến họ, Ngài và các đệ tử đã đến để an ủi và độ cho các cô gái còn đang như những đóa hoa rực rỡ muôn màu trong xuân tươi mát bị chà đạp rập vùi bởi những bàn tay hung tàn độc ác trên cõi đời tục lụy trần gian!

Đức Phật đã bảo các Vua Trời che thân thểsăn sóc các cô gái vào lúc cuối đời của họ, Ngài còn thuyết pháp cho họ nghe, Ngài dạy: “Năm ấm của con người đều chịu sự khổ đau phiền não.”

Năm ấm là gì? Năm ấm cũng gọi là năm uẩn, gồm có: Sắc, thụ, tưởng, hành, và thức. Năm thứ ấm này hợp lại thành con người, được chia ra như sau:

THÂN: Cũng gọi là Sắc là xác thân gồm bốn thứ: đất, nước, gió, lửa hợp thành thân thể các bộ phận tay chân con người.

Đất: là chất cứng như xương, móng, tóc, gân thịt.

Nước: là chất lỏng như máu, chất nhờn, nước bọt, nước tiểu.

Gió: là không khí như hơi thở, ợ, ngáp v.v...

Lửa: là hơi nóng trong cơ thể con người.

TÂM: Về tinh thần, gồm bốn thứ là thụ, tưởng, hành, thức.

Thụ là thọ là cảm giác vui buồn khi 6 căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với 6 trần là hình sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm, pháp (vạn vật).

Tưởng là tưởng tượng tưởng nhớ, là tri giác, là hình dung ngoại cảnh.

Hành là những hoạt độngtác ý, có ý muốn, do suy nghĩ sinh, do ý muốn mà có hành.

Thức do sự nhận biết phân biệt khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần mà có.

Tại sao năm ấm của con người đều chịu sự khổ đau phiền não? Vì:

Về thân: Bốn thứ đất nước gió lửa trong cơ thể nếu không điều hòa sẽ làm con người đau ốm. Ví dụ: Thiếu chất đất cứng sẽ bị bệnh loãng xương gẫy xương, người lớn tuổi thường hay bị bệnh loãng xương, thiếu chất lửa, chúng ta bị lạnh, nhiều chất nóng quá bị nhức đầu bị sốt, thiếu chất nước (chất nhờn) khó cử động tay chân v.v...

Về Tâm: Tất cả thụ, tưởng, hành, thức phát khởi tức là các sự nhớ tưởng, suy nghĩ, phân biệt đều đưa đến khổ đau phiền não cả. Như khi mắt thấy hình sắc sẽ khởi yêu ghét, yêu thích cái sinh đẹp tìm cách đạt cho được, đó là tham đắm, nên tạo khổ, ghét cái xấu thì chê bai, tìm cách gạt bỏ, nên cũng tạo khổ.

Tai nghe lời nói ưa hay ghét, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nghĩ muôn việc cũng như thế, đều tạo khổ đau phiền não, nên đức Phật nói: “Năm ấm của con người đều chịu sự khổ đau phiền não” là vậy. Chúng ta theo dõi đoạn Kinh chót để biết nghiệp báo nhãn tiền.

5) - QUẢ BÁO NHÃN TIỀN:

Khi về vườn Cấp Cô Độc, rồi đức Phật bảo các Tỳ Kheo:

- Vua Lưu Ly và quân lính cùng tùy tùng của ông ta chẳng còn ở đời bao lâu nữa, sau bảy ngày sẽ bị tiêu diệt!

Bấy giờ Vua Lưu Ly nghe tin đức Phật thụ ký rằng “Vua Lưu Ly cùng quân lính tùy tùng sẽ chết trong vòng bảy ngày” thì lo sợ bảo quần thần:

- Nay Như Lai huyền ký ta chẳng còn ở đời lâu, sau bảy ngày sẽ cùng quân lính chết hết. Các Ông coi xét cho kỹ xem có giặc, lửa, nước, tai biến xâm phạm đất nước chăng, vì sao? Vì Chư Phật không có hai lời, không hư dối; các Ông phải cho canh phòng ngày đêm thật nghiêm ngặt, chuẩn bị mọi thứ, sẵn sàng đề phòng mọi bất chắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Phạm chí Hiếu Khổ tâu:

- Đại Vương không cần sợ hãi, bên ngoài không có giặc cướp đáng sơ, cũng không có lửa nước tai biến nào cả, Đại Vương nên vui chơi.

Lưu Ly sai đếm từng ngày, đến đầu ngày thứ bảy, Vua vui mừng không thể kìm giữ, đem các quân binh cùng quần thần và mỹ nữ đến bờ sông A Chi La vui chơi, rồi nghỉ đêm tại đó.

Nửa đêm, bất ngờ có mây đen kéo đến, rồi mưa to gió lớn rất mau, Vua Lưu Ly cùng bốn bộ quân binh và quần thần đều bị nước cuốn đi hết, tất cả đều bị tiêu diệt sạch. Chết rồi, tất cả cùng vào địa ngục!

Lại có sấm sét gây lửa Trời khiến cung thành của Lưu Ly cháy thiêu rụi thành than!

Đức Phật dùng Thiên nhãn xem thấy Vua Lưu Ly và bộ hạ bị mưa gió bão tố lôi cuốn chết hết, rồi bị đọa vào địa ngục A Tỳ. Lúc ấy, Ngài nói kệ:


Tạo ác thật quá mức,

Đều do thân miệng làm,

Thân này chịu khổ não,

Thọ mạng cũng ngắn ngủi.

Nếu ở lại trong thành,

Cũng bị ngọn lửa thiêu,

Khi túc mạng đã hết,

Ắt sinh trong địa ngục.

Bấy giờ các Tỳ Kheo thưa với đức Phật:

- Nay Vua Lưu Ly đã chết rồi, ông ta sinh về đâu?

Đức Phật bảo:

- Vua Lưu Ly sinh vào địa ngục A Tỳ.

Tỳ Kheo thắc mắc hỏi Phật:

- Những người họ Thích xưa kia tạo nhân gì mà nay bị Vua Lưu Ly hại nhiều như thế?

Đức Phật nói:

- Ngày xưa về lâu xa, trong thành La Duyệt này có một làng to lớn chuyên môn đánh cá, khi ấy đời sống hết sức nghèo đói, người phải ăn cả rễ cây, tại làng ấy có một cái ao đầm lớn có rất nhiều cá, nhân dân trong làng đều bắt cá ăn; dưới nước có hai loại cá, một loại tên Câu Tỏa, một loại tên Lưỡng Thiệt (hai lưỡi).

Hai cá đầu đàn của hai loại cá ấy nói với nhau: “Chúng ta không có lỗi lầm gì với những người trong làng này, họ bắt ăn bà con chúng ta hết lớp nọ đến lớp kia, nếu chúng taphúc đức, sau này sẽ dùng vào việc báo oán”. Chẳng bao lâu sau, hai cá lớn đầu đàn ấy cũng bị bắt, lại có một đứa bé mới 8 tuổi không hại mạng cá, cũng không bắt cá, nhưng lúc hai cá đầu đàn kia bị bắt, đứa bé trông thấy vui mừng.

Các Thầy nên biết, các Thầy chớ cho rằng nhân dân thành La Duyệt lúc đó là những người nào, nay họ chính là những người họ Thích vậy, con cá đầu đàn Câu Tỏa bây giờ là Vua Lưu Ly, con cá Lưỡng Thiệt nay là Phạm chí Hiếu khổ. Đứa bé thấy hai cá đầu đàn (hai cá to lớn) kia bị bắt vui cười lúc đó, nay chính là Ta. Các người ở thành La Duyệt hồi đó ăn cá, nay chịu sự trả thù này, còn Ta vui cười nay bị nhức đầu. Vì Như Lai không thụ thân sau nên qua hết các nguy nan, các Thầy nên giữ gìn hành động từ thân miệng ý. Các Thầy nên học điều này.

LỜI BÀN:

Việc xảy ra cho Vua Lưu Ly thật là kỳ lạ ngoài sự dự đoán của mọi người, lúc mới nghe tin đức Phật thụ ký như thế, Vua Lưu Ly đã thấy sợ, nhưng có đại thần Hiếu Khổ tâu mọi việc giặc cướp nước lửa đều không có gì đáng quan tâm vì đã đề phòng cẩn thận. Lại nữa, đến ngày thứ bảy mà vẫn thấy êm thấm, Vua Lưu Ly đã tưởng là thoát, không có gì xảy ra, nên mừng rỡ không thể kìm giữ, liền ra lệnh tất cả ra bờ sông ăn mừng. Đâu có ngờ rằng đó là buổi ăn chơi cuối cùng chào biệt cõi đời của kẻ kiêu ngạo ác độc cùng cực trên thế gian!

Trận giông tố bão bùng sấm sét mưa tuôn ấy chỉ trong ít giờ sau đã quyét sạch sự kiêu căng cao ngạo của con người bạo tàn tiêu diệt gần 10 triệu sinh linh! nước mưa trong vũ bão đã cuốn đi rửa sạch máu và chôn vùi thi thể oan khiên của nhân dân cả nước Ca Tỳ La Vệ sau cuộc thảm sát chỉ trước đó mới 10 ngày. Đây là một thảm kịch của con người do lòng thù hận, tính bạo tàn gây ra. Từ ngày ấy đến nay đã trên 2550 năm, nhưng như lịch sử chứng tỏ con người vẫn tiếp tục giữ lòng hận thù, giữ tính bạo tàn, nên đã có biết bao nhiêu sự thảm sát tiếp tục xảy ra trên thế giới này!

Đoạn cuối bài Kinh, đức Phật kể tiền duyên, nghiệp xưa gây nên quả báo, chúng ta thấy nghiệp báo nhân quả rõ ràng là một định luật thiên nhiên, có nhân là có quả, quả đi theo nhân như bóng với hình, không đi đâu tránh khỏi được; chỉ có tu hành mới có thể chuyển nghiệp được phần nào, cho tới khi tu đạt đạo ra khỏi luân hồi sinh tử mới ra khỏi khổ não, và ra khỏi nghiệp báo được mà thôi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8015)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35550)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19690)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11702)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23184)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13352)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5843)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10619)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10356)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10053)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20867)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6206)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6854)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8895)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6017)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18155)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6352)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6555)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13016)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5873)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7889)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10206)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7875)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9870)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9083)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5984)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24552)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36392)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7725)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11549)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10045)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5228)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5420)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10003)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7884)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9367)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8659)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46526)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6903)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12314)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5798)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14507)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12990)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12436)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14563)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12428)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10954)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9636)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16696)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8477)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5966)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9955)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6375)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11353)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7046)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46705)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13500)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8395)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6858)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9176)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6181)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6906)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17853)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18176)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15797)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6953)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31245)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9575)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7689)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21623)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34173)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33319)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14237)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35648)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13006)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15774)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13684)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33038)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26363)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41415)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40358)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20049)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33708)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29684)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33732)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18872)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22706)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22436)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49003)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11968)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11164)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22519)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18007)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15119)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22688)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16003)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13118)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19724)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12069)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17659)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant