Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm hiểu Tôn giả Tịch Thiên

01 Tháng Tư 201521:52(Xem: 7061)
Tìm hiểu Tôn giả Tịch Thiên
Tìm hiểu Tôn giả Tịch Thiên

Phạm Chánh Cần
tim-hieu-ton-gia-tich-thien
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa, tác giả của bộ luận quan trọng là Nhập Bồ-tát hạnh. Trong Đại tập Lý giải Chính yếu (Mahavyutpatti), tên ngài được xếp chung trong một danh sách có những vị luận sư lỗi lạc tiền bối như Long Thọ (Nagarjuna), Thắng Thiên(Aryadeva), Nguyệt Xứng (Candrakirti), Thanh Biện(Bhavaviveka) và Phật-đà-bạt-la (Buddhabhadra). Tuy nhiên, niên đại chính xác về cuộc đời ngài hầu như không được biết. Một số bằng chứng lịch sử cho thấy hẳn là ngài đã xuất hiện trong nhân gian vào khoảng giữa nửa sau thế kỷ thứ sáu và nửa đầu thế kỷ thứ bảy Tây lịch; theo một tư liệu thì ngài sinh vào khoảng năm 685 và mất vào năm 763, thời kỳĐại thừa Phật giáo đã trở thành tinh thần và nguồn gợi hứng chính yếu cho mọi hoạt động văn hóa của Phật giáo Ấn Độ.

Những mô tả sớm nhất về cuộc đời ngài được tìm thấy ở ba nguồn: Lịch sử Phật giáo Ấn Độ (History of Buddhism in India) của Taranatha1, mà người ta tin rằng đã được viết vào năm 1608; Lịch sử Phật giáo tại Ấn ĐộTây Tạng(History of Buddhism in India and Tibet) của Bố-đốn (Bu-ston)được viết trong khoảng từ 1322 đến 1333; và một bản mô tả được tìm thấy trong một bản viết tay bằng ngôn ngữ Sanskrit có niên đại khoảng thế kỷ 14 đã được Haraprasad Sastri3 cho xuất bản vào năm 1913. Căn cứ vào các niên đại được nêu thì tài liệu của Bố-đốn là tài liệu có mặt sớm nhất liên quan đến tiểu sử của ngài Tịch Thiên. Tuy nhiên, theo Jan Willem de Jong4 thì văn bản bằng tiếng Sanskrit do Sastri xuất bản có nhiều điểm tương đồng với phần đầu của một bản luận giải tác phẩm Nhập bồ-đề hành luận(Bodhicaryavatara) có tựa là Visesadyotani thuộc Luận tạng của Phật giáo Tây Tạng. Vibhuticandra5, vị tác giả nổi tiếng của tập luận này, được cho rằng đã sống trong khoảng từ cuối thế kỷ 12 hay đầu thế kỷ 13. Như vậy, nếu quan điểm của de Jong là chính xác thì văn bản bằng Tạng ngữ của Vibhuticandra và bản viết tay được Sastri ấn hành dẫn chiếu cùng một văn bản gốc, cho nên nội dung thánh sử tìm thấy trong bản văn do Sastri ấn hành chính là mô tả sớm nhất mà chúng ta có về cuộc đời của ngài Tịch Thiên.

Căn cứ vào bản thánh sử này, Tịch Thiênthái tử con của một vị vua tên là Manjuvarman cai trị vương quốc Saurashtra, nay thuộc Gujarat, một bang ở Tây Ấn Độ nằm trên bờ biển Ả Rập (Arabian Sea). Đêm trước buổi lễ quán đảnh để được truyền ngôi, ngài Tịch Thiên đã bị mẹ mình (người mà theo Taranatha thì chính là Đa-la Bồ- tát) rưới nước nóng lên đầu, cảnh báo rằng ngài sẽ phải chịu đựng nhiều đau khổ hơn thế nếu tiếp nhận ngôi vị quốc vương. Thuyết phục con từ bỏ ngôi vua bằng cách ấy, mẹ ngài đã cứu ngài ra khỏi những ác hạnh của cuộc sống thế tục. Bà còn khuyên con mình nên tới Bhamgala để nhận được phúc lành từ bậc ẩn sĩ Manjuvajra (Văn- thù Kim Cang), và ngay trong đêm đó chàng thanh niên Shantideva lập tức nhảy lên lưng một con ngựa xanh để đi tìm vị thầy được mẹ mình mách bảo. Sau nhiều ngày tìm kiếm không ăn không uống, một hôm Tịch Thiên gặp một thiếu nữ chặn con ngựa mà ngài đang cỡi lại, bảo ngài xuống ngựa rồi dâng thực phẩm và nước uống cho ngài; sau đó lại hướng dẫn để ngài đến gặp được vị thầy Văn-thù Kim Cang mà ngài đang tìm kiếm. Tịch Thiên được ở lại với thầy và học tập tại đó suốt mười hai năm cho đến khi ngài có được khả năng nhìn thấy Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi. Sau khi ngài thành tựu đạo nghiệp, vị thầy sai ngài đến Madhyadesa. Tại đây Tịch Thiên lấy tên là Acalasena và vào phục vụ cho nhà vua. Ngài luôn luôn đeo bên mình một thanh kiếm gỗ giấu trong một cái vỏ, thanh kiếm được coi là tượng trưng cho trí tuệ của Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi, vị thần hộ vệ ngài. Khi đã trở thành một vị đại thần tin cẩn, Acalasena bị những kẻ đồng liêu ghen tỵtìm cách gạt ngài ra khỏi triều đình. Họ nói với nhà vua xứ đó, “Vị đại quan Acalasena này phục vụ đại vương bằng một thanh kiếm gỗ. Làm sao ông ta có thể diệt kẻ thù khi có chiến tranh? Ngài cần phải kiểm tra thanh gươm đó”. Tâm nghi bị khuấy động, nhà vua liền ra lệnh kiểm tra vũ khí của tất cả các vị cận thần; nhưng khi đến lượt Acalasena phải giao thanh gươm của mình ra để được kiểm tra, ngài từ chối và nói, “Đại vương không thể nhìn thấy thanh gươm của thần”. Tất nhiên nhà vua kiên quyết đòi kiểm tra.

Cuối cùng Acalasena chiều theo ý của nhà vua nhưng với điều kiện nhà vua phải dùng tay che một mắt của mình lại. Khi nhà vua nhìn thấy thanh kiếm, ánh sáng rực rỡ phát ra từ thanh kiếm đã làm rớt tròng mắt của con mắt không được che của ông ta. Nhà vua không chỉ ngạc nhiên, nhưng vì tò mò, còn tỏ ra hài lòng về sự biểu diễn thần lực đó. Theo mô tả của Bố-đốn, nhà vua có ấn tượng quá mạnh về một tài năng như thế đến nỗi ông nài nỉ Acalasena ở lại nhưng Acalasena lập tức rời khỏi vương quốc rồi đến gia nhập Học viện Phật giáo Nalanda. Ở đây, cái tên Shantideva có nghĩa là Tịch Thiên bắt đầu gắn với tôn giả vì ngài luôn luôn ở trong một trạng thái tịch lặng cao độ. Tôn giả Tịch Thiên nghiên cứu kinh điểntu tập thiền định miên mật trong mọi hành động, và vì ngài không làm một việc gì khác ngoài học tập và thiền định, chư Tăng tại Học viện Nalanda đặt cho ngài một biệt danh nữa là Bhusuku. Bhu lấy từ động từ bhukta có nghĩa là ăn, su lấy từ động từ susta có nghĩa là ngủ và ku lấy từ động từ kuchiwa có nghĩa là đi dạo; hàm ý Santideva chẳng làm gì khác ngoài việc ăn, ngủ và… bước vào nhà vệ sinh! Sau một thời gian, có một số vị tu sĩ tại Nalanda muốn kiểm tra kiến thức của Tịch Thiên. Họ quyết định là sẽ trắc nghiệm ngài trong thời gian tụng đọc kinh điển hàng năm của cộng đồng Tăng sĩ tại đây. Theo mô tả của bản văn bằng Tạng ngữ, trong một cố gắng làm nhục Tịch Thiên, một tòa sư tử đã được dựng sẵn tại nơi mà Tịch Thiên sẽ giảng thuyết, rất cao đến nỗi rõ ràng một người bình thường khó có thể leo lên được. Nhưng Tôn giả Tịch Thiên dễ dàng khởi thân lên ngồi vững chãi trên tòa sư tử rồi hỏi các vị tu sĩ lúc ấy đã tụ tập đầy đủ, “Tôi đã biên soạn ba bộ luận, đó là Sutrasamuccaya (Tập kinh luận hay Đại thừa thật yếu nghĩa luận), Siksacamuccaya (Tập học luận haĐại thừa tập Bồ-tát học luận), và Bodhicaryavatara (Nhập Bồ-tát hạnh hay Nhập Bồ-đề hành luận). Nhưng các ngài muốn tôi trình bày những gì đã được các nhà tiên tri nói tới (ý nói những gì đã cũ) hay những điều theo như những gì họ vừa mới nói (ý nói những gì mới mẻ hơn)?”. Ngạc nhiên, hội chúng yêu cầu ngài trình bày những gì mới mẻ. Tịch Thiên bắt đầu trình bày về Nhập Bồ-đề hành luận. Khi ngài tụng đến đoạn kệ được coi là thể hiện tinh yếu của tư tưởng Trung Quán“Khi cái có, cái không / Không còn khởi trong tâm / Thì đâu còn cái gì / Có thể khởi lên nữa / Và tâm thật thanh tịnh” thì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi xuất hiện giữa không trung ngay trên đầu Tịch Thiên, rồi vị Bồ-tát cùng bậc luận sư vừa được phát hiện từ từ biến mất khỏi tầm nhìn của mọi người. Theo mô tả của Bố- đốn thì mặc dù vậy, tiếng đọc tụng của Tôn giả Tịch Thiên tiếp tục vang vọng. Không còn trông thấy ngài, chúng Tăng hối hận quay trở lại liêu của ngài và phát hiện ba bộ luận trong liêu. Chư Tăng đã phổ biến các bộ luận của ngài cho thế gian như một sự chuộc lỗi đối với việc thử thách ngài.

Chi tiết và sự chính xác về mặt thứ tự thời gian có chút ít khác biệt giữa ba phiên bản của thiên huyền thoại này, nhưng cả ba phiên bản đều thống nhất về những điểm chính: rằng Shantideva là một vị thái tử đã tử bỏ ngôi báu, rằng ngài đến thụ giáo ở vị ẩn sĩ Văn-thù Kim Cang đến khi nhìn thấy được sự xuất hiện của Bồ-tát Văn-thù- sư-lợi, rằng ngài có phục vụ một thời gian trong triều đình của một vị vua, và rằng ngài đã bị coi như một tu sĩ tầm thường cho đến khi xảy ra cuộc thử thách đầy ấn tượng để chứng minh tài năng của ngài qua việc tụng đọc tác phẩm Nhập Bồ-đề hành luận. Ngoài việc cho mọi người biết rằng Shantideva là một vị tu sĩ ở miền Nam Ấn, theo Đại thừaít nhất đã có một thời gian sống tại tu viện Nalanda, những truyền thuyết không hé lộ gì nhiều về lịch sử của ngài.

Có một phiên bản khác về tiểu sử của Tịch Thiên được ghi nhận trong tác phẩm Drops of Nectar (Những giọt cam lồ), cũng là một bản luận giải tác phẩm Nhập Bồ-đề hành luận do một vị đại sư Tây Tạng là Khenpo Kunpal6 (1872- 1943) viết, dựa trên những lời dạy của vị thầy của mình là ngài Patrul Rinpoche7 (1808-1887). Theo bản văn này thì phụ thân của Santideva là vua Kalyanavarnam và khi mới ra đời vào khoảng năm 685 thì Santideva có tên là Shantivarnam. Khi còn trẻ, ngài đã có những hành động của một vị Bồ-tát và rất tin tưởng vào giáo pháp Đại thừa vốn thịnh hành ở Nam Ấn vào lúc ấy. Ngài luôn giữ thái độ kính trọng đối với những bậc thầy và học tập hết sức chuyên cần. Ngài giúp đỡ nhiều vị đại thần của vua cha. Ngài có lòng từ đối với những người nghèo khổ, những kẻ bệnh hoạn và những người chậm lụt, luôn tìm cách giúp đỡ và bảo vệ họ. Ngài cũng đã trở thành một bậc thông tuệ về nhiều ngành nghệ thuật và khoa học. Cũng trong thời còn trẻ, ngài đã gặp được một vị hành giả du phương giảng cho ngài về Tikshna Manjushri Sadhana, một loại nghi quỹ để đạt tới trí tuệ như của ngài Văn-thù; thông qua việc thực hành nghi quỹ này, ngài đã thiết lập được một sự nối kết chặt chẽ với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và đạt tới một trạng thái nhận thức sâu sắc về giáo pháp.

Khi nhà vua là phụ thân của Tôn giả Shantideva qua đời, các đại thần trong triều muốn tôn ngài lên làm vua, đã chuẩn bị một cái ngai thật lớn và sửa soạn mọi chi tiết cho một cuộc lễ đăng quang. Đêm trước lễ đăng quang, Shantideva nằm mơ thấy chính Bồ-tát Văn-thù- sư-lợi ngồi trên chiếc ngai đó mà nói với ngài rằng, “Này con, đây là chỗ ngồi của ta và ta là thầy của con.Làm sao mà cả ta và con có thể ngồi trên cùng một chỗ được?”. Shantideva diễn giải ý nghĩa của giấc mơ đó là Bồ-tát Văn-thù không muốn mình làm vua. Hôm sau, Shantideva rời bỏ quốc độ, tìm đến tu viện Nalanda rồi xin xuất gia dưới sự bảo trợ của vị thủ tọa lúc ấy là ngài Jayadeva. Cái tên Shantideva của ngài có từ lúc ấy.

Sinh hoạt của ngài tại Nalanda và cuộc thử thách của chư Tăng dẫn đến việc ngài biến mất cùng Bồ-tát Văn-thù sau khi ngài đọc tụng tác phẩm Nhập Bồ-đề hành luận cũng giống như được mô tả ở các phiên bản cũ. Chi tiết khác là ngài Tịch Thiên chỉ đọc tới bài kệ thứ 34 của chương thứ chín trong tập Nhập Bồ-đề hành luận thì ngài đã biến mất cùng Đức Văn-thù-sư-lợi. Các học giả ở Nalanda với trí nhớ tuyệt vời của họ đã cố gắng nhớ lại toàn bộ lời tụng đọc của Shantideva rồi viết ra; nhưng khi so sánh những bản ghi chép của nhau, các ngài thấy có hai quan điểm khác biệt. Một nhóm cho rằng tập luận có chín chương với bảy trăm bài kệ. Nhóm khác cho rằng tập luận có tất cả mười chương với một ngàn bài kệ. Thêm nữa, không ai biết gì về nội dung của hai tập luận khác mà ngài Shantideva có đề cập. Các học giả ở Nalanda đã quyết định tìm kiếm Shantideva; và sau một thời gian, cuối cùng họ thấy ngài có mặt tại ngôi tháp Shridakshina ở miền Nam. Họ mời Shantideva trở lại giảng dạy ở Nalanda nhưng ngài từ chối. Tuy nhiên, ngài đã giải quyết những ý kiến khác biệt về tác phẩm Nhập Bồ-đề hành luận, khẳng định tập luận có mười chương với một ngàn bài kệ. Ngài cũng chỉ cho họ chỗ ngài giấu hai bản luận còn lại.

Nói chung, như trong hầu hết các bản thánh sử về cuộc đời những bậc thánh tăng Phật giáo, về truyền thuyết liên quan đến Shantideva người ta có thể thấy những chủ đề xuyên suốt mang tính đặc trưng được lặp đi lặp lại; chẳng hạn, việc Shantideva bị coi thường trước khi phải tiết lộ thân phận trong một hoàn cảnh đầy kịch tính; việc Shantideva từ bỏ ngai vị vua chúa để tìm giải thoát, việc có một người phụ nữ giúp Shantideva từ bỏ con đường khổ hạnh bằng cách dâng nước và thực phẩm. Tìm hiểu các tác phẩm của Tịch Thiên, người ta thấy ngài rất sùng mộ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vị Bồ-tát tượng trưng cho trí tuệ. Đặc tính của những tác phẩm được coi là của Tịch Thiên cho thấy ngài vừa là một học giả uyên bác quen thuộc với một phần quan trọng của những tác phẩm kinh điển hình thành tư tưởng Đại thừa vừa là một nhà thơ hùng biện và mẫn cảm, xứng đáng là vị đã soạn thảo những công trìnhgiá trị lâu dài trong nền văn học Phật giáo. ■

Tài liệu tham khảo:

Moral Theory in Santideva’s Siksasamuccaya (Lý thuyết Đạo đức trong Tập học luận của Tôn giả Tịch Thiên), Barbra R. Clayton, Oxford Centre for Buddhist Studies, Routledge Publisher, 2006.

A Biography of Shantideva, Rigpa Shedra (http://www. rigpawiki.org).
(TC. Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 35336)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19529)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23058)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13265)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5807)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10556)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10289)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 9955)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20755)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6174)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6819)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8841)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 5977)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18106)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6313)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6699)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6521)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12933)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5832)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7842)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10131)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7826)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9811)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9032)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5919)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24479)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36270)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7665)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11471)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 9979)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5202)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5396)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9936)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7831)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9324)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8578)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46363)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6869)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12165)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5759)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14400)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12909)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12345)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14406)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12318)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10918)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9585)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16611)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8432)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5927)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9891)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6344)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11281)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7001)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46564)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13458)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8326)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6833)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9129)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6160)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6868)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17741)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18051)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15686)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6911)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31102)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9542)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7654)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21512)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34081)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33184)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14178)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35546)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 12977)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15738)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13633)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 32913)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41300)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40233)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19998)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33617)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29642)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33697)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18792)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48911)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11935)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11138)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22403)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17930)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15066)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15966)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13081)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19656)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12037)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17597)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant