Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

- Thơ Và Câu Đối

27 Tháng Hai 201100:00(Xem: 6218)
- Thơ Và Câu Đối


TÂM NHƯ - TRÍ THỦ TOÀN TẬP

Hoà Thượng Thích Trí Thủ


THƠ VÀ CÂU ĐỐI

THƠ
VIẾT TRONG ĐỜI SỐNG ĐẠO

PHẬT HỌC VIỆN NHA TRANG

Mang mang trường dạ trung

Tam bảo vi minh đăng

Thao thao khổ hải nội

Tam bảo vi từ hàng.

Hoang mang giữa quãng đêm dài

Này ngôi Tam bảo là đài quang minh

Ngập trời bể khổ lênh đênh

Này ngôi Tam bảo sanh linh thuyền từ.

Kỷ niệm Phật đản 2505

THÍCH TRÍ THỦ 
 
 

CUNG KỶ TỪ HIẾU TỔ ĐÌNH KHÁNH THÀNH CHI LỄ 

Mạc nhĩ Thiền tôn truy tư Tổ

Đức quang hỷ từ bi đại tai

Hùng lực Từ Hiếu gia danh

Xuân sơn tịnh vức bất ỷ bất thiên.

Duy tinh tình nhất thị pháp trường

Ngưng kỳ nghi bất hoặc lịch đại

Miên miên tiêu tâm dực dực

Vạn cổ chân phong yết kỳ hữu cực.

Phật lịch nhị thiên ngũ bách tứ niên

Canh tý Mạnh Đông

Ba La, Tra Am tọa chủ hiệu Trí Thủ 

Tịnh môn pháp bái thượng.

(Câu đối ở chùa Từ Hiếu, đề tặng Hòa Thượng Tọa chủ nhân lễ khánh thành chùa). 
 
 

ĐỀ TẶNG HÒA THƯỢNG CHÙA CHÂU LÂM. 

Mỹ hỷ đạo sư, cứ sư tử tòa, diễn đại pháp âm

Hoán tỉnh mê nhơn văn diệu kệ,

Thiện tai văn sĩ, trước tệ cấu y, hiện tiểu thừa tướng

Vãng hồi cùng tử phó gia trân.
 
 

ĐỀ TẶNG CHÙA BA LA, HUẾ 

Bán thiên chung bích nhập Kỳ viên

Mãn địa hoa hương khai Phật quốc

(Câu đối)

Dĩ Đức Trì thân hảo tác nhân

Tam sinh thạch thượng thủ tinh thần

Hành thâm Bát nhã Ba la mật,

Mãn địa thiên hoa bất trước thân.

(Phật lịch nhị ngũ nhất ngũ, Tân hợi Thu)
 
 

ĐIẾU SƯ HUYNH TRÍ GIẢI

 Tam sanh thạch thượng ức tiền duyên,

 Nhân, ngã, đồng tham Đại Phổ Hiền.

 Quy khứ bất phường, vân tán tụ, 

 Cô tùng, hạc lãnh, nại hà thiên!

Dịch

 Ba sanh hòn đá nhớ tiền duyên

 Cùng học cùng tu hạnh Phổ Hiền.

 Đi mất, ngại gì mây tán tụ!

 Tùng côi hạc lạnh nói sao nên!
 
 

NƯỚC TÀO KHÊ

Khe Tào nước chảy về Đông,

Bát bình nối dõi lâu không nhớ ngày.

Trăng thiền nào khác xưa nay,

Viên Thành ấn chứng đã dày công tu.
 
 

TỤNG KINH HOA NGHIÊM CẢM TÁC

 Phần hương nhứt nguyện Pháp không vương

 Đại hạnh đồng tham biến cát tường

 Sát hải trần thân thi diệu lực.

 Trầm kha chướng loại tận an khương.

 Đốt nén tâm hương trước Phật đài

 Phổ hiền hạnh cả nguyện nào sai

 Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo

 Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài.
 
 

CẢM NIỆM PHẬT THÀNH ĐẠO

 Đêm sâu từ bỏ chốn hoàng cung

 Cắt đứt dây thương bận mấy vòng

 Chữ đạo nằm trên ngai phú quý

 Thề đem muôn loại thoát lao lung.
 
 

 Lao lung đau khổ chốn trần ai

 Bể ái nguồn ân chìm nổi hoài

 Động mối bi tâm nguyền tát cạn

 Trải bao sương tuyết cũng không nài.
 
 

 Không nài thể chất có và không

 Khám phá cho ra manh mối lòng

 Đạp vỡ hồng trần gương trí rạng

 Đốt đèn chân lý dẫn quần mông.
 
 

 Quần mông theo dõi ánh từ quang

 Hổ biến rừng mê khỏi lạc đoàn

 Mưa móc thấm nhuần cơn sống chết

 Nhớ ơn Từ Phụ mãi lo toan.
 
 

 Lo toan xin đốt nén tâm hương

 Với nhánh quỳ hoa ngỏ cúng dường

 Thành đạo bốn phương trời chấn động

 Muôn linh mừng thấy đấng Y Vương.
 
 

 Y Vương chứng tỏ khối lòng châu

 Trăm kiếp nghìn đời nguyện cúi đầu

 Sứ mạng làm tròn thân đệ tử

 Chiếu đèn diệu huệ giữa đêm sâu.

(1948)

 

TẶNG ĐỔNG MINH ĐẠI SƯ

Nhất thừa thật tướng ấn

Pháp pháp tận viên dung

Từ biquái ngại

Tứ cú bách phi không.
 
 

HƯỚNG VỀ 

Mỗi lần xuân hết hè sang,

Hồ trong sen nở nhụy vàng phơi hương.

Đàn con Phật, khắp muôn phương,

Hướng lòng thành kính cúng dường Đản sanh.

Thâm tâm truy niệm ân lành,

Nghìn xưa Ưu bát một cành ngát hương.

Nhớ thuở ấy, lúc tan sương, 

Nhạc trời rung cảm, bốn phương thái bình;

Muôn chim ca khúc bình minh,

Cha lành cứu khổ ứng sinh Diêm phù,

Tám mươi năm mãn công phu,

Sa la ẩn bóng, mạn thù thâu hương!

Đạo vô thượng đủ ngàn phương;

Ánh vàng chói lọi, sáng đường lầm mê.

Phá trừ ma chướng nặng nề,

Sanh linh lạc lối trở về đường ngay.

Kiếp xưa âu cũng duyên may,

Mênh mông bể khổ được lây hương thừa;

Xót mình đức bạc tài sưa,

Ân sâu khó trả, nghiệp xưa còn nhiều

Trước đài hương tỏa phiêu diêu,

Chí thành đảnh lễ đấng Siêu Nhân Hoàn;

Con thề đem mảnh thân tàn, 

Phụng thờ chánh pháp đạo vàng bền lâu.

Hư không tan rã mặc dầu

Sắt gan ghi tạc, nguyện cầu chứng tri;

Hướng về muôn đức từ bi,

Đường lên giác đạo quyết đi tận cùng.

 (Đặc san Mừng Phật đản P.H.V.1957)

 

CẢM TÁC XUÂN CANH TUẤT 

Tuổi đà "dĩ thuận" lẻ thêm hai

Hơn thiệt chi chi cũng hết nài

Nội hạc chưa ngừng sân Lão thọ

Ngàn mây còn vướng ngõ Hoàng Mai

Non xanh, pháp nhãn hoa Linh Thứu

Nước biếc, thiền tâm bóng Thiện Tài

Cánh thiệp tin xuân hồn đất mẹ 

Nén hương hằng nguyện trước liên đài.
 
 

VỊNH CÂY BỒ ĐỀ 
 
 

 Bồ đề đạo thọ gốc thiên nhiên

 Phật tổ xưa kia đến tọa thiền

 Dẹp sạch ma vương thành chánh quả

 Bước lên thánh vị được chơn truyền

 Ba ngàn thế giới hào quang tỏa

 Muôn vạn sanh linh giải thoát phiền

 Dầu dãi nắng sương càng vững chắc

 Đâm chồi nảy lộc khắp tam thiên.

 (Mậu Thân, 1968)
 
 

XUÂN QUÝ MÃO CẢM TÁC

 Xuân này tính tuổi chẵn năm lăm

 Kiểm điểm công phu ngấy lỗi lầm

 Còn luyến cành hoa khi sáng sớm

 Đan vương tơ nắng lúc chiều âm.

 Liệng vành mỏi cánh thương thân bướm

 Nhả kén si gan ngán ruột tằm

 Đốt nén hương nguyền thề sám hối

 Trước sau giữ trọn chữ Không Tâm

(1963)

XUÂN MẬU THÂN

 Bốn mươi tuổi đạo, sáu mươi đời

 Cái kiếp phù sinh quá nửa rồi

 Cay đắng nếm dư đầu chót lưỡi

 Khen chê nghe đủ giữa vành tai

 Mây ngàn vạn nẻo tung đường hạc

 Hương nguyện mười phương quyện gió trời

 Tâm sự sắc không ai có biết ?

 Kìa gương bát nhã vốn trong ngời.

(Mậu thân, 1968)

CẢM ĐỀ NON BỘ BẢN ĐỒ VIỆT NAM

(tại Thiền thất P.H.V. Nha Trang) 

Dấn thân mây hạc giang hồ

Chạnh lòng quê mẹ dư đồ Việt Nam.

Này thắng tích nọ danh lam,

Máu xương trang trải ai làm nên khung.

Đúc vun khí tiết hào hùng,

Hai vai gánh nặng Quang Trung Nguyễn Hoàng.

Trường Sơn một dãy hiên ngang,

Càng nhìn càng ngắm muôn vàn thân yêu.
 
 

Non sông gấm vóc mỹ miều,

Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương.

Dù cho Nam Bắc đôi đường; 

Đốt lò hương nguyện bốn phương một nhà,

Sớm hôm hướng nẻo Phật đà,

"Sắc, Không" tâm sự đường xa nỗi gần.

Mong sao giữ vẹn mười phần

Thanh cao dáng núi, trong ngần vẻ sông.

Gấm vóc gương nước tinh thần,

Đạo vàng dân tộc chiếu hồng muôn xuân.
 
 

VIẾNG LẠI CHÙA HƯƠNG

Cỏ hoa còn nhớ ta chăng,

Bước du tăng đã bao lần tới đây ?

Tuyết sương nhuộm bạc râu mày

Non sông gấm vóc vẫn đầy sắc xưa.

Đây khe yến, nọ rừng mơ,

Này am cửa Võng, suối bờ Giải oan.

Hỏi thăm người cũ: bàng hoàng,

Anh linh đã nhập sen vàng phương Tây! ...

Nam Thiên đệ nhất còn đây,

Chim ca cúng trái, cá quầy nghe kinh.

Hoa thiên sương ngọc long lanh,

Hương thiền ngào ngạt gió lành phân phân ...

Trầm loang điểm tiếng chuông ngân, 

Bước lên mỗi bước, tần ngần, nao nao ...

Tình yêu đất mẹ dâng cao

Trong ngần bể rộng dạt dào suối khe

Ba ngàn thế giới nhắn nhe

A di đà Phật quy về, ai ơi!

Bức tranh thủy mạc ngàn đời,

Đào nguyên e cũng hổ ngươi kém phần ...

 

QUỲ TRƯỚC ĐIỆN

Đệ tử hôm nay quỳ trước điện

Chí tâm đảnh lễ đấng Từ tôn

Đã bao phen sanh tử dập dồn

Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo

Thế tôn đã đinh ninh di giáo

Mà con còn đắm đuối mê say

Mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày

Tai thích tiếng mật đường dua nịnh

Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh

Lưỡi dệt thêu lắm chuyện cay co

Thân tham dùng gấm vóc sa sô

Ý mơ tưởng bao la vũ trụ

Bởi lục dục lòng tham không đủ

Lấp che dần trí huệ từ lâu

Hôm nay con giác ngộ hồi đầu

Tâm sám hối phơi bày tỏ rõ

Nguyện tội ác từ nay lìa bỏ

Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê

Trước đài sen thành kính hướng về

Tịnh tâm ý quy y Tam bảo

Phật giới cấm chuyên trì chu đáo

Dứt tận cùng gốc rễ vô minh

Chí phàm phu tự lực khó thành

Cầu Đại Giác từ bi gia hộ

Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ

Con hết lòng vì đạo hy sinh

Nương từ quang tìm đến bảo thành

Đặng tự giác giác tha viên mãn.
 
 

TỤNG KINH PHÁP HOA CẢM TÁC 

Một lòng kính lạy Phật đà

Ngàn đời con nguyện ở nhà Như lai

Con hằng bận áo Như lai

Con ngồi pháp tọa Như lai muôn đời
 
 

Trí lực năng nhân tiêu cổ sầu

Thân vân tâm nguyện nhất thời hưu

Nhược ly không hữu đoạn thường luận

Khổ hải cuồng ba bát hoạt châu.

 Phật lịch nhị ngũ nhị tứ, Canh thân hạ

 Quảng Hương Già Lam

 Thiện Thệ Tử Thích Trí Thủ đề 
 
 

Bài thơ họa theo bài Nguyên Xương của Tuệ Không 

Già lam, nơi hiệp chúng tăng già.

Tu niệm nào phân biệt trẻ tra.

Gặp bạn thơ vui câu Đổ Phủ 

Noi đường giác rạng tánh Di đà.

Liêu sau vọng bái hình Sơ tổ

Sân trước cung chiêm tượng Phật bà.

Cửa đạo khai tâm thường rộng mở,

Khuyên đời chẳng nệ khách vô ra.
 
 

THƠ NHÁC
(Thiện Mỹ số 48, trang 12 ngày 22-10-1965)

Nhân đọc bài Chiếc Mũi, nguyên tác Bgunosure Akutagan do thi sĩ Vũ Trụ dịch, đăng ở tuần báo Thiện Mỹ số 46 ra ngày 8 tháng 10 năm 1965. Sực nhớ một bài thơ Nhác của thầy tôi (Hòa thượng Viên Thành sáng lập chùa Tra Am, Mật Sơn ở Huế hiện nay) đọc cho tôi nghe hồi còn nhỏ mới xuất gia hành đạo. Xin chép ra đây để cống hiến bạn đọc nghe cho vui. Mặc dù nó không còn hợp thời theo tôi nghĩ. Thơ rằng:

Ai thăm ơn lắm, dám thăm ai,

Ai mời xin lánh, dám mời ai.

Nhà dột lá che không đợi lợp

Phên xiêu gió đẩy không đợi cài

Phải chăng mặc thế hơi nào nghĩ

Hơn thiệt tình đời cũng chẳng nài

Dễ có công đâu ngồi quẹt mũi ( )

Nay còn chưa kể huống là mai.
 
 

BÀI THƠ BÈO

(Do Trạng Giáp Hải họa. Nguyên tác của Bao Bá Ôn. Hòa Thượng dịch sát nghĩa)

Vải gấm dày dày chẳng lọt kim

Lá liền với gộc kế nào thêm

Đã cùng mây trắng tranh làn nước

Lại thấy vừng hồng rực ánh tươi

Ngàn lớp sóng nhồi không rã nổi

Muôn cơn gió dập chẳng lay chìm

Ít nhiều rồng cá nương trong ấy

Lã Vọng ngồi câu hết chỗ tìm.
 
 

Bể ái sông mê sóng ngập đầu

Xoay vòng sống chết mãi không thôi

Ai mà trở gót xoay đầu lại

Trước mắt đài sen hiện sáng ngời.

Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông.
 
 

CỐ ĐÔ HOA LƯ

Ngàn năm văn hiến Việt Nam ta

Đinh Lý Trần Lê quả thật

Để tiếng anh hùng ngời nét đẹp

Diệu phong đã vẹn trổ hồn hoa.

(Tham quan cố đô Hoa Lư tháng 9.1983)
 
 

NÔNG TRẠI NƯỚC NGỌT

Ba gian nhà là một chòm mây

Cảnh trí khen ai khéo sắp bày

Dạo khắp bồng lai về "Nước ngọt"

Ba gian nhà là một chòm mây.

(Cảm tác khi đi thăm đạo hữu Nguyễn Mậu Tùng tại nông trại Nước Ngọt)

(1940)
 
 

NHỚ LÀNG

Tôi nhớ làng tôi sống cực nghèo

Lũy tre soi bóng nước trong veo

Quanh năm phẳng lặng dòng sông Hãn

Đùm bọc thân yêu tấm nhiễu điều

Làng tôi xa lánh cảnh phồn hoa

Sớm tối chuông ngân khắp mọi nhà

Luống cải vồng rau sanh hoạt thú

Tiếng cười xen lẫn tiếng dân ca.

Làng tôi cát mịn nước hồ trong

Gió mát sen thơm dân một lòng

Chạp giỗ sum vầy tình nội ngoại

Buồn vui san sẻ đói no chung

Làng tôi khó tả hết tình yêu

Dù nói bao nhiêu chẳng thấy nhiều

Bể rộng trời cao tôi thấy nhỏ

Trung Kiên đất tổ ngập tình yêu.
 
 

THĂM LẠI CHÙA NON NƯỚC

Mười lăm năm trước đến ngày nay

Cũng nước non tiên cũng lối này

Hòn đá tham thiền trơ trọi đó

Hỏi thăm người cũ chẳng ai hay.
 
 

LÊN VỌNG HẢI ĐÀI

Trời mênh mông bể mênh mông

Trời bể mênh mông sóng chập chồng

Mấy chiếc thuyền ai qua bể biếc

Nỗi sầu mang nằng chở không đùa.
 
 

LÊN VỌNG GIANG ĐÀI

Giang sơn gấm vóc ngắm càng xinh

Nước nước non non thật hữu tình

Mây bạc chập chờn ngang cửa động

Thương thay bầy én liệng quanh vành.
 
 

KÍNH ĐIẾU THẦY KIM TIÊN

Thầy chết rồi ư ?

Mang mác hồn quê mây tán tụ.

Tôi còn sống sót lại

Mênh mông bệ nguyện lệ đầy vơi!
 
 

ĐIẾU HÒA THƯỢNG THÍCH MẬT NGUYỆN

Đồng bào còn đau khổ

Nhân loại còn nhiễu nhương

Lá vàng rơi xơ xác cội bồ đề

Hòa thượng ra về chi quá vội
 
 

Đạo pháp cần phát huy

Đàn em cần hướng dẫn

Mây trắng phủ lờ mờ trăng bát nhã

Chúng tôi ở lại tính sao đây

Mạnh thu, Nhâm Tý-1972
 
 

XUÂN NHÂM TÝ

Niên ba sáu sáu đã qua rồi

Bâm bốn còn lưa nửa ấy thôi

Trông trước nào ai người cố cựu

Nhìn sau biết có kẻ tương lai

Non cao gió lộng cành xuân động

Sông rộng gương lồng chiếc én bơi

Bất diệc nụ cười xuân Bố Đại

Bàn cờ sắp xóa thưởng xuân chơi
 
 

NHỚ BÓNG THUNG HUYÊN

Ngùi ngọc nga thi chạnh tủi phần

Trời cao đất rộng đức sanh thân

Bao nhiêu cảnh giới nào qua lại

Ngàn dặm ven trời bóng bạch vân

Bạch vân tan hợp rải đầu non

Những tưởng hung thuyên mắt mỏi mòn

La rụng thu về cành rớm lệ

Tiêu sơ tiếng nhạn động tình con

Tình con mang mác ánh sao hôm

Phưởng phất hồn thiêng ngọn gió nồm

Tôn giả Mục Liên gương hiếu hạnh

Đài sen xin nguyên chứng chơn tâm
 
 

KHÓC CHA

(Làm thay con gái ông Đắc khóc cha)

Nhớ cha con biết nói gì đây

Bể khổ chơi vơi huyết lệ đầy

Nhìn mẹ cuộn đau tằm rút ruột

Trông em xa xót vượn xuối tay

Trời sao ghét bỏ người côi quả

Đất nở không dung kẻ dại ngây

Sớm tối còn đâu lời giáo huấn

Chở che ngưỡng vọng đất cao dày.
 
 

THƯƠNG NHỚ

(Kỷ niệm 48 năm ngày thầy viên tịch

 7-10 Bính Thìn 1976)

Bốn tám năm xưa cũng phút này

Gió mưa man mác tớ xa thầy

Những lời diệu huấn con thường nhớ

Con gởi hồn con đân gió mây
 
 

CẢM TÁC SINH NHẬT 67 TUỔI

Sáu bảy xuân thu giữa cuộc đời

Buồn vui mừng giân khéo trêu ngươi

Thân này đã hứa cùng non nước

Vinh nhục khen chê chỉ mỉm cười
 
 

XUÂN MẬU NGỌ

Xuân về Mậu Ngọ tuổi lai hy

Chẳng dám khoe chi chẳng muốn gì

Bảo ở thì ừ hoan hỷ

Kêu đi âu cứ tự nhiên đi

Cảnh khô lá úa mai nhưng nụ

Mây cuốn sương tan đá vẫn lỳ

Vô tận không thời vô tân ý

Thị chưa từng bận ngại gì phi.
 
 

BÓNG TRĂNG

Đầu sào trăm thước câu buốn

Một làn sóng độngngàn luồn sóng theo

Đêm thanh nước lạnh cá nghèo

Đầy thuyền chở nặng trăng gieo bóng về.
 
 

KHUYÊN TU TỊNH ĐỘ

Pháp môn tịnh độ gắng tu hành

Giữ trọn niềm tin quyết vãng sanh

Bể khổ thuyền từ buồm thuận gió

Hồ trong sen ngát đất trời thanh

Mẹ hiền tựa cửa trông con dại

Cha khổ đưa tay đón kẻ thành

Cứu độ sanh linh hoằng thệ nguyện

Nhất tâm bất loạn niệm hồng danh.
 
 

CÂY BÈO

Dọc theo ruộng nước bám như chậm

Rể bám vào đâu cũng chẳng thêm

Vờ có căn nguyên, vờ có lẽ

Dám chi sạch tiết, dám chi tâm

Tụ rồi đã chắc chi khi tán

Nổi đó náo hay đến lúc chìm

Gặp trận trời cho cơn gió lốc

Quét tan hề bể khó mà tím

Chen nhau vảy gốm khó luồn kim

Cành rể liền nhau chẳng kể thân

Tranh với bóng mây trên mặt nước

Hé dung ánh nhật lọt dòng tâm

Nghìn trùng sóng đánh thường không vỡ

Muôn trận phong ba cũng chẳng chìm

Nào cá nào rồng trong ấy ẩn

Cần câu Lữ Vọng khó mà tìm.
 
 

HỌA VẦN THƠ GIÀ

Của sư bà Như Không

Tai điếc mắt mờ phận chịu hư

Lão lai tài tận biết răng chừ

Đôi giò thêm gậy lo còn thiếu

Nửa bát lưng cơm gắng vẫn dư

Nhìn trước trông sau thêm chán ngán

Say đi nghĩ lại ruột đau dừ

Hoại không thành trụ đời kiên cố

Dấn bước như không mới thật cừ.
 
 

TẶNG ĐỆ TỬ NGUYÊN NGHI

Tôn thờ đức Phật chí kiên trinh

Nữ giới thua ai mối đạo tình

Kim địa gieo trồng hoa Nạc Lợi

Phượng hoàng bay liệng cảnh thanh bình

Pháp hoa kinh tả dâng chư Phật

Danh vọng đời cô nhường chúng sanh

Nguyên thỉ yếu chung dòng vọng tộc

Nghi dung ngưỡng đạt đấng cao minh.
 
 

NGƯỜI NGẮM HOA ĐÀO

Bác ngắm hoa đào lại nhớ mai.

Miền Nam buổi sống mộ danh người.

Chín hai tuổi chẵn xuân còn mãi, 

Tám mốt năm tròn nước sáng soi.

Thống nhất chung lòng xây vững đạo

Tùy duyên một dạ ghé vai đời.

Mai vàng cực lạc trong trần thế

Tứ chúng đồng tâm trước Phật đài.

Xuân Tân Dậu cảm tác.
 
 

CÂU ĐỐI

GIỚI ĐÀN P.H.V. HẢI ĐỨC 1973
 
 

Giới thọ hữu hà nan nan giả chung thân trì tịnh giới,

Đàn tràng phi dung dị dị tai đại lực hộ hành đàn.

Thọ giới không chi khó, khó vì trọn đời trì tịnh giới,

Đăng đàn đâu phải dễ, dễ thay đủ sức hộ hành đàn.

Chứng Chơn đế lý như Điều ngự thân lâm Xá vệ,

Minh Phật tâm tông tợ Tào khê kế thuật Hoàng Mai.

Chứng Chơn đế lý, như Thế Tôn thân lâm Xá vệ,

Phật tâm tông, tợ Tào Khê kế thuật Hoàng Mai.
 
 

Hòa hiệp tế tam thừa vận xuất tâm trung đạo lực,

Thượng năng huân ngũ phận hiển dương tánh thượng pháp thân.
 
 

Hòa hợp thuyết tam thừa, vận hết tâm thành đạo lực,

Thượng năng dâng ngũ phận, bày tròn tánh đức pháp thân

Chúc Phật giáo chi hà xương quốc tộ miên trường 

vĩnh lịch Nam sơn chi thọ,

Giới Thích tôn chi thùy phạm tòng lâm quy củ 

giáo lưu Đông chấn chi đàn.

 Chúc Phật giáo lâu dài, nước nhà hưng vượng, 

thọ sanh Nam sơn muôn thuở,

Cầu Thích tôn gia hộ, đạo pháp vinh quang,

Phước đầy Đông hải khắp nơi.
 
 

CỐ ĐÔ THIÊN MỤ TỰ TRỤ TRÌ 

ĐÔN HẬU THƯỢNG NHƠN HUỆ TỒN

Đạo sinh thuyết pháp ngoan thạch điểm đầu

Thánh giả thôn châm thiên nhơn củng thủ.

Phật lịch nhị ngũ nhị niên, tuế thứ Đinh mùi niên Thu.

Thiểu nạp Thích Trí Thủ thư tặng.
 
 

ĐIẾU NGÀI QUY THIỆN

Tích niên pháp nhủ đồng triêm, 

thệ hải giả tằng minh thiết thạch

Kim nhựt đàm hoa tiên lạc, 

thiền lâm thùy thị nại phong sương.
 
 

ĐIẾU THẾ HUYNH KIÊM PHÁP LỮ 

HÒA THƯỢNG THÍCH DIỆU HOẰNG
 
 

Nguyện thế thế sanh sanh đồng vi từ bi quyến thuộc.

Pháp tịch diễn chơn thuyên sư hống nhất thanh hồ quần tan thiển.

 Sư tọa tuyên diệu nghĩa phạm dương nhất khúc ma ngoại hàng tâm.

Yết đế khâm sùng giới tử khải tam phương trượng pháp môn biện sự,

Ma ha quảng đại sa di bạch tứ đế tiền thọ cụ đăng đàn.

Con Hồng cháu Lạc văn hiến bốn ngàn năm

nối tiếp anh hào dòng bất khuất.

Cảnh Phật ngày Trời giang sơn muôn vạn thuở

đề cao dân tộc chí hiên ngang.

 (Mùa Đông năm Quý sửu, 1973)
 
 

Hồn dân tộc, mái chùa tô nét đẹp

Tiếng pháp âm, dòng nước họa vần thiêng.

Tóc treo chẳng nại canh dài vắn

Cháo lỏng đầu nài bửa đói no

Source: Phật Giáo Việt Nam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8006)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35525)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19659)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11683)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5841)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10598)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10346)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10040)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20848)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6201)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6846)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8886)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6009)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18146)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6345)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6722)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6549)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12991)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5861)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7881)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10193)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7862)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9858)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9070)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5979)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24535)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36369)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7714)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11543)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10032)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5225)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5417)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9993)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7877)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9353)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8648)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46495)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6893)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12292)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5794)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14486)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14551)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12405)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10949)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9626)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16684)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8466)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5954)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9947)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6373)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11345)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7040)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46689)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13490)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8383)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6852)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9168)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6179)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6896)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17831)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18162)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15784)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6942)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31221)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9570)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7682)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21613)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34164)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33291)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14232)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35633)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13003)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15767)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13679)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33024)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26346)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41403)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40343)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20034)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33693)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29676)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33723)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18862)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22684)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22412)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48988)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11961)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11157)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22503)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17993)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15113)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22675)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15996)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13109)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19718)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12061)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant