Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

55. Cảm Niệm Những Tháng Ngày...

17 Tháng Sáu 201400:03(Xem: 6766)
55. Cảm Niệm Những Tháng Ngày...

Tháng 4 dương lịch của năm 2014 này, lịch sinh hoạt Pháp Bảo đầy ấp các khóa tu. Khóa tu Bát Quan Trai hằng tháng tại Pháp Bảo, khóa chuyên tu 7 ngày tại Tu viện Đa Bảo - vùng Blue Mountain và khóa tu chung 1 ngày, cũng tại Đa Bảo. Dù các khóa tu diễn ra liên tiếp, nhịp nhàng, tuy có nhiều hỷ lạc nhưng cũng không kém phần bận rộn. Thế nhưng đâu đó trong tâm thức vẫn lấp lánh khi ẩn khi hiện sự kiện báo Viên Giác - Đức Quốc số 201, kỷ niệm 50 năm xuất giahành đạo của HT Thích Như Điển.

 Mặc dù trên bình diện quốc tế, giữa hai quốc gia Đức và Úc không có mối quan hệ gì đặc biệt, nhưng giữa chùa Pháp Bảo tại Úc và chùa Viên Giác tại Đức thì mối đạo tình gắn bó nhiều thắm thiết. Lẽ đương nhiên là vì 2 Hòa Thượng của 2 chùa là bào huynh bào đệ. Nhưng chỉ riêng điều đó thôi thì chắc cũng chưa đến độ thân thiết với hàng Phật tử, bổn đạo nhiều đến thế. Còn một nhân duyên khác nữa, là từ năm 2002 đến 2012, mỗi năm Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác đều qua Pháp Bảo tịnh tu dịch kinh, viết sách, thời gian từ 2 đến 3 tháng đều đặn mỗi cuối năm. Chính do nhân duyên này, nên hàng Phật tử mới có dịp được gần gũi, cũng như được học hỏi thêm Phật Pháp, chiêm nghiệm thêm về cuộc sống qua những gì Hòa Thượng để lại.

 Cũng qua nhân duyên này, đạo tràng Pháp Bảo được gieo duyên với quí Thầy đệ tử của Hòa Thượng. Quí Phật tử nơi đây chắc sẽ khó quên quí Thầy TT Đồng Văn, Thầy Hạnh Giới, Thầy Hạnh Hảo, Thầy Hạnh Giả, Thầy Hạnh Tuệ, Thầy Hạnh Định, Thầy Hạnh Bổn, Thầy Tông Nghiêm, Thầy Hạnh Đức, chú cư sĩ Nguyên Trí v.v... đã cùng Hòa Thượng chia xẻ những tháng ngày ấm áp, an hòa, tràn đầy tình Sư đệ, pháp lữ nơi xứ nam bán cầu này. Giờ đây có nhân duyên nhìn lại, tận sâu trong tâm khảm, lại thêm một lần thành kính niệm ân những tháng ngày mầu nhiệm đã qua.

 Người ta thường hay nói, thời gian là món quà quí giá nhất trên thế gian này. Sở dĩ thời gian quí vì mỗi giây mỗi khắc, con người đều học được bài học nào đó từ những sự việc xảy ra. Sự việc đó có thể xảy đến cho mình, nhưng cũng có thể xảy ra cho những người xung quanh. Thời gian càng lâu, việc xảy ra càng nhiều thì cơ hội được học hỏi càng cao. Nhưng tiếc thay, một khi đã học được bài học, thì thời gian qua không còn nữa, chỉ còn thời gian hiện tại là cơ hội duy nhất để thực tập bài học đó. Nếu không lại tiếp tục vấp ngã như thời gian đã qua. Người con Phật luôn có định hướng trước mắt để thời gian trôi qua trở thành những giây phút mầu nhiệm, quí báu trên con đường tu học Phật Pháp.

 Hòa Thượng đã đến với Pháp Bảo từ rất lâu chứ không phải chỉ thời gian 10 năm ngắn ngủi gần đây. Mà lâu xa nhất là Hòa Thượng đã đóng vai người hướng dẫn tinh thần từ những ngày khởi đầu với những khuôn mặt tinh khôi của quí cô, quí chú Phật tử Pháp Bảo đầu tiên. Để hôm nay đã trên 30 năm, thời gian đã bồi đắp thêm biết bao nhân duyên nữa mới hình thành chùa Pháp Bảo như bây giờ. Và tiếp nối những mối duyên đó, là sự hiện diện và hướng dẫn của Hòa Thượng Bổn Sư chúng con tại Pháp Bảo trong suốt hơn 30 năm qua.

 Như vậy đối với thế hệ đi sau, thời gian đó không còn giới hạn ở con số 10 hay 30 nữa, mà đã trở thành những tinh hoa, những ân tình, những cảm niệm tri ân... từ những tháng ngày chư vị tiền bối đi trước, đã để lại nền tảng với nhiều bài học quí giá cho lớp người đi sau.

 Chuyện còn lại ở thế hệ tiếp nối, là mong sao những kinh nghiệm quí báu đó không trôi qua một cách lãng phí, để rồi phải tự thân tốn thời gian thêm một lần nữa mới mong học hỏi bài học kinh nghiệm cho riêng mình.

 Có một câu chuyện trong Thiền môn, chuyện tuy cũ nhưng luôn là nguồn cảm hứng cho người tu Phật. Vì nhân vật trong chuyện đã thay đổi mình tỷ lệ thuận theo thời gian tu hành. Kết quả cuối cùng của nhân vật cũng chính là mục đích cuối cùng của người tu Phật.

 Chuyện kể về một người tu sĩ, khi mới bước đầu vào đạo, hiểu được phần nào nền tảng giáo lý giải thoát, vị tu sĩ sau giờ công phu rời khỏi tự viện, nhìn xem cảnh trí quanh chùa, nhận định cảnh vật chung quanh thật đẹp thật yên bình, khiến ông không còn vọng tâm nhiều nữa.

Sau khi đã tu được khoảng thời gian, cũng sau giờ công phu rời khỏi tự viện, lần này cảnh vật trước mặt ông gần như nguyên vẹn không thay đổi, nhưng ông lại thấy khác! Ông thấy tất cả chỉ là duyên hội tụ, là chấp nối mọi thứ vật cảnh với nhau, nào là cây, đá, đồi đất, thú rừng… hòa hợp lại một cách khéo léo hùng vĩ, tạo thành cảnh trí mà ông cho là núi rừng sông hồ xinh đẹp yên bình ngày xưa. Bấy giờ ông nhận định cảnh vật chỉ là giả, không có gì thật, không có gì đẹp, không có gì xấu, không đáng để tâm dính mắc. Ông quay lưng bỏ đi vào tự viện, xem như không còn tha thiết nữa.

 Rồi tiếp tục thời gian sau đó, việc công phu của ông vẫn đều đặn, và một hôm rời khỏi tự viện; cũng không gian ngày trước, cảnh vật thuở nào ông thường chứng kiến, nhận định theo hiểu biết của ông; thế nhưng bây giờ ông chợt thấy khác, thấy đúng cảnh vật như là cảnh vật, thấy đúng sự thật như sự thật cuộc đời. Ông vui mừng khôn tả, mừng thấy đúng lời Phật dạy, đúng chánh pháp, đúng mọi thứ do nhân duyên sinh diệt, nên không còn ghét bỏ, ưa thích, không nhận định, không phán xét, không chiều theo hư cảnh, và ngay cả tâm ý thức của chính mình. Vị tu sĩ bấy giờ không giống như ngày xưa nữa, ông an lạc, an định trong sángthân thể đã già yếu đi. Ông hạnh phúc, quay vào Tự Viện, vẫn đều đặn sinh hoạt công phu như ngày nào cho đến khi duyên hết quả đến - ông chết như mọi người chết trên cuộc đời này, nhưng ông lại chết trong tịch tĩnh của Niết Bàn vi diệu.

 Pháp Phật được cô đọng qua câu chuyện nhỏ, nhưng hết sức ý nghĩa, ý nghĩa giải thoát chân thật, chứ không phải giải thoát theo lý giải trên kiến thức sách vở thế gian.

 Tuy nhiêncuộc đời đã tồn đọng theo gợn sóng ngầm của ý thức từ vô thủy cho đến bây giờ, và còn mãi nữa nếu con người không chịu dừng lại thành thật nhìn nhận cuộc đời. Cho nên con người khó thấy được chân lý Phật dạy, và càng khó hơn để nhận ra những gì rất gần gũi thường tình trước mắt, như cảnh vật con người, ngôn ngữ thế gian… chính là nhân duyên đưa đến giải thoát.

 Từ khi chập chững bước vào đạo cho đến nay, ngoài Hòa Thượng Bổn Sư ra, thì HT Như Điển là người Thầy gần gũi nhất. Gần không hẳn vì Thầy là bào đệ của Thầy Bổn Sư, mà gần vì Thầy thường qua lại Úc ngụ tại chùa Pháp Bảo như đã thưa. Đặc biệt hơn nữa, chính Hòa Thượng là vị chứng minh cho lễ Xuất gia, lễ thọ giới Sa Di Ni, thọ giới Thức Xoa Ma Nacuối cùngĐại giới đàn thọ Tỳ Kheo Ni tại Viên Giác, Đức Quốc. Gần hết những sự kiện đáng nhớ nhất trong đời sống người tu sĩ xuất gia, đều mang dấu ấn hiện diện của Hòa Thượng.

 Hôm nay chúng con kính vài lời nhân kỷ niệm một chặng đường 50 năm xuất giahành đạo của Thầy, chúng con chỉ biết vụng về bằng ý tưởng thường tình mà hiện nay đã và đang cố gắng học hỏi, để ý thức được những diễn tiến xảy ra trong tâm, trong thân, trong hoàn cảnh hiện thời.

 Hình ảnh Thầy là hình ảnh của sự nghiêm trang tinh tấn, lại một đời thường cầu tiến học hỏi. Thầy là một trong rất ít những vị tu sĩ Phật Giáo Việt Nam hải ngoại mẫu mực trong hai thời khóa công phu hành trì. Hình ảnh đó có thể khiến người mới vào đạo khởi tâm hoan hỷ, cố gắng vượt qua những chướng ngại bản thân trên con đường thực hành đạo giải thoát.

 Một điều khác nữa về Thầy khiến người lớp sau phải thường suy niệm trong đời sống thường nhật, đó là sự nghiêm thủ về giờ giấc cũng như sức làm việc miệt mài. Trong suốt khoảng thời gian Thầy tịnh tu tại Úc, hàng đệ tử thường chứng kiến Thầy cầm cây bút liên tục 3-4 giờ đồng hồ buổi sáng, thọ trai xong, rồi tiếp 3-4 giờ viết liên tục vào buổi chiều. Ngày này qua ngày khác không gián đoạn, cho đến khi hoàn tất xong tác phẩm. Hết tác phẩm này đến tác phẩm khác, Thầy cứ an vui, miệt mài như thế. Quả thật là một bài học lớn cho lớp người sau vậy.

 Trong dịp kỷ niệm này, sẽ là một niềm vui lớn với Thầy. Thầy muốn chia sẻ niềm vui đó với một số người trong đạo, nhất là quý Phật tử cư sĩ có duyên xưa nay với Thầy, và hơn hết muốn các đệ tử xuất gia có dịp về lại gần vui với Thầy, mong rằng niềm vui đó sẽ được như ý. Nhưng rồi chắc cũng sẽ không tránh khỏi những điều ngoài ý muốn. Cuộc đời vốn dĩ là thế.

 Dù vậy thế nào thì Thầy cũng vui, vì Thầy đã đặt tâm vào đó. Và phải là tâm trạng của Thầy mới hiểu hơn ai hết. Còn nhớ những lần Thầy chia sẻ kinh nghiệm an lạc mà Thầy đã kinh qua, trong những lần tịnh tu ở Úc. Những lúc sống với chính mình, hay sống với một vài người cùng chí hướng, đó là lúc thật sự thấy được các pháp sinh diệt vô thường, vì lúc ấy người học Phật đã có duyên thấy được tâm, thấy tự ngã vi tế làm sao! Sự vi tế đột phá và lắng đọng đến lúc mà chư Thánh Tăng nhờ đó chứng Thánh quả.

 Chúng con vẫn còn nhớ trong Lời giới thiệu của Thầy viết cho tác phẩm “Như cánh chuồn chuồn” của tác giả Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa năm nào, Thầy viết rằng: “...Đời này chẳng có gì cả. Mặc dù có thị hiện bằng hình tướng đó, nhưng những hình tướng này cũng chỉ là một sự đối đãi mà thôi. Hãy khoan vui khi có tiếng khen. Hãy đừng buồn khi bị lời chê. Hãy khoan giận khi việc không đáng giận. Hãy đừng hờn khi biết rằng tất cả hiện tượng đều luôn luôn đổi thay và không bao giờ đứng yên một chỗ cả...”.

 Tất cả các pháp đều do nhân duyên, nhân quả của nó. Nhân thiện sanh quả thiện, nhân giải thoát sẽ chiêu cảm cảnh giải thoát. Chúng con hiểu rằng, mình đã từng thọ ân và mang ân nhiều bậc Thầy. Mỗi bậc Thầy mang mỗi hạnh nguyện khác nhau. Và chính mỗi hạnh đức riêng biệt đó đem lại nét riêng cho mỗi bậc Thầy của mình. Trong suốt chiều dài sinh tử, chúng con rất cần được học hỏi từ những bậc Thầy như thế. Đời sống đâu chỉ giới hạn vài mươi năm trong cuộc đời này, mà còn bắt nguồn nhân duyên từ nhiều kiếp trước, cho đến nhiều đời nhiều kiếp về sau. Người tu Phật nào cũng hiểu, những hạnh nguyện riêng của từng bậc Thầy sẽ giúp người đệ tử bào mòn những góc cạnh còn bén nhọn, lởm chởm... trong tâm thức thô phù, trước khi hướng đến quả vị giải thoát.

 Trong quá trình mài giũa, trau giồi, làm sao tránh khỏi những cảm thọ bức xúc, đau đớn... nhưng cơn đau ấy qua rồi, như viên kim cương sẽ cứng cỏi và tỏa sáng, người tu đạo cuối cùng cũng sẽ đến được mục đích an lạcgiải thoát.

 Chúng con vẫn xin được mãi mãi trân quí những lời giáo huấn, những chia xẻ tâm tình của Thầy dành cho lớp người đi sau. Hằng ngày, chúng con vẫn đảnh lễ Tam Bảo, trên bàn kinh của chúng con, vẫn là một góc dành riêng lưu dấu quyển Kinh Kim Cang mà Thầy đã trì tụng hằng đêm trong suốt thời gian Thầy tịnh tu tại Úc.

 Trước khi dứt lời, chúng con xin được nhắc lại câu chuyện nhỏ ở phần trên, để nguyện chúc Thầy sẽ như vị tu sĩ thưởng lãm được cái đẹp của núi rừng, mà không phải bị lôi kéo với pháp trần hữu vi, nhưng vẫn hoan hỷ trong mọi tình huống hoàn cảnh, để trở về với tâm cảnh an định mà Thầy nhất định không nhiều thì ít đã có lần trải nghiệm, trong suốt thời gian tu niệm 50 năm qua.

 Xin được kính chúc quý Thầy Cô, quý cư sĩ Phật tử tại bổn tự Viên Giác luôn sống trong pháp vị giải thoát của Đấng Điều Ngự Thế Tôn.

 

Kỷ niệm mùa Phật Đản DL 2014,

Kính mừng Thầy kỷ niệm

một chặng đường 50 năm xuất giahành đạo,

TKN Thích Nữ Giác Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24499)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13774)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13180)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22061)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19077)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11916)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13045)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15195)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10542)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10136)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9850)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27434)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17845)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25167)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34676)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19071)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9008)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13090)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9011)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9455)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9142)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11798)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18526)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8786)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10670)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10959)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28005)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17880)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14413)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13208)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15540)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17053)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30723)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant