TIỂU SỬHÒA THƯỢNG THÍCH THANH AN VIỆN CHỦAN TƯỜNG TỰ VIỆN
I. Thân thế:
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Nho sanh ngày mồng một tháng giêng năm Đinh Sửu (1937) tại Làng Mỹ Khê – Quận Sơn Trà – TP Đà Nẵng. Con Ông Nguyễn Văn Hường, pháp danh Như Danh và Bà Đỗ Thị Tha, pháp danh Thị Lợi. Cả hai ông bà đều thâm tínTam bảo nên sớm ảnh hưởngđời sống đạo người con thứ sáu này trong gia đình có 8 người con, gồm 4 trai 4 gái. Thân mẫu Ngài là người đàn bà Việt Namhiền lương, chất phác và thuần thànhniệm Phật nên được thoại ứng trong việc “dự tri thời chí” (biết trước ngày chết) của mình thật vô cùnghy hữumầu nhiệm.
II. Xuất giatu học:
Sanh trong gia đình nhiều đời thâm tínPhật Giáo, ảnh hưởng ông nội chú ruột là Hòa Thượng Thích Phước Trí có uy tín trong vùng hay nhờ túc duyên sẵn có, đang độ tuổi thanh xuân, Ngài dứt khoátdũng mãnhphát tâmxuất gia theo chí nguyện: Cát ái từ sở thân Xuất gia hoằng chánh đạo Thế độ nhất thiết nhân
Ngày 8 tháng 2 năm 1958, Ngài đến Chùa Linh Ứng – Ngũ Hành Sơn Non Nước – Đà Nẵng xin Ngài Hương Sơn tức Hòa Thượng thượng Trí hạ Hữu xuất giatu học. Thấy sự thiết tha cầu đạoHòa Thượnghoan hỷchấp thuận và làm lễ thế phát vào dịp lễ Đức Quán Thế Âm 19/2 âm lịch ?(tháng 3 năm 1958) với pháp danh Đồng Đạt. Từ đó, Ngài dốc tâm tu tập, học kinh kệ và tinh tấn trong mọi công việc Chùa, việc chúng nên được thầy thương bạn mến. Ngày 8 tháng 7 âm lịch năm 1958 được thọ giớiSa Di với pháp tựThông Đạt. Từ khi được thọ giớiSa Di, Ngài càng tinh tấn nhiều hơn trong việc tu học. Lúc tại tổ đình Linh Ứng lớp chúng độ 17, 18 tăng sinh do Ngài Hòa Thượng bổn sư Trí Hữu trực tiếp chăm sóc giảng dạy các kinh luật như Tỳ Ni, Sa Di, Oai Nghi, Cảnh Sách. Sau gần hai năm dưới sự dìu dắt cua bổn sư, các huynh đệlần lượt xin thầy đi cầu phương xa. Do vậy Ngài đảnh lễ Bổn sư xin xuất chúng tha phương cầu học. - Năm 1960, Ngài vào chùa Linh Sơn - Xã Vạn Lương – Quận Vạn Ninh – Tỉnh Khánh Hòa – Nha Trang xin Hòa Thượng thương Tịch hạ Tràng làm bổn sư y chỉ. Được Hòa Thượnghứa khả cho nhập chúngtu học, Ngài rất tinh tấn và mỗi ngày thọ trìcông phu bài sám Hồng Danh càng mien mật hơn. Cũng trong thời gian này Ngài phát nguyện tịnh tu 5 năm. - Năm 1963 Ngài được Hoà thượng Bổn sư y chỉ cho thọ Cụ túc giới tại Đại Giới Đàn Giác Nguyên – Quận Tư Sài Gòn do Hòa Thượng Thích Hành Trụ làm Chánh chủ đàn và “Đàn Đầu Hòa Thượng là Hoà thượng thượng Niết hạ Bàn. Sau đó được Hoà thượng bổn sư Tịch Tràng ban choPháp hiệu là Thanh An.
III. Quyết chíhành trì pháp tu Tịnh Độ, lạy Phật:
Noi theo hạnh tu của bổn sư y chỉ, Ngài trì tụng kinh, lạy Hồng Danh chư Phật và chuyên trì tụng Kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Đây là thời gian có nhiều thử thách trong công phutu tập đối với một hành giả khổ công luyện tập nội lực thâm hậu. - Năm 1961 nhân kỳ an cưkiết đông 3 tháng xong, Hòa Thượngphát nguyện Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Vì nhận thấy sự diệu dụngcảm ứng cảu phẩm kinh nên Ngài xin phép Hòa Thượngy chỉ chích huyết viết Kinh, Hòa Thượng bảo: “Phát nguyện chép Kinh không ai cản nhưng phải quyết tâmthực hành cho được tín nguyện”. - “Con đã sẵn sàng phát tâmtín nguyện, xin Hòa Thượng cho con quyết định thực hành!” Thầy trả lời. Được sự cổ vũ của bổn sư, Ngài thực hiện ngay tâm nguyện chép Kinh từ ngày 14 tháng 12 đến ngày 24 tháng 12 năm Tân Sửu (1961) suốt 10 ngày đêm tả Kinh mới xong gồm có 5.684 chữ. - Năm 1966, Ngài phát nguyện đốt ngón tay út bàn tay trái trong khi tụng xong ba cuốn chót 5, 6 và 7 bộ KinhPháp Hoa, để vừa hồi hướng hoàn kinh và ra thất. Cũng trong năm này Ngài phát nguyện chích máu chép Kinh A Di Đà. - Năm 1972: tạo dựng tượng đài Quán Âm lộ thiên cao 11 mét trên hòn giả sơn, trước Chùa Mỹ Khê – Sơn Trà – Đà Nẵng. Nhưng vì tình hình đất nước thay đổi năm 1975, việc xây dựng bị đình đốn chờ hội đủ nhân duyêntiếp tụchoàn thành. - Năm 1975: phát nguyệntu khổ hạnh tại nơi núi Hòn Chảo, Vạn Giả - Khánh Hòa trong 2 năm. Vì sơn lâm chướng khí sanh bệnh hoạn, cũng nhờ vị thọ thần mach bảo chỉ dẫn Ngài phải xuống núi lo điều trị chứng đau bao tử đang tới hồi nguy kịch. Nhờ đủ phước duyên, sau một thời gian tự điều trị bằng phương phápgia truyền nên sức khỏehồi phục. Vào đầu năm 1976 được sự cho phép của Bổn Sư đưa Thầy về trụ trì Chùa Long Hòa, xã Ninh Huề Vạn Giả, Vạn Ninh Khánh Hòa tiếp tăng độ chúng, dìu dắtThiện nam Tín Nữtu học.
IV. Tìm một lối thoát:
Do chứng nghiệm cái chết của người mẹ nhờ nhất tâm niệm Phật mà biết trước ngày vãng sanh, tâm Thầy bừng sáng muốn đem đạo vào đời và luôn chí xuất ngoại mới có tự dothực hiệntâm nguyện. Ngày đêm Ngài trì ChúĐại Bi 108 biến và niệm Phậtkiên cố nên mọi chướng duyên đều vượt qua. Chí hướng muốn đem hai môn Tịnh, Mật đã áp dụng truyền lại người sau. Tâm thành đã sẵn, việc đến đã đến. Ngày 29 tháng 6 năm 1988 chuyến ra đi vượt biên thành côngnhư ý nguyện. Qua tới Phillippines ở trại Palawan 20 tháng mới được phái đoàn Mỹ phỏng vấn nhận đi định cư, Ngài được chuyển trại đến Palawan (Phi) ở thêm 4 tháng nữa. - Năm 1990 ngày 21 tháng 3 Ngài đặt chân tới đất nước tự do Hoa Kỳ ở tiểu bang Connecticut được một tháng, sau đó dời về California từ năm 1990 cho tới nay. Sau khi được định cư Hòa Thượng một mặt lo tìm nơi thích hợp dùng để thờ tự Tam Bảo và mặt khác cũng cố tạo phương tiện tài chánh trùng tu ngôi chùa quê bên Việt Nam và hoàn tất pho tượng PhậtQuan Âm lộ thiên đang tạo dở dang. Nhờ hồng ân chư Phật, chư Tổ, Long Thiênhộ phápgia hộ những tâm ước nguyệnchân thành của Ngài đã đạt thành viên mãn vào những năm sau đó. Theo như lời Ngài thổ lộ rằng rất mãn nguyện khi lập xong nhà thờ từ đườngphụng thờ ông bà, cha mẹ, vì biết rằng người xuất gia không thể trực tiếp lo việc hiếu sự như người thường khác được. Việc ra đi tìm tự do của Ngài nhằm đáp ứnghai mặt: đạo pháp và hiếu nghĩa như hoài bão thập niên 80 thể hiện rõ nét nhất là sau khi mẫu thân mất (1985). - Về đạo pháp: Hòa Thượng luôn giữ sơ tâmxuất gia, cho dù sống ở sứ sở văn minhvật chất hàng đầu thế giới, Ngài vẫn sống đạm bạc, an nhẫn góp phần chung lo Phật sự cùng với chư tônđức tăng ni Việt Nam hải ngoại, và mặt khác luôn hướng dẫn hàng Phật tửtại giatu tậppháp môn niệm Phậtcầu vãng sanhcực lạc quốc. - Về hiếu nghĩa: bổn phận đối với gia đình, Hòa Thượngchu toàn nơi thờ phượng người thân tươm tất, chốn lễ báinghiêm trang cho người Phật từ địa phương thực hànhđạo pháp.
V. Hoằng Pháp:
Từ ngày đến Mỹ, Hòa Thượng cùng với bào đệ đồng thời cũng là pháp đệ Thiện Tường mua căn nhà số 682 28th street, Oakland – California cải gia vi tự. Sửa sang lại biến nhà thành ngôi chùa Phật đườngphụng thờtam bảo. - Năm 1991: lễ khánh thành An Tường Tự Viên được long trọng tổ chức ngày 19 tháng 9 nhân lễ vía Quán ÂmBồ Tát, Và cũng chính trong dịp lễ quan trọng này Ngài chính thức nhận Trụ TrìAn Tường Tự Viện. - Năm 1994: tổ chức lễ lạc thành tượng đài Quan Âm lộ thiên tại Chùa Mỹ Phước – Đà Nẵng sau hơn 13 năm ngưng trệ do hoàn cảnh khó khăn mọi mặt. - Năm 2000: Đàn đầu Hòa ThượngGiới Đàn Quang Nghiêm I, Stockton, California được tổ chức trong những ngày 17, 18 và 19 tháng 9 nhân dịp lễ vía Bồ Tát Quán Thế Âm. - Năm 2001: Ngài đứng ra cổ vũ các Phật tửthân tín cúng tịnh xây mới lại Chùa Mỹ Phước tại làng Mỹ Khê – Quận Sơn Trà – TP Đà Nẵng. Ngôi Chùa kiến trúc nửa kim nửa cổ có tầm vóc trong Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. - Năm 2005: Đàn đầu Hòa ThượngGiới Đàn Quang Nghiêm II nhân ngày vía đức PhậtThành Đạo ( 1/1/2005) Hòa Thượng cũng làm chứng mình đạo sư, y chỉ sư cho chư Tăng Ni tại miền Bắc California – Hoa Kỳ và tại Việt Nam. Tự ViệnAn Tường ngày nay là một đạo tràng mà người Phật tửtại gia có tín tâm theo pháp mônTịnh Độ do Hòa Thượng trực tiếp hướng dẫn chỉ đạo. Đi tới đâu Ngài cũng khuyến tấn người Phật Tửtinh chuyên niệm Phật cầu thoát lysanh tử luân hồi về cõi tịnh lạc Tây Phương.
VI. Trọn Thành Tâm Nguyện:
Hơn 50 năm hành đạo, Hòa Thượng đã vận dụng không ngừng huyễn thân giả tạm trong việc tu tập đạt thành tâm nguyện. Đã có lúc Ngài không màng đến thân xác, phát nguyện đốt ngón tay cúng dường Chư Phật hai lần đều trọn vẹnviên mãn. Cũng như qua hai lần chích máu tả KinhPhổ Hiền Hạnh Nguyện và Kinh A Di Đà, hai lần tịnh tu (1962 – 1966) và khổ hạnh (1975 – 1977). 25 năm (1960- 1985). Dùng ngọ và 5 năm ngủ ngồi và nhiều hạnh tu khác khó ai có thể theo kịp. Ngài quyết chí theo hạnh nguyệnBồ Tátxả thân vì đạo nên dù có mất đi một phần cơ thế, sức khỏe có suy giảm, nhưng chí kiên cường, tâm thiết thạch sáng ngời chất mà vượt qua tất cả. Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, do vậy Ngài khuyên các đệ tử: Các con đừng sợ mà phải đối diện với tử thần từng giờ từng phút, để có thì giờ lao công phutu tập cho sâu bền.
Chính vì lẽ đó, Ngài an tường xá bảo thân tứ đại lúc 14h 00 ngày 11/12/2014 (nhằm 20/11 năm Giáp Ngọ) trụ thế 78 năm tuổi 51hạ lạp. Vâng theo lời dạy thực tế và hạnh tu cao của Thầy, đệ tử chúng con quyết khắc phục mọi nghịch cảnh thành thuận duyên trên đường tu tập, ngỏ hầu báo đápcông ơn giáo dưỡng của Thầy trong muôn một.
Nam MôLâm TếChúc Thánhtứ thậptam thếAn Tườngđường thượng thượng Đồng hạ Đạt tự Thông Đạt hiệu Thanh An giác linhHòa Thượng thùy từ chứng giám.
==========================
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
VIETNAMESE AMERICAN UNITED BUDDHIST CONGREGATION
HỘI ĐỒNGĐIỀU HÀNH
COUNCIL OF MANAGEMENT
CENTRAL OFFICE
803 S. Sullivan St., Santa Ana, CA 92704 – U.S.A. | Tel.: (714) 571-0473 * Fax: (714) 568-1009
ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU
Kính gửi: - Ban Tổ Chức Tang Lễ Cố Hòa Thượng Thích Thanh An,
- Chư tônđức Tăng, Ni Tổ Đình Linh Sơn, Vạn Ninh, Khánh Hòa, Việt Nam
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Hội Đồng Giáo Phẩm, Hội ĐồngĐiều HànhGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ vừa nhận được tin Trưởng LãoHòa Thượng Húy thượng Đồng hạ Đạt, Tự Thông Đạt, Hiệu Thanh An, khai sơn, trú trì Chùa An Tường, Thành Phố Oakland, California, Hoa Kỳ, đã an tườngthị tịch lúc 2 giờ chiều ngày 11 tháng 12 năm 2014, nhằm ngày 20 tháng 10 năm Giáp Ngọ, tại Chùa Mỹ Khê, Huyện Sơn Trà, Đà Nẵng, Việt Nam, trụ thế 78, lạp thọ 58.
Hội Đồng Giáo Phẩm, Hội ĐồngĐiều Hành GHPGVNTNHK nhất tâmhộ niệmGiác Linh Cố Trưởng LãoHòa Thượng Tân Viên Tịch cao đăng Phật Quốc, chứng nhậpvô sinh, bi mẫn phàm tình, hồi nhập Ta Bà, phân thânhóa độ;
Thành tâm phân ưu cùng Ban Tang Lễ, Môn ĐồPháp Quyến, và chư tônđức Tăng, Ni Tổ Đình Linh Sơn, Vạn Ninh, Khánh Hòa, Việt Nam.
Nam MôTây Phương Cực LạcThế GiớiTiếp Dẫn Đạo SưA Di Đà Phật
Thành kính phân ưu
Phật lịch 2558, Santa Ana, ngày 12 tháng 12 năm 2014
Vào lúc 15 giờ ngày 14 tháng 12 năm 2014, tại An Tường tự viện, thành phố Oakland, tiểu bang California, Hoa Kỳ, các tự viện ở miền Bắc California đã phối hợp cùng Môn đồpháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang Hòa thượng húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủAn Tường tự viện, đã viên tịch vào ngày 11 tháng 12 năm 2014 (20 tháng 10 năm Giáp Ngọ) tại Mỹ Khê, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Ngài trụ thế 78 năm với 51 hạ lạp.
Chương trình Lễ truy niệm như sau:
Chư Tôn đức và Phật tử tề tựu
Lời tác bạch của Môn đồpháp quyến
Giới thiệuthành phầntham dự (Thầy Thích Từ Lực)
Tuyên đọc tiểu sửHòa thượng (Thầy Thích Nguyên Thảo)
Cảm niệm của Phật tử (Đạo hữu Hạnh Thảo)
Đạo từ của chư Tôn đức:
Hòa thượng Thích Thắng Hoan
Hòa thượng Thích Tịnh Diệu
Hòa thượng Thích Minh Đạt
Lễ thọ tang
Lễ cung tiến giác linh
Lời cảm tạ của An Tường tự viện (Thầy Thích Giác Tuệ)
Thọ trai
Buổi lễ diễn ra trong sự trang nghiêm, thành kính và đầy thương cảm của chư Tôn đức, Tăng, Ni, Phật tử và huynh trưởng Gia đìnhPhật tử đến từ nhiều thành phố ở miền Bắc California.
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
Nhiều người tu tậpPhật Giáocảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quảBồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
Ban Sưu tập tu việnQuảng HươngGià Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
Đại sưĐạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấpphong kiếnTrung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
Những ai đã đạt đượclòng từbình đẳngtuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáoĐại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
Tổ Phước Huệ, Tăng cangHòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Những ai đã đạt đượclòng từbình đẳngtuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch ĐạiTổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng tađi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tựHành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâmbất thối.
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đườnggiải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đườngBát Chánh của chư Phật.
Thiền TăngA Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phutu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật TổThích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giácthanh thoát xả báo thân...
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp HiệuThanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thốngĐại thừa. Long Thọtiếp nối và trao truyền những giáo huấnthậm thâmvi diệu của tính không...
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Phật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăngđệ tửxuất gia của Phật đà là Tăng Bảo.
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công laođặc biệt quan trọng trong việc truyền báđạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
Pháp sưTịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hành và truyền bápháp môn Tịnh Ðộ...
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộThiền Tông trong cách riêng.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.