Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

36.Những Chiếc bao Ny-Lông

17 Tháng Sáu 201400:03(Xem: 5943)
36.Những Chiếc bao Ny-Lông
Tôi được duyên may quen biết Hòa Thượng Thích Như Điển ngay từ lúc còn cùng mài đũng quần trên ghế trường làng Xuyên Mỹ. Từ nhà ông nội tôi đi đến mương nước dẫn thủy nhập điền, đi thẳng về hướng miểu Cây Kén là đến trường; nếu băng qua mương nước bên tay trái là đến nhà cha mẹ Thầy, sau đó là chùa Hà Linh, nơi chúng tôi cùng sinh hoạt Gia Đình Phật Tử.

 Đó là hai địa điểm mà tôi đã đi lại nhiều nhất trong những năm tháng tuổi thơ thật bình yên và thơ mộng. Nhưng rồi mấy năm sau tôi lại xuống Hội An để học tiếp năm cuối chương trình tiểu học rồi theo trung học ở trường Trần Quý Cáp. Lúc bấy giờ „chú Như Điển“ theo học ở trường Diên Hồng rồi trường Bồ Đề Hội An. Tuy sống chung trong một phố, nhưng vì nếp sinh hoạt nghiêm ngặt của một tu sĩ trẻ tuổi trong truyền thống già lam miền Trung, và cũng vì đời sống vật chất khó khăn nên chúng tôi ít có cơ hội gặp gỡ nhau. Năm Thầy được chọn vào học trường công lập Trần Quý Cáp thì lúc đó tôi lại đã dời về trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng để sửa soạn thi Tú Tài II. Sau này cả hai chúng tôi vào Sài Gòn, thỉnh thoảnggặp nhau tại chùa Hưng Long.

 Rồi tôi có nghị định đi du học Tây Đức và hai năm sau nghe tin Thầy đã đi du học tại Nhật Bản. Những năm đầu ở hải ngoại, bận rộn với học trình và cũng vì phải lo tổ chức đời sống ở xứ người nên chúng tôi không có liên lạc với nhau. Tình cờ mùa Hè năm 1974, chúng tôi không hẹn mà cùng về Việt Nam thăm quê hương. Gặp nhau, cũng là một bất ngờ, trên đường Lê Lợi gần công trường Quách Thị Trang. Thầy Như Điển đang hướng dẫn một phái đoàn bốn, năm người Nhật, tôi thì trên đường đi đến Air Việt Nam để mua vé máy bay về quê Đà Nẵng. Thầy vồn vã chào hỏi và nói rằng mới dẫn phái đoàn người Nhật từ Đà Nẵng trở vào. Thầy trao tặng tôi một cái quạt xếp Nhật Bản, rồi chia tay. Tuy thế bắt đầu từ đó việc liên lạc thư từ giữa chúng tôi có phần đều đặn hơn: thăm hỏi, trao đổi những sinh hoạt hằng ngày của đời sống người sinh viên ở ngoại quốc, về những ưu tư về tình hình trong nước, về vai trò của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong giai đoạn chiến tranh miền Nam leo thang, về hòa hợp hòa giải dân tộc v.v…

 

 Ngày 30.4.1975 đánh dấu một thay đổi lớn trong đời sống của người Việt Nam, không những trong nước mà cả ở hải ngoại. Một số lớn sinh viên du học tại Nhật Bản lúc bấy giờ đã rời Nhật Bản để đi đến một số nước khác. Tuy Thầy còn có một thông hành của Việt Nam Cộng Hòa đã được gia hạn đến 10 năm nữa, nhưng thực tế thì trên mặt pháp lý „Việt Nam Cộng Hòa“ đã không còn hiện hữu nữa. Cũng bởi vậy tôi đề nghị Thầy nên đi Đức, vì Cộng Hòa Liên Bang Đức đã có một qui chế về Tỵ Nạn Chính Trị được bảo đảm trong hiến pháp, có nghĩa là mình có thể sinh sống dài hạn mà không cần phải trở thành công dân bản xứ (có lẽ trong giai đoạn đó chưa ai trong chúng tôi muốn nhập quốc tịch Đức hay Nhật).

 Tôi làm giấy tờ bảo lãnh Thầy và đồng thời xin giấy tờ nhập học cho ngành Sư Phạm hậu Cử Nhân. Tuy thế Thầy vẫn lưỡng lự và trước khi đi Đức đã ghi danh Cao Học Giáo Dục Đại Học Risso, còn đóng học phí để giữ chỗ nữa. Đến nay tôi vẫn quên chưa hỏi Thầy sau này số tiền đó có được trả lại không?

 Cuối tháng tư năm 1977 tôi đón Thầy từ phi trường Hamburg đưa về Plön vùng Holstein, nơi tôi đang thực tập nội trú y khoa rồi cuối cùng dọn về cư xá sinh viên Projensdorf tại Kiel.

 Thời gian này, trong tuần Thầy đi học tiếng Đức và cũng như mọi sinh viên khác, vào cuối tuần đi làm như hái thuê trái cherry, trái đào trong những vụ mùa tại các nông trại của người Đức để kiếm tiền thêm. Thầy đã tham dự rất hòa đồng và tự nhiên vào các sinh hoạt của nhóm sinh viên Việt Nam chúng tôi. Ngoài giờ học các sinh viên thường đến thư viện để nghiên cứu tài liệu và học thêm. Đối diện thư viện là nhà ăn câu lạc bộ đại học (Mensa) với quán cà phê chỗ ngồi thoải mái, giá rẻ, nơi chúng tôi thường tụ tập. Và những buổi thể thao cuối tuần trên sân vận động, Thầy Như Điển tuy không có nhiều năng khiếu trời phú về môn bóng đá, nhưng nhờ cao lớn hơn một số sinh viên khác nên những cú đội đầu cũng tương đối làm đối phương lo ngại, nổi bật nhất là trong vai trò một thủ môn giữa khung thành.

 Ngày 30.4.1975 ghi lại những giao động lớn nhất của những người Việt đang du học tại Đức. Kể từ cuối tháng 3/75 báo chí, truyền hình Đức liên tục đưa lên những hình ảnh kinh hoàng của những chuyến chạy loạn đầy khủng khiếp của đồng bào từ Quảng Trị, Huế vào Đà Nẵng, tiếp theocảnh người ta bu đong đưa bên ngoài máy bay, cảnh đầy bạo lực hỗn loạn trên bến cảng Đà Nẵng trong khi tìm cách lên tàu thủy chạy về miền Nam. Không còn tiền chuyển ngân, mọi tin tức từ gia đình hoàn toàn gián đoạn. Cộng thêm vào đó là những lá thư nặc danh đe dọa của thành phần sinh viên thân Cộng tạo nên một không khí nghi ngờ, hoang mang trong giới sinh viên du học. Sau khi Đại sứ quán Cộng Sản và các sinh viên „nằm vùng“ cử một phái đoàn đi „giải độc“ khắp nơi, họ đã đi đến những bước cực đoan hơn như chỉ mặc áo sơ mi trắng ngắn tay như những lãnh tụ Cộng Sản ở trong nước, làm đám cưới tập thể, tổ chức những buổi họp mặt „cắt máu ăn thề“ hay „đốt sách đồi trụy“ ở các thư viện của các Hội Sinh Viên Việt Nam mà lúc bấy giờ họ đã nắm giữ (ngay như quyển sách „Câu chuyện dòng sông của Hermann Hesse, Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch“, do Lá Bối xuất bản cũng cùng chung một số phận „đồi trụy“ và cũng bị đốt). Thật đúng là cảnh „bảo hoàng hơn vua“, giờ nghĩ lại vẫn còn thấy hãi hùng. Đến cuối năm 1975 họ còn đòi hỏi giải tán tất cả các tổ chức tôn giáo, các Hội Đoàn Sinh Viên để sát nhập vào một tổ chức mới là „Hội Đoàn Kết“ mà sau này họ đổi tên là „Hội Việt Kiều Yêu Nước“. Trong cơn sốt này tất cả các sinh hoạt Phật Giáo ở Tây Đức hoàn toàn tan rã.

 Nhắc lại điều này để bây giờ ta có thể có một ít khái niệm về tình hình sinh hoạthoàn cảnh ban đầu trong những ngày tháng sau 1975 tại Đức và ý thức được công lao to tát của Thầy Như Điển: bắt đầu từ một „con số không“ to tướng và đầy giao động, bất an để xây dựng nên phong trào Phật Giáo tại Cộng Hòa Liên Bang Đức khởi sắc như ngày hôm nay.

 Trong hoàn cảnh đó, chỉ riêng ba Hội Sinh Viên Việt Nam tại các thành phố Kiel, Hannover và Berlin vẫn giữ vững lập trường không chịu giải tán, cương quyết không gia nhập Hội Đoàn Kết. Chúng tôi đã hợp tác hỗ trợ cùng sinh hoạt cộng đồng, cùng lên tiếng chống lại tinh thần độc tài của Hội Đoàn Kết. Ba Hội Sinh Viên đó sau này liên kết thành một tổ chức chung là „Liên Hội Bắc Đức“.

 

*

 Năm 1977 Thầy Như Điển đến Đức, tôi gặp lại một người bạn cũ thời thơ ấu từ lúc còn học trường làng, nhưng đồng thời cũng gặp được một vị tăng sĩ trẻ tuổi, dấn thân, giản dị và nhiều kinh nghiệm hoạt động, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hải ngoại. Tôi vui lắm. Quí báu hơn nữa là gặp được một người thông minh đầy sáng kiến để sẵn sàng thay đổi mọi nghịch cảnh.

 Ngay trong những năm đầu 1977, 1978 sau khi Thầy đến Đức, những buổi lễ Phật, lễ Cầu An đã được tổ chức đều đặn tại khắp các thành phố Bắc Đức. Đây là thời gian Thầy tiếp xúc tìm hiểu nhu cầu tâm linh và làm quen với người Việt tại các địa phương này.

 Tháng 2/1978 Thầy Như Điển nhận được giấy nhập học vào Phân Khoa Giáo Dục của Đại học Hannover và dọn về thuê một căn hộ độ 30 mét vuông. Căn hộ có hai phòng: một phòng lớn nhất làm chánh điện độ 20 mét vuông, còn lại là một phòng vừa là phòng tiếp khách vừa là phòng ngủ cho Thầy và một nhà bếp hẹp. Tiền thuê nhà lúc ấy là 170 Đức mã. Vậy mà trong phiên họp đầu tiên ban Hộ Trì Tam Bảo kêu gọi đóng góp định kỳ hàng tháng chỉ gom được 100 DM, nghĩa là chỉ hơn một nửa thôi. Một con số thật khiêm nhường trong giai đoạn chập chững đầu tiên! Nhưng nó cũng đã đánh dấu cho những bước tiến không ngừng của phong trào Phật Giáo tại Tây Đức.

 Mùa hè 1978 sau khi sửa soạn phần cơ chế hành chánh (nội qui…), Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức được thành lập. Trong phiên họp sáng lập tại Niệm Phật Đường Viên Giác Hannover dưới sự hướng dẫn tinh thần của Thầy, một ban Chấp Hành đã được bầu ra và nội qui cũng đã được thông qua. Tôi còn nhớ ngay sau phiên họp hôm ấy, cả nhóm anh em chúng tôi và Thầy cùng đi dạo tại vườn hoa Herrenhausen ở đấy chúng tôi có gặp và nói chuyện với bà Công Chúa con gái vua Wilhelm nước Đức là bà Prinzessin Viktoria Luise von Preußen, Kurfürstin von Hannover. Sau khi nghe chúng tôi kể chuyện về những sinh hoạt của người Việt tại Đức và tôi mới được bầu làm Hội trưởng Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam, bà chúc mừng và nói là theo như bà ta biết thì Phật Giáo là một tôn giáo hòa bình nhất bởi vậy bà mong Phật Giáo phát triển ở đây. Cuối cùng bà ấy hỏi: „Wo ist denn Ihr Gotteshaus in Hannover? - Vậy thì Thánh Đường thờ phụng của quí vị đặt nơi nào ở Hannover?“ (Ghi chú thêm: từ Gotteshaus là một từ trang trọng thường để chỉ những ngôi Thánh Đường, nơi thờ tự to lớn). Chúng tôi hãnh diện trả lời là: Kestnerstr. 37 ở Hannover.

 Không phải chúng tôi hãnh diện gì ở một căn hộ cũ kỹ chỉ rộng 30 mét vuông, mà Thầy Như Điển có lần đã nhắc lại: „mùa hè thì trong nhà lạnh hơn ngoài đường. Mùa đông đến thì sưởi bao nhiêu cũng không thấm vào đâu cả…“ vì nhà quá cũ, nhưng chúng tôi đã thật sự hãnh diện vì bây giờ chúng tôi đã có được một tổ chức và một cơ sở tâm linh của những Phật tử Việt Nam ở Đức. Đây cũng là chỗ dựa tinh thần của tất cả những người Việt Nam lưu vong ở đây không phân biệt tôn giáo. Căn hộ cũ kỹ rộng chỉ 30 mét vuông ở Kestnerstr. 37 Hannover ấy chính là cái nôi đầu tiên cho Phật Giáo Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức này.

 Niệm Phật Đường Viên Giác càng ngày càng mở rộng hơn, năm sau đó tiếp tục thuê thêm một căn phòng đối diện bên kia sân rộng gần 30 mét vuông để dời Chánh Điện về đó cho trang nghiêm hơn, còn chỗ cũ thì chỉ để làm nơi ăn ở và sinh hoạt.

 Rồi đến những lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, Tết Nguyên Đán và những lễ định kỳ lớn trong năm… Mỗi lần như vậy số người tham dự tăng nhanh chóng hơn (lễ Phật Đản đầu tiên có 500 người, năm sau đã lên đến 1000 người). Thời gian đó đồng bào Việt Nam mới đến Đức nên dù là Phật tử hay không Phật tử vẫn về chùa tham dự những lễ lớn để gặp người quen và trao đổi các thông tin về định cư ở Đức và cũng để tìm lại chút không khí quê hương Việt Nam. Số lượng tăng nhanh đến nỗi không lâu sau đó, trong những buổi lễ lớn như Phật Đản, chúng tôi phải thuê rạp hát lớn nhất, tối tân nhất ở thành phố Hannover là rạp Theater am Aegi để tổ chức những đêm văn nghệ cúng dường Phật Đản. Lại thêm cả trăm công việc kỹ thuật tổ chức, an ninh hội trường theo luật lệ khó khăn của Đức. Rồi vấn đề chỗ ngủ cho người tham dựvấn đề di chuyển từ chỗ ngủ về nhà hát (giai đoạn này đa số đồng bào tỵ nạn mới chân ướt chân ráo đến Đức nên chưa có xe hơi riêng). May mắn là sau khi thương lượng Sở Giao Thông thành phố cho những chuyến xe điện (Straßenbahn) dành riêng cho người Việt Nam để di chuyển từ chỗ ngủ và nơi hành lễ đến Theater am Aegi. Mỗi lần như vậy là những anh em trong Ban Tổ Chức phải nghỉ học, nghỉ làm về Chùa trước độ một hay hai tuần lễ để chuẩn bị. Phương tiện lúc bấy giờ thì gần như không có gì cả, chỉ tấm lòng và tình cảm anh em mà tạo nên những sáng kiến và cùng giúp đỡ để vượt qua mọi khó khăn trở ngại.

 Mùa Giáng Sinh 1978/1979 tiểu bang Niedersachsen bắt đầu nhận 1.000 người tỵ nạn Đông Dương đầu tiên. Thầy và các anh chị em sinh viên chúng tôi, người xin nghỉ hè, người tạm nghỉ học, cùng kéo nhau về Trại Đất Lành (Friedland) để làm thông dịch viên giúp đồng bào mình trong các việc thủ tục hành chánh hay các chương trình y tế khám bệnh, nhất là các bệnh truyền nhiễm vùng nhiệt đới.

 Càng ngày hoạt động của Hội Phật Tử càng được nhiều người biết đến. Niệm Phật Đường Viên Giác ở Hannover tuy còn rất nhỏ, trong những dịp lễ lớn các Phật tử phải vào lễ Phật từng đợt rồi lại phải đi ra ngoài nhường chỗ cho những vị khác. Niệm Phật Đường tuy không có cây đa, không có mái cong như ở quê nhà, nhưng nó đã là bóng mát che chở tâm hồn người tỵ nạn trong những năm đầu tiên lưu lạc nơi xứ người. Về phía người Đức, Niệm Phật Đường Viên Giác cũng được biết đến nhiều hơn: nào báo chí phỏng vấn, nào truyền hình đến thăm… Cao điểm nhất là nhờ ngoại giao khéo léo của Thầy và các anh chị em trong Ban Chấp Hành Hội mà Bộ Nội Vụ Liên Bang Đức hứa sẽ giúp đỡ một khoản tài chánh để trang trải tiền thuê một cơ sở lớn hơn cho hợp với nhu cầu sinh hoạt tinh thần mới.

 Mùa Xuân 1981, chúng tôi tìm ra được một ngôi nhà ở Eichelkampstrasse gần khu Hội Chợ triển lãm quốc tế Hannover (Messegelände) để thuê. Nói đúng hơn đó là một cái kho chứa sản phẩm của một hãng kim khí và một căn hộ nhỏ tựa vách sát vào đó để ông gác dan ở. Hôm Thầy Như Điển và tôi đến xem thử lần đầu, thấy cửa sổ cái mất cái còn, sàn xi măng thì lồi lõm, tôi rùng mình. Rùng mình hơn nữa khi nghe giá thuê nhà đến 3.000 Đức mã chưa kể tiền điện nước. Làm sao chúng tôi trang trải nổi, tuy Bộ Nội Vụ có hứa giúp đỡ nhưng còn hàng khối bao nhiêu chi phí khác. Thấy nét mặt lo lắng của tôi, Thầy cười hiền hòa: việc Chùa rồi sẽ có Phật độ… Quả thật, niềm tin có thể dời núi, lấp sông.

 Rồi chúng tôi thuê cơ sở ấy. Chỉ còn ba ngày nữa là đến ngày tổ chức Đại Lễ Phật ĐảnAn Vị Phật tại chùa mới mà tấm thảm trong chánh điện vẫn chưa được lót. Khi người thợ lót thảm Đức đến nhìn căn phòng và lắc đầu không chịu làm thì anh H., một sinh viên gốc Thiên Chúa giáo, kéo tay tôi và nói: „thôi họ không chịu làm thì mình tự làm đi“. Mô Phật, từ nào đến giờ có bao giờ tôi biết lót thảm là gì đâu! Nhưng không làm thì cũng không được, nước cùng rồi thì cũng phải liều: chúng tôi bắt tay ngay vào việc. Mỗi người một tay, lúc đầu còn vụng về kéo qua kéo lại, thảm vẫn đi đường „thê thảm“. Nhưng càng về sau chúng tôi càng thiện nghệ hơn. Chị Tr. (München) nói đùa: Tôi nghe về anh nhiều rồi không ngờ hôm nay gặp mới biết anh có nghề trải thảm. Ngay cả bác H.H. đã lớn tuổi từ Canada sang dự lễ An Vị Phật cũng phụ vào, cũng trải, cũng dán, cũng cắt. Ôn lại chuyện cũ, tôi còn thấy rõ những bàn tay mềm dịu của các chị, bàn tay học trò của các anh, những bàn tay chưa bao giờ cầm đến cái dao cắt thảm. Vậy mà sao nét dao vẫn ngọt, đường cắt vẫn thẳng. Phật độ hay lòng tin đã hướng dẫn nét dao cắt đi từng sợi dây phiền não trên tấm thảm?

 Không làm sao có thể kể hết tâm tư của những năm tháng khởi đầu, những rung động đầy tình người… Nhưng qua hình ảnh lui cui bên cạnh anh bạn Thiên Chúa giáo cùng nhau trải thảm trên chánh điện một chùa Phật giáo, làm tôi thấy rõ là: ngôi chùa bên này không những là mái ấm cho người con Phật, mà còn là nơi nương tựa hồn Dân Tộc, nhất là trong giai đoạn chúng ta phải ăn nhờ ở đậu nơi xứ lạ quê người.

 

*

 Chuyện như thế, mới đó mà đã ba mươi bảy năm. Nhắc về những ngày ban đầu ấy, về những kỷ niệm với Thầy trong các năm 1977, 1978 ấy làm sao không thể không nhắc đến chuyện mấy cái bao ny lông đi chợ được. Đó là một câu chuyện về tinh thần sáng tạo trong cuộc sống, về một ý chí sắc đá muốn vươn lên trong mọi nghịch cảnh, và hơn hết là về một tinh thần phá chấp trong nhà Thiền.

 Thành phố Kiel, thủ phủ của tiểu bang Schleswig-Holstein, nằm ở cực bắc nước Đức, giáp giới với Đan Mạch, là một thành phố hải cảng nằm trên bờ Biển Đông (Ostsee), nên tuy nhiệt độ trên hàn thử biểu không thấp bằng những vùng đồng bằng nhưng từ đầu mùa thu trở đi đã có gió lạnh buốt cắt da. Một buổi chiều giữa mùa Đông 1977, trời nắng đẹp nhưng nhiều gió, tôi gặp Thầy trước Khoa Cơ Thể Học (Anatomie) trên chiếc xe đạp từ hướng trường Sư Phạm. Thấy trên ghi-đông xe đạp có bọc bằng những bao ny-lông siêu thị lại thêm một bao treo lủng lẳng bên cạnh, tôi chỉ tay và hỏi:

 - Thầy tính đi chợ à? Phải nhanh chứ sắp đóng cửa rồi.

 (Trong thập niên 70 các siêu thị ở Đức đóng cửa lúc 18 giờ chiều theo luật thương mại ở đây; và các bao ny lông còn được phát miễn phí cho khách hàng). Thầy Như Điển lắc đầu cười:

 - Không, tôi vừa mới từ trường về.

 Thấy cặp mắt tôi hướng về mấy cái bao ny-lông đầy thắc mắc, Thầy giải thích thêm:

 - À, mấy cái bao ny-lông này để tôi bọc tay trên ghi-đông chống lạnh và mưa, mấy hôm nay trời lạnh quá!

 Hàn huyên thêm một lát rồi chúng tôi chia tay.

 Mãi sau này tôi mới biết là lúc bấy giờ Thầy không có một đôi găng tay mùa đông để dùng khi đi xe đạp. Và như thế bao ny-lông siêu thị đã được biến dạng để thích nghi với hoàn cảnh mới. Chắc những chiếc bao ny-lông ấy cũng rất hạnh phúc, vì chúng đã thoát xác, không đựng những bắp cải, bánh mì, đồ hộp hay thịt cá v.v… của siêu thị mà để che chở đôi tay của một tu sĩ Phật Giáo Việt Nam trong cái lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông lạnh giá xứ Đức này. Đôi tay ấy miệt mài qua nhiều năm tháng đã xây dựng nên nền tảng của Phật Giáo Việt Nam tại xứ Đức trong mấy thập niên qua.

 Gần bốn mươi năm sau, nhiều ngôi Già Lam lớn nhỏ đã thay nhau mọc thêm lên tại xứ này. Những ngôi Già Lam này không chỉ có cơ sở rộng lớn tiện nghi vật chất cho Phật tử đến lễ bái tu tập (cho đến nay Chùa Viên Giác Hannover vẫn là một trong những cơ sở Phật giáo lớn nhất Âu châu) mà còn mang chở một nội dung khởi sắc, thích hợp với hoàn cảnh sở tại, đã tạo ra một phong trào sinh hoạt Phật Giáo thích hợp mọi hoàn cảnh. Nếu như tinh thần „những bao ny-lông biến dạng“ của Hòa Thượng Thích Như Điển ngày xưa đã từng là những viên đá, viên gạch, góp nhau thành những tảng đá lớn, dựng lên những mái Chùa to lớn ở đây; thì ngày nay, bước qua giai đoạn chuyển tiếp cho thế hệ thứ hai, tinh thần ấy cũng sẽ phải là tinh thần dẫn đường cho sự nối tiếp, cho việc phát triển tiếp tục truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.

 

Mùa Xuân 2014

Thị Minh Văn Công Trâm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17599)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24399)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25904)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13729)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13150)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 21941)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19022)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9976)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11882)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13014)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15145)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10514)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21730)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10090)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9826)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9730)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10171)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27246)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17795)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13158)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25016)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34549)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26698)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 18991)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 8980)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13038)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8968)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9428)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9109)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11766)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18483)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8748)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10634)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10911)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27937)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17842)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14384)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16332)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13174)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15436)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14653)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7553)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 16945)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8348)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30629)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant