Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiền Sư Bạch Ẩn Huệ Hạc

09 Tháng Mười Một 201509:17(Xem: 6606)
Thiền Sư Bạch Ẩn Huệ Hạc

THIỀN SƯ BẠCH ẨN HUỆ HẠC

Thích Tâm Hạnh

Thiền Sư Bạch Ẩn Huệ Hạc

I/ THIẾU THỜI.

Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.

Hara ở ven Vịnh, nhìn ra Thái Bình Dương, gần núi Phú Sĩ.

Sư sinh vào ngày 25 tháng chạp năm 1685. Vào giờ Sửu, ngày Sửu, tháng Sửu, năm Sửu. Là con út trong một gia đình có 3 trai, hai gái. Lên 5 tuổi, được dẫn đi chơi trên bãi biển gần nhà. Trong khi các chị đùa giỡn với các, Iwajiro (Nham Thứ Lang) nhìn biển rồi nhìn lên trời thấy mây trôi không ngừng, cậu bé lẩm bẩm: “Ôi, lạ quá!” và bậc khóc.

Có lần Thầy tăng kỳ lạ thường niệm Phật và thổi sáo tre tên Kyushin thường theo lời thỉnh mời của cha Ngài đến nhà thọ trai xoa đầu cậu bé lên 7 và nói: “Đứa bé này gương mặt đĩnh ngộ, sau này sẽ là nguồn an lạc của nhiều người.”

Từ nhỏ, Iwajiro (Nham Thứ Lang) rất sợ địa ngục. Lên 11 tuổi đi chùa, nghe vị Sư phái Nhật Liên tông kể hình phạt trong tám cửa hỏa ngục, cậu sợ run bắn cả người. Về nhà, nước mắt cứ ràn rụa khiến cậu không sao ngủ được.

Năm 12 tuổi, nhân xem vỡ tuồng múa rối Sư Nisshin đội nồi:

Viên quan hỏi Sư Nisshin phái Nhật Liên: “Ai tụng kinh Pháp Hoa thì lửa không đốt cháy được phải không?” Sư đáp: “Ai thành tâm tụng Kinh Pháp Hoa thì vào lửa không cháy, xuống nước không chìm.” Viên quan ra lệnh mang lưỡi hái đã nung cháy sáng và nồi đốt cháy đỏ đến đặt lên đầu Sư Nisshin. Sư vẫn điềm nhiên tụng kinh.

Mọi người đang xem ai cũng xúc động vô cùngđồng thanh niệm Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Khi ấy, cậu bé Iwajiro (Nham Thứ Lang) tin rằng người tu sẽ không bị đọa địa ngục nên phát nguyện đi tu. Mẹ rất hoan hỷ vì thấy cậu bé đã có vẻ khác phàm.

II/ XUẤT GIA TU HỌC.

Năm 14 tuổi, Iwajiro (Nham Thứ Lang) bắt đầu học Kinh điển với vị sư già Sokin ở gần chùa Tùng Âm (Shoin-ji, Tùng Âm Tự). Qua năm sau, Iwajiro (Nham Thứ Lang) vào chùa Tùng Âm đảnh lễ Đơn Lãnh Truyện Công (Tanrei Soden) xin cạo tóc xuất gia. Cạo tóc xong, Đơn Lãnh vỗ lưng đệ tử, nói: “Phạm nghi chánh thủ.” (đúng là một bậc nghi phạm Tùng Lâm). Và trao pháp danh Huệ Hạc. Sư thề: “Nếu thân này không bị lửa đốt, không bị nước cuốn thì sẽ tu học mãi, dù chết cũng không dừng nghỉ.”
Sau đó Huệ Hạc được gửi đến chùa Đại Thánh (Daisho) ở Numazu, tỉnh Suruga cho một vị thầy khác là Tức Đạo (Sokudo) dạy dỗ.

Năm 19 tuổi, Sư rời chùa Đại Thánh để tầm sư học đạo. Sư theo vị Thầy đầu tiên là Sokin đến Chùa Thiền Tùng (Zenso-ji). Một hôm nghe tọa chủ Sen’ei giảng về Nham Đầu Toàn Khoát. Sau đó Huệ Hạc tìm đọc tiểu sử thì được biết ngài bị côn đồ đánh đến chết. Huệ Hạc rất đỗi băn khoăn, nếu một vị cao tăng không thể thoát khỏi tai ách khi còn sống thì khi chết đi làm sao tránh khỏi địa ngục? Nếu vậy thì xuất gia làm gì? Nỗi lo sợ thời thơ ấu chụp xuống Huệ Hạc, nhưng cuối cùng sư nghĩ, dù không tránh khỏi địa ngục đi nữa thì không hơi đâu mà lo lắng nghĩ suy làm gì.

III/ THI HỌA.

Những năm đầu trong chùa làm thiền sinh, Sư được học văn chương nghệ thuật. Cộng thêm những chuyến hành hương sau này khiến Huệ Hạc có kiến thức uyên bác về thi ca Trung Hoa, nhất là đối với Lý Bạch, Đỗ Phủ, và sau này sư đã trở thành bậc thầy về thư họa trong cách viết chữ thảo - một sự tổng hợp giữa Hán tự và âm tự Nhật.

Trong làng Hinoki tỉnh Mino (Mỹ Nùng) có một thiền sư thi nhân già tên là Mã Ông (Ba-ō). Huệ Hạc là một trong số 12 học tăng đến đó vào mùa xuân năm 1704. Chùa Thụy Vân của Mã Ông quá nghèo nên học tăng phải tự lo liệu gạo ăn, củi đốt. Y như tên Mã Ông có nghĩa là ngựa hoang, Mã Ông la mắng đệ tử không tiếc lời. Chẳng bao lâu 11 người bỏ đi, một mình Huệ Hạc ở lại. Mã Ông thường đi đến thị trấn Ōgaki gần bên. Thừa cơ hội vắng thầy, Huệ Hạc đọc và làm thơ chữ Hán lúc rảnh rỗi.

IV/ KHẮC KHOẢI - QUYẾT TÂM TU HÀNH.

Tuy thư họa rất giỏi, nhưng Sư vẫn băn khoăn, cho dù trở thành thi bá hay thi thánh như Lý Bạch, Đỗ Phủ thì làm sao tránh khỏi địa ngục? Một hôm lên nhà trên thấy sách vở chất đầy trên giá, sư cầu nguyện chư Phật mười phương cùng long thần hộ pháp gia bị chỉ cho con đường nên theo đến hết đời, rồi nhắm mắt lấy đại một quyển kinh. Đó là quyển Thiền Quan Sách Tấn thuộc thế kỷ XVII do ngài Vân Thê Châu Hoằng ghi chép ngữ lục và những giai thoại về công phu hành trì miên mật của chư thiền đức. Niềm tin mãnh liệt, sư nâng quyển kinh ngang trán, không cần nhìn, lật sách ra trúng ngay chương nói về một thiền sư đời Tống là Từ Minh Sở ViênThạch Sương tọa thiền suốt đêm ngoài trời lạnh. Vì muốn chống lại ma ngủ, Từ Minh đã lấy dùi đâm vào đùi (dẫn châm tự thích). Sư cảm kích tấm gương tha thiết cầu đạo của tiền nhân nên từ đó quyết tâm không ngừng nỗ lực tu học. Vài tháng sau, hay tin mẹ qua đời sư làm kệ dâng lên mẹ nhưng vẫn không rời làng Hinoki.

V/ THAM TẦM.

Mùa xuân năm sau, sư giã từ chùa Thụy Vân đi tham vấn khắp nơi: chùa Bảo Phước ở Đổng Hộ yết kiến Nam Thiền, viện Linh Tùng tham yết Vạn Hưu, chùa Đông Quang ở Mỹ Nùng (Mino) nương Đại Xảo (người chủ trương làm giảm nhẹ tinh yếu của thiền để có thể đại chúng hóa, đặt tên là Thiền bình thường). Năm 22 tuổi đến chùa Thường Cao ở Nhã Hiệp tham kiến Vạn Lý.

Khoảng thời gian này (1706) Huệ Hạc có được quyển Hư Đường Lục, ngữ lục này đã ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời sư sau này. Sư đến chùa Jōkō tỉnh Wakasa để nghe Pháp sư Banrei giảng về đại thiền sư Trung Hoa này ở thế kỷ XIII. Trong ngữ lục có ghi lại một bài thơ của một vị sư đã hoàn tục và sau đó đi tu lại:

Tôi đã bại hoại vì điên rồ hoàn tục sáu tháng
Nay trở về tu viện
Ôi hoan hỷ! Ôi hạnh phúc! Sau biết bao đau khổ.

Huệ Hạc đã khóc, tưởng như bài thơ viết về mình, vì sư đã có lần sanh tâm trở lại thế gian.

Mùa hạ năm đó sư đến chùa Chánh Tông (Shōshū-ji) ở Y Dự (Iyo) gặp Pháp hội của Dật Thiền đang giảng Phật Tổ Tam Kinh. Sư là một trong năm vị được mời đến nhà khách của lãnh chúa Matsudaira ở lâu đài Matsuyama. Người ta cho các khách tăng xem hàng chục bức tranh. Có một bức bọc trong túi gấm, bên ngoài còn đậy thêm hai chiếc hộp. Đó là thư họa của Daigu Sōchiky, một thiền sư thuộc thế kỷ XVII. Nhìn thoáng qua đường cọ vẽ chưa đều lắm và hơi vụng. Huệ Hạc hiểu rằng trong thư pháp người ta còn thưởng ngoạn cốt cách của người nghệ sĩ vốn là một nhà sư, do đó bức họa này rất được trân quý hơn hẳn các bức khác. Trở về chùa Chánh Tông, Huệ Hạc đốt hết tranh chữ, họa phẩm kể cả tập thơ.

 “Mười lăm tuổi tôi đi du phương, hai mươi hai và hai mươi ba tuổi tôi đau đớn ngày đêm để thâm nhập chữ VÔ”, Huệ Hạc đã viết lại trong một lá thư của tập Hoa Mảnh Mai. Như thế, có thể sư bắt đầu tham công án vào năm 1706 (22 tuổi). Công án luôn luôn được thầy trao cho trò, nhưng không rõ vị nào đã trao cho sư công án đầu tay này.

Năm 1707, Huệ Hạc 23 tuổi hành hương với bằng hữu trên hòn đảo lớn nhất nước Nhật, phía đông Fukuyama và ghé qua lâu đài danh tiếng ở Okayama. Sư không ngừng vật lộn với chữ VÔ suốt cuộc hành trình, trong khi bè bạn mải luận bàn cảnh đẹp chung quanh và kiến trúc lâu đài. Sư nhắm mắt thầm nhủ, việc lớn chưa xong, thì giờ đâu mà ngắm cảnh? Họ đã nghỉ lại ở một ngôi chùa trong núi và sư có làm bài thơ:

Dưới núi dòng thác chảy
Cuồn cuộn trôi đi mãi
Tâm thiền nếu như thế
Thấy tánh đâu ngăn ngại.

Lúc đến Y Thế, nghe Mã Ông bị bệnh nặng, sư bèn đến chùa Thụy Vân thăm. Sau đó đến quê nhà Hara. Gần bốn năm rưỡi xa nhà, gia đình và bè bạn tụ tập hỏi thăm, sư chỉ trả lời ậm ừ. Ai cũng bảo sư kỳ quặc.
Tháng 11 năm đó, núi Phú Sĩ phun lửa gây động đất lớn làm rung rinh cả chùa Tùng Âm, nơi trước đây Huệ Hạc xuất gia và hiện đang trú ngụ. Chư tăng chạy hết ra ngoài, riêng sư vẫn an nhiên tọa thiền: “Đã nhất quyết mở sáng mắt huệ thì có chư thiên phù hộ”. Lúc đó một tia lửa khổng lồ bên sườn núi bắn ra thành một đỉnh núi dung nham. Tro bụi trắng như tuyết phủ hết miền đông hòn đảo và trong thành Edo trời tối sầm giữa trưa.

VI/ NGỘ ĐẠO LẦN ĐẦU.

Khoảng năm 1708 (24 tuổi), Huệ Hạc biết có một thiền sư lỗi lạc ở Takada trong tỉnh Echigo, đó là vị trụ trì chùa Anh Nghiêm (Eigan-ji) tên Tánh Triệt (Eitetsu) đang giảng Nhân Thiên Nhãn Mục. Huệ Hạc cùng ba vị tăng đồng đến viếng Tánh Triệt vào mùa hè năm 1708. Qua cuộc tiếp xúc sư biết vị này chưa qua được chướng ngại. Thất vọng, sư giam mình trong ngôi miếu, tọa thiền suốt ngày đêm không ăn không ngủ. Ngày thứ bảy, trong khi các bạn đồng hành đang chuẩn bị trở về, Huệ Hạc đang tọa thiền chợt nghe tiếng chuông chùa từ xa. Đột nhiên, cả thân tâm biến mất. Đây là lần đạt ngộ đầu tiên, đã được ghi lại như sau: “Tôi tham chữ VÔ ngày và đêm, không dừng nghỉ dù trong chốc lát. Tôi chỉ lo lắng một điều là được thanh tịnh, bất nhiễm và kết nghi tình thành một khối. Tôi lo nhất là không thể thành một khối thường xuyên, thức cũng như ngủ. Hai mươi bốn tuổi, vào mùa xuân, tôi một mình vật lộn trong đau đớn tại thiền viện Anh Nghiêm ở Echigo. Tôi không ngủ dù ngày dù đêm, quên cả ăn ngủ, khi, bỗng chốc, trong tôi kết thành khối nghi. Tôi nhận thấy một cảm giác trong suốt cực điểm, như thể tôi bị đóng băng chết cứng trong cánh đồng giá rét trải rộng cả ngàn cây số. Tôi không tiến cũng không lùi được. Tôi như người mất hết trí khôn, và không gì hiện hữu đối với tôi ngoài chủ đề VÔ! Mặc dù tôi có tham dự những buổi giảng của thầy, tôi nghe như tiếng nói vang lên từ căn phòng đâu đâu, rất xa và hơn nữa tôi cảm tưởng như bay theo gió. Nhiều ngày trôi qua, tôi luôn luôn ở trạng thái đó. Cho đến một buổi chiều, tiếng chuông chùa đảo lộn tất cả tâm thái tôi. Giống như tiếng ầm của một tảng băng hay một ngọn tháp ngọc rớt xuống. Thức dậy, tôi thấy mình là vị tiền bối Nham Đầu, dù đã xa xưa vị tiền bối này vẫn không thay đổi. Khối nghi trước kia vỡ tan tành. Tôi kêu lớn: ‘Thật là vi diệu! Thật là vi diệu! Không còn sanh tử để thoát ra. Không một giác ngộ nào để kiếm tìm. Tất cả 1700 công án rắc rối từ xưa không còn phải tham nữa!’” Bạn đồng hành nhảy bổ vào sư, xiết tay chúc tụng. Bỗng chốc vượt qua nhị nguyên đối đãi giữa ta và người, hiện tạiquá khứ, sống và chết, trước mặt sư thoáng hiện giới xứ quang minh.

Trước đó Huệ Hạc đã bị “sốc” khi nghe kể cái chết của Nham Đầu. Một bọn côn đồ đến chùa. Chư tăng chạy hết, Nham Đầu vẫn tọa thiềnbị giết. Ngay lúc đó, trong tư thế kiết-già, Nham Đầu hét to, vang đến mấy cây số chung quanh. Giờ đây Huệ Hạc đã chiến thắng nỗi sợ chết đeo đuổi từ thuở ấu thơ. Đó là ngày 17 tháng 2, sư tròn hai mươi bốn tuổi. Từ đây sở kiến của sư nuốt hết các phương. Huệ Hạc tự nghĩ ba trăm năm sau chưa chắc có người liễu triệt như ta.

VII/ GẶP BỔN SƯ HUỆ ĐOAN KHAI THỊ.

Pháp hội của Tánh Triệt rất phổ biến, có hơn năm trăm tăng đến dự tại chùa Anh Nghiêm, trong đó có vị cao tăng là Tông Cách (Sōkakhu). Tông Cách nói với sư:

- Ông thật là siêu việt. Chỉ tiếc có đến mà cũng có chưa đến. Nếu được gặp ông già của tôi ắt có thể hiểu.

Sư gạn hỏi vì sao. Tông Cách nói tiếp:

- Tôi vốn người Tín Dương. Ở Phan Sơn (Iiyama) có am chủ tên Huệ Đoan (Etan) ở am Chánh Thọ (Shōju), cháu của Hư Đường. Đến cầu đạo am chủ hạ bút viết một quyển chuyên đề Ngô Tông Hướng Thượng. Gặp được am chủ, tôi biết ông là tay độc thủ nhiều năm.

Sư nghe thế bèn muốn đến tham kiến. Tông Cách nói:

- Hiểu biết của ông kham thọ được kiềm chùy. Nhưng môn phong am chủ chỉ cần loại cỏ thẳng tắp. Càng nhiều cái xấu thì càng náo nhiệt. Ông phải cẩn trọng với bạn bè. (Không đi nhiều người).

Sư liền đợi tan pháp hội, một mình cùng với Tông Cách đi Phan Sơn.

Trước đã từng xem Truyền Đăng Lục, thấy Sơ tổ (Bồ-đề Đạt-ma) bảy tuổi xuất gia đạt đạo mà vẫn còn hầu Bát-nhã Đa-la tu hành 20 năm mới sạch hết uẩn áo. Sư bỗng nhiên mãnh tỉnh, tâm kiêu mạn dần bớt, phát trí tinh tấn.

Khi cả hai về đến chùa, Huệ Đoan lúc bấy giờ 67 tuổi, đang lượm củi gần đó. Huệ Hạc được chính thức nhập chúng ngay, phá lệ nhà chùa là khách tăng đến học thiền phải ở riêng một thời gian.

Huệ Đoan Đạo Cảnh vốn là con hoang của lãnh chúa Matsudaira ở lâu đài Phan Sơn. Đến Edo (Bây giờ là Tokyo) năm mười chín tuổi, Đoan học thiền Lâm Tế hơn mười năm ở chùa Tōhoku với thiền sư Chí Đạo Vô Nan (Shidō Bunan), nếp sống đạm bạcnổi tiếng nghiêm minh. Sau nhiều năm tham vấn các thiền sư khác, Huệ Đoan quay về với Vô Nan. Được thầy truyền pháp, nhưng Huệ Đoan từ khước không trụ trì chùa Tōhoku, mà dựng am tranh ở Phan Sơn để đón chờ vị đệ tử xuất cách.

Gặp am chủ, Huệ Hạc trình chỗ hiểu một thiên. Đoan dùng tay trái đề kệ rằng: “Cái ấy ngươi học được chăng?” Xong chuyển qua tay phải viết: “Cái này ngươi thấy được chăng?” Sư thưa:

- Nếu trình cái thấy được thì cần phải mửa hết.

Rồi làm tiếng ụa mửa. Đoan đè xuống hỏi:

- Triệu Châu một chữ “VÔ” làm sao hội?

Sư thưa:

- Triệu Châu “VÔ” thì chỗ đâu để tay chân?

Đoan lấy ngón tay dí chót mũi Sư nói:

- Nè! Để tay chân nhiều ít?

Sư khi ấy toàn thân toát mồ hôi, nước mắt ràn rụa không thốt nên lời.

Trước đó có lần Đoan trao lời tâm huyết với đệ tử: “Hiếm hoi làm sao những lời dạy quét sạch suy đồi trong nhà thiền và sáng tạo công án, như sao đêm mọc ban ngày.” Tuy nhiên, Huệ Hạc vẫn chưa nhận ra chân giá trị của thầy mình vì thấy trong xứ có biết bao thiền việnthiền sư lỗi lạc, trong khi Đoan lại rút về nơi heo hút bần cùng ở Phan Sơn này. Và giờ đây Huệ Hạc ngồi yên câm nín trước vị thầy ẩn dật, truyền thừa từ tổ Hư Đường. Đoan hài lòng bảo Huệ Hạc:

- Đã tham cứu xong một công án sẽ là hậu duệ cổ Phật. Đứng lên! Hãy nghiền tới nghiền lui mọi mặt đến khi nào phá vỡ kết quả nửa đường này.

Đoan gợi ý nếu như quá kẹt với công án VÔ thì có thể đổi công án khác. Huệ Hạc liền phát nguyện trước Đoan:

- Nếu như không mở được công án trong tuần tới, xin long thần hộ pháp mười phương đừng để mạng con!

Huệ Hạc không thể nào chợp mắtnỗ lực quá mãnh liệt để nhảy qua cửa ải tư duy thường tình. Một chiều hè, sư đến trình chỗ thấy của mình cho Đoan, lúc ấy đang hóng gió trước mái hiên. Đoan bảo: “Trò nhảm!” Sư cười gằn mai mỉa lặp lại: “Trò nhảm!” Đoan nắm lấy học trò, đánh đá lung tung, rồi xô ra ngoài mái hiên. Sư té xuống sình. Lát sau tỉnh lại, vào lạy thầy, bị mắng “Đồ súc sinh ở hang động!” Bữa sau sư vào phương trượng quyết tâm đem hết biện tài ra tranh luận với Đoan. Đoan nổi cơn thịnh nộ chụp lấy sư xô ra khỏi cửa, từ gác cao té xuống chân tường đá, sư bất tỉnh nằm mê man. Đoan nhìn xuống cười ha hả. Tiếng cười đánh thức sư, mồ hôi đầm đìa. Sư ráng leo lên, nhưng Đoan vẫn chưa buông tha, mắng tiếp:“Đồ súc sinh ở hang động!”

Quá tuyệt vọng, Huệ Hạc định bỏ thầy ra đi. Một buổi sáng, sư vào thành Phan Sơn khất thực, đi từng nhà, ôm bát và cầm gậy đính nhiều vòng kêu leng keng. Tuy đứng trước nhà thí chủ mà vẫn không ngừng tham công án nên sư không nghe trong nhà la hét: “Đi! Đi! Đi chỗ khác!” Rồi có người ra, lấy cán chổi đánh bổ xuống đầu, sư ngã lăn ra bất tỉnh. Được khách qua đường đỡ dậy và lay tỉnh, sư mở mắt, và thình lình mở hết công án. Sư vỗ tay cười ngất. Khách bảo nhau: “Ông tăng này điên!”

trở về chùa, đến gặp Đoan. Đoan cầm quạt vỗ vào người sư: “Con đã nối mạng ta! Hãy hứa là đừng bao giờ mãn nguyện với những tiểu ngộ thường thường!” Như thế vào năm 1708, Huệ Hạc đã được thầy ấn chứng.

VIII/ LÂM BỆNH.

Sau khi học đạo với Huệ Đoan Đạo Cảnh suốt sáu tháng, Huệ Hạc và ba người bạn đồng hành lên đường trở về chùa Tùng Âm.

Sau đó Huệ Hạc vẫn tiếp tục tham thiền ở nhiều nơi trong tỉnh Suruga và Tōtōmi, theo lời dạy của Đoan là dồn hết sức mình tiến tu sau khi ngộ. Vì tu hành quá miên mật, nghiêm túc nên Huệ Hạc lâm bệnh rất nhanh, phổi yếu, khó thở. Sư bước đi mà không còn cảm giác gì đối với cơ thể, lỗ tai lùng bùng và đôi khi mắt mờ. Sư lại lên đường du phương. Đến gặp Bạch U Chơn Nhơn (Hakuyu) ở ngoại ô đông bắc Kyoto. Trong tập Dạ Thuyền Nhàn Thoại đã kể lại buổi viếng thăm này. Trở về Suruga sư hành thiền theo pháp Nội Quán Tu Dưỡng Quyết của Bạch U. Không đầy ba năm sư lành bệnh. Từ đó, Huệ Hạc bắt đầu giải đáp những công án rất khó đã tham cứu từ lâu, về sau đại ngộ sáu bảy lần.

IX/ VÂN DU.

Giữa thập niên 20 và 30 tuổi, Huệ Hạc hành khước nhiều chùa trong các tỉnh Shimosa, Ise, Wakasa, Kawachi và Izumi trên hòn đảo chính, nhưng không có duyên gần gũi thiền viện dòng Lâm Tế. Ở Izumi sư ngụ tại chùa Inryō-ji phái Tào Động, gặp thiền sinh Jukaku, cả hai cùng nhau tọa thiền suốt đêm không ngủ. Một hôm Huệ Hạc tọa thiền liên tục bảy ngày bảy đêm, đại ngộ và làm bài thơ waka (liên ca):

Làm sao người nghe tiếngTrong ngôi cổ tự xa
Giữa rừng ShinodaTuyết rơi đêm thanh vắng.

Sau một thời gian ngắn, Huệ Hạc rời chùa Inryō-ji trở về chùa Reishō-ji tỉnh Mỹ Nùng. Nhưng sư thất vọng vì 50 vị tăng Lâm Tế đều tu thiền mặc chiếu theo Tào Động. Sư đến tỉnh Yamanoue nơi thiền sư Quan Sơn Huệ Huyền, khai tổ chùa Diệu Tâm, ẩn cư thuở xưa, dựng một am cỏ trên núi Nham Lan (Iwadaka) mùa xuân năm 1715.

X/ TRỞ LẠI TÙNG ÂM TỰ tại quê nhà.

Độc cư gần 2 năm trời, mùa đông năm 1716, Huệ Hạc được người thân tín của cha là Shichibei tìm gặp và cho biết chùa Tùng Âm bây giờ hoang tàn, tường vách đổ nát. Chùa không có nóc, trông thấy trời và sao lấp lánh thâu đêm, mà cũng không có sàn. Làm lễ ở chánh điện gặp lúc mưa phải đội nón và mang ủng cao. Tất cả sự sản của chùa đều rơi vào tay chủ nợ, còn vật dụng sở hữu của sư cũng bị cầm cố cho bạn hàng. Vật duy nhất đáng giá ở đây là ánh trăng và tiếng gió. Cha của Huệ Hạc đang bệnh và rất đau lòng về tình trạng ngôi chùa, xưa kia do người chú xây cất và gia đình từng là đại thí chủ nhiều năm qua. Sư bằng lòng theo ý nguyện của cha muốn sư về chùa cũ nên đã rời thất cùng Shichibei trở về quê nhà.

Đầu năm 1717, ngày kỵ trai tiên sư Đơn Lãnh, Huệ Hạc tổ chức lễ nhập tự và lãnh chức trụ trì chùa Tùng Âm. Mười một tháng sau thì cha Ngài qua đời.

XI/ ẨN CƯ.

Ít lâu sau, Huệ Hạc bắt đầu dùng Pháp hiệu Bạch Ẩn (Hakuin). Điều này ngụ ý từ nay về sau sư không rời xa chùa Tùng Âm trong khoảng 40 đến 55 tuổi.

Bởi vì Pháp hiệu của sư dẫn xuất (bắt nguồn) từ tên chùa đầy đủ là Hạc Lâm Sơn Tùng Âm Tự (Kakurin-zan Shōin-ji), tức là chùa dưới bóng cây tùng trên núi trong rừng Hạc Lâm. Khi xưa Đức Phật nhập Niết-bàn giữa hai cây Sa-la, cánh rừng nhất thời trổ hoa một màu trắng như đàn chim hạc. Do đó, rừng Sa-la này ở Câu-thi-na gọi là Hạc Lâm. “Haku” là trắng, “in” là ẩn, “Hakuin” là người ẩn trong hạc trắng, tức trong Niết-bàn.

Chẳng bao lâu Bạch Ẩn được tấn phong đệ nhất điển tọa trong ba tháng an cư tại chùa Diệu Tâm, tổ đình dòng Lâm Tế phái Diệu Tâm, một trung tâm tu thiền quan trọng từ đời Muromachi (1333-1568).

Thời kỳ này tông Lâm Tế tạo ảnh hưởng mạnh đối với văn hóa và chính trị nước Nhật, các chùa thuộc nhóm Ngũ Sơn (Liêm Thương Ngũ Sơn và Kinh Đô Ngũ Sơn) và chùa Đại Đức của Quốc sư Đại Đăng là ngọc báu thời đó. Nhật Hoàng Hoa Viên (Hanazono) khi rời ngôi đã đến học đạo với Đại Đăng và cúng cho ngài một dinh thự ở ngoại ô Kinh Đô năm 1337. Sau này đổi thành chùa Diệu Tâm. Một đệ tử của ngài là Quan Sơn Huệ Huyền (Kanzan Egen) được cử làm trụ trì. Quan Sơn lập một pháp tu rất tinh nghiêm khiến chùa Diệu Tâm nhanh chóng nổi tiếngtrung tâm thiền Lâm Tế ưu việt.

Mãn nhiệm kỳ Bạch Ẩn lui về chùa Tùng Âm, tự nguyện vâng theo triệt để lời dạy của sư phụ Huệ Đoan lúc ấn chứng:

“Tông ta suy dưới đời Tống và hoại dưới đời Minh. Tinh ba còn lại đã truyền sang Nhật, nhưng thật là hiếm... Hãy phát huy dũng khí và giáo dưỡng hai môn đồ ưu tú. Nếu nhiều hơn hai thì không phải là đại pháp khí. Chỉ cần hai hạt giống chánh truyền con sẽ gầy dựng Thiền Tông.”

Đúng vậy, sau này Huệ Hạc có vị đại đệ tử là Nga Sơn Từ Trác (Gasan Jitō) có hai môn sinh là Ẩn Sơn (Inzan) và Trác Thiên (Takuju) đã phát triển ra hai dòng thiền chính sau này của tông Lâm Tế. Và đến ngày nay đã có mười bốn chi phái. Mỗi phái có tổ đình riêng, thiền viện biệt lập và các thiền sư đều là hậu duệ của hai dòng Ẩn Sơn và Trác Thiên này.

XII/ ĐỌC KINH LIỄU NGỘ.

Một hôm nhân đọc kinh Pháp Hoa, phẩm Ẩn Dụ, trước đây sư không cho là quan trọng, bỗng nghe tiếng chuông. Thình lình sư hiểu ra diệu nghĩa tinh yếu, các pháp như thị và bất khả phân. Thấu nhập huyền ý của Định trong sinh hoạt hằng ngày, sư bật khóc. Theo Niên Phổ của Đông Lãnh, là đệ tử nối pháp, thì đột biến này là sự dụng công từ nhân thành quả. Đạo quả viên mãn, giờ đây việc phải làm là truyền bá sự chứng ngộ. Bấy giờ là mùa thu năm Bạch Ẩn 42 tuổi.

XIII/ GIẢNG DẠY - ĐỘ ĐỆ TỬ.

Nhiều tăng tục đồng đến chùa Tùng Âm tu dưới sự giáo hóa của Bạch Ẩn. 
Trong những người đầu tiên đến Pháp hội, có một thiếu nữ 16 tuổi tên Satsu. Chỉ sau một thời gian ngắn cô đạt ngộ. Một hôm đang ngồi thiền trên cái rương, cha cô đến bảo:

- Nè! Con có biết đang ngồi ở đâu không? Có tượng Phật trong rương đó!

Cô đáp: - Nếu có chỗ nào không Phật, xin chỉ cho con.

Cha cô rất đỗi kinh ngạc. Hôm khác có vị tăng hỏi:

- Đập bể ngọc trắng trong đống rác là thế nào?

Lập tức cô liệng cái chén đang cầm bể tan tành.

Trong một buổi tham vấn, Bạch Ẩn giải thích một công án cho cô rồi hỏi:

- Hiểu không?

Cô đáp:

- Xin thầy nói lại cho con nghe.

Ngay lúc Bạch Ẩn vừa mở miệng, cô ngắt lời bảo:

- Cám ơn thầy đã nhọc lòng!

Bạch Ẩn choáng váng, hét lên:

- Gớm thật! Con bé miệng còn hôi sữa đã làm ta xiểng niểng!

Chuyện này có kể trong tập Lùm Bụi Gai Góc của Myōki Soseki thuộc thế kỷ XIX.

Trong 15 năm ở chùa Tùng Âm, Sư mở pháp thoại một năm vài lần, giảng kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Lâm Tế Ngữ LụcBích Nham Lục. Những bài giảng này được ấn hành lấy tên Kinh Tòng Độc Thụy. Tăng nicư sĩ cả nước hội tụ về Tùng Âm. Chùa không đáp ứng nổi nhu cầu dù chỉ một số nhỏ học tăng. Phần lớn chúng hội phải kiếm chỗ ở bên ngoài. Họ tập tu và qua đêm ở tư gia hoặc nhà bỏ không, am cốc hay đền thờ hoang phế, hoặc dưới mái hiên trang trại, có người còn cắm dù ngoài trời. Vùng đất mấy dặm chung quanh chùa biến thành trung tâm tu thiền vĩ đại.

Năm 1740, sư giảng Hư Đường Lục, quyển này sư đã nghiên cứu hai mươi năm qua. So với Pháp hội đầu tiên vào năm 1736 chỉ có độ ba mươi người, trong đó có tám vị tăng thường trú, bây giờ đến bốn trăm tăng. Sư lên tiếng về sự suy đồi của tông Lâm Tế. Theo sư, sở dĩ như thế là do các vị thầy đã duyệt công án một cách hình thức, nên đệ tử không đủ phẩm chất, nếu không muốn nói là phóng túng. Sư bảo: “Tôi không bằng lòng những thầy tu như thế. Tôi sẽ xé xác làm nghìn mảnh và nuốt chửng nếu chộp được họ...”

Vài năm sau sư được mời đến chùa Từ Chiếu (Jishō-ji) trong tỉnh Kai để giảng Bát Nhã Tâm Kinh. Về chữ “Bát Nhã”, Sư nói:

Tai điếc, mắt mù,
Ban đêm trong hư không, thân biến mất.

Đến câu “Sắc chẳng khác không”, Sư nói:

Một bát canh thật ngon,
Ôi thôi hai cục cứt chuột!

XIV/ ĐỆ TỬ NỐI PHÁP.

Đạo cao đức trọng của vị thầy thường được đánh giá qua hàng môn đệ. Mặc dù cuộc đời Bạch Ẩn phần lớn trụ trì ở ngôi chùa nhỏ miền quê, nhưng số đệ tử càng ngày càng đông từ thế hệ này đến thế hệ khác trong tông Lâm Tế. Như thế, sư đã hoàn thành tâm nguyện khôi phục dòng thiền công án và được xem là tổ trung hưng thiền Lâm Tế ở Nhật.

Trong hàng đại đệ tử có Đông Lãnh Viên Từ (Tōrei Enji), người viết tiểu sử của Bạch Ẩn và Toại Ông (Suiō), kế vì trụ trì chùa Tùng Âm.

Một đại đệ tử khác là Nga Sơn Từ Trác (Gasan Jitō) có hai môn sinh là Ẩn Sơn (Inzan) và Trác Thiên (Takuju) đã phát triển ra hai dòng thiền chính sau này của tông Lâm Tế, và đến ngày nay đã có mười bốn chi phái. Mỗi phái có tổ đình riêng, thiền viện biệt lập và các thiền sư đều là hậu duệ của hai dòng Ẩn Sơn và Trác Thiên này. Pháp tử của dòng Ẩn Sơn có sắc thái mạnh bạotự nhiên trong khi dòng Trác Thiên nghiêng về sâu kín và êm dịu.

Bạch Ẩn truyền tông yếu cho Đông Lãnh trong một buổi lễ riêng, ngày 25 tháng Chạp năm 1749. Lại nhằm ngày lễ thần Tenjin bảo hộ tuổi Sửu, một ngày trọng đại trong cuộc đời của Bạch Ẩn. Lúc đó Bạch Ẩn 65 tuổi và Đông Lãnh 29 tuổi. Thầy trò đồng tu với nhau bảy năm trời. Số học nhân đến tu thiền tại chùa Tùng Âm ngày càng đông.

XV/ ĐỔI CÔNG ÁN “VÔ” QUA “TIẾNG VỖ MỘT BÀN TAY”.

Dù vẫn hướng dẫn học nhơn tùy theo căn cơ mỗi người, nhưng pháp dạy của Bạch Ẩn đều liên hệ chặt chẽ với công án VÔ của Triệu Châu. Thế nhưng khoảng năm 1748 có một biến chuyển. Bạch Ẩn đã viết trong tập Hoa Mảnh Mai: “... Trong bốn mươi lăm năm chẳng khước từ bè bạn và gia đình, chẳng bỏ rơi dù già hay trẻ, dù sang hay hèn, chỉ mong sao ai cũng đạt đến năng lực thâm nhập đại sự, do đó tôi đều yêu cầu họ tham chữ VÔ. Tôi phải dùng những phương tiện khéo léo để mở đường cho họ. Vài người đã đạt kết quả tùy theo khả năng, và tôi cảm thấy hài lòng. Nhưng từ 5 năm nay tôi dùng phương pháp khác. Tôi bắt mọi người phải nghe TIẾNG VỖ CỦA MỘT BÀN TAY. Việc này khác hẳn cách dạy của tôi trước đây. Học nhân thấy dễ dàng hơn. Sự khác biệt thật là to lớn.”

Cũng trong thư này, Bạch Ẩn có nêu lên lời một thiền sư: “Thiền sinh dòng Lâm Tế và ngay cả dòng Tào Động nhiều người trở về già lại niệm Phật A-di-đà!” Bạch Ẩn nhận xét rằng, phái thiền nào bao biện pháp tu và tín ngưỡng Tịnh Độ tông không chóng thì chày sẽ lụn bại.

XVII/ TỰ NẶN ĐẮP CHÂN DUNG.

“Gương mặt của người thật đặc biệt. Tia mắt nhìn thiên hạ như hổ chúa, bước đi như sơn dương. Sức mạnh siêu quần và rất khó đến gần.” Đông Lãnh đã mô tả thầy mình như thế trong phần cuối quyển Niên Phổ. 
Pho tượng đặt trong chùa Tùng Âm xem như do chính tay Bạch Ẩn nặn lấy chân dung của mình, một con người quả quyếtnăng động. Có lẽ thời đó nhiều Phật tử không có cảm tình với dáng dấp con người này. 
Năm 71 tuổi, Bạch Ẩn tự họa chân dung, kèm theo bài thơ:

Bị ngàn Phật ghét bỏ trong cõi giới ngàn Phật,
Bị ma quỷ tẩy chay trong bọn quỷ ma.
Gã đầu trọc này, đui mù và gớm ghiếc,
Một lần nữa lại hiện lên giấy trắng.
Trời ơi là trời!

Hầu như sau này Bạch Ẩn đều viết lại bài thơ này trên chân dung của mình.
Sau năm 1750, trong thập niên sáu mươi lăm đến bảy mươi lăm tuổi, nét bút của sư có thể nói đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Danh tiếng vang dội, hàng tăng nicư sĩ đều muốn có một bức thư pháp của sư.

XVIII/ TẬP HÀI LÒNG TRONG MỌI HOÀN CẢNH

Bạch Ẩn khi giáo hóa thời nhân không chủ trương thay đổi xã hội phong kiến, mà đặt sứ mệnh của mình hòa điệu với đạo đức Khổng giáo đang ngự trị tại Nhật lúc bấy giờ. Sư cũng khuyên bảo mọi người học Phật, tọa thiền, nhưng vì không phải ai cũng theo nổi kỷ luật hành trì nghiêm túc nên sư khuyên bảo họ tìm cách sống an vui, tập hài lòng trong mọi hoàn cảnh.

XIX/ GIAO CHÙA TÙNG ÂM CHO TOẠI ÔNG

Tháng 7 năm 1764 sư 80 tuổi, không làm trụ trì chùa Tùng Âm nữa, nhường cho đệ tử Toại Ông kế thừa. Toại Ông bốn mươi tuổi, đã sống bên thầy mười tám năm. Nhưng thương thay cho sư vốn rất yêu quý đệ tử, bỗng nhiên tình thầy trò lợt lạt, trắc trở. Lý do không được biết, nhưng rồi Toại Ông rời chùa Tùng Âm ra đi năm 1765 đến chùa Quán Âm (Kannon-ji) cũng ở Hara.

XX/ LÂM BỆNH – NGHỈ DƯỠNG

Sau đó, Bạch Ẩn lâm bệnh. Đông Lãnh đến Edo sửa sang lại am của Chí Đạo Vô Nan (Shidō Bunan) nơi thầy của Huệ Đoan xưa kia đã ẩn tu, xong thỉnh Bạch Ẩn đến. Nhưng tăng chúng chùa Tùng Âm không đồng ý.

Cuối cùng, năm 1766 Đông Lãnh cử một vị tăng tên Enkyō đến Hara thỉnh sư đi Edo (Tokyo). Sư đi kiệu cùng Enkyō đến đèo Hakone thì có bốn vị tăng chùa Tùng Âm đi theo nài nỉtrở về. Enkyō phải giải thích hết lời về lòng hiếu thảo của trò đối với thầy đang cần dưỡng bệnh, bốn vị tăng mới bằng lòng lui gót. Enkyō cùng sư tiếp tục đi Edo.

XXI/ ĐỘ NGA SƠN TỪ TRÁC

Trong năm này Nga Sơn Từ Trác (Gasan Jitō) đến học đạo với Bạch Ẩn tại Edo (nay là Tokyo). Lúc đó Nga Sơn đã bốn mươi tuổi và đã hành khước khắp nước Nhật, tham học hơn ba mươi thiền sư, nhưng không vị nào đáp đúng sở nguyện qua những vấn đáp gay gắt. Do đó, khi gặp Bạch Ẩn, Nga Sơn đã đưa ra một loạt câu hỏi. Ba lần vào thất, ba lần đều bị sư tống ra cửa. Trong tập Lùm Bụi Gai Góc, Nga Sơn đã kể ba lần tham kiến này: “Tôi không màng đến đức độ siêu vĩ của thầy, dù danh vang khắp nước, tôi cũng chẳng để ý. Tôi chẳng quan tâm về tri kiến của thầy vượt bậc chư tiền bối hay đạo sư đương thời. Dù có hàng trăm hàng ngàn tăng ni vây quanh thầy, dù thầy được xem như Phật tái lai thế gian. Đối với tôi chỉ có một việc: Vị đại quốc sư đã đưa tay giơ chân đạp tôi ba lần như trời giáng, xô tôi vào đường cùng, đẩy tôi vào chỗ tận.”

Rồi Nga Sơn ở lại tham học với sư, sau đó với Đông Lãnh. Và chín năm sau khi Bạch Ẩn tịch, Nga Sơn được Đông Lãnh truyền pháp. Dù Đông Lãnh đã tác thành cho Nga Sơn, nhưng lúc nào cũng xem Nga Sơn như đệ tử của thầy mình. Sau này Nga Sơn có hai đệ tử là Ẩn Sơn và Trát Thiên rất nổi tiếng. Con cháu Tông Lâm TếNhật Bản sau này đều là hậu duệ của hai vị này.

XXII/ CUỐI ĐỜI

Đến cuối đời, Sư bệnh yếu nên thường nằm.

Được cung thỉnh đến chùa Long Trạch đón mừng Tết năm 1768, sư nói: “Tôi nay tám mươi bốn tuổi và chưa thấy ngày Tết nào vui như hôm nay, tôi phải cảm ơn Đông Lãnh”. Đông Lãnh dâng lên sư bánh nếp cổ truyền, nhưng sư chỉ dùng được vài miếng.

Tháng 11, Bạch Ẩn trở về chùa Tùng Âm, bệnh tình càng tăng, tứ đại chẳng điều hòa. Mùng 7 tháng Chạp, thầy thuốc ở Cổ Quận bắt mạch thưa rằng: “Mạch yếu chẳng có gì lạ.” Sư quở: “Ta sắp chết, chẳng quá ba ngày, không biết được sao gọi là lương y?”

Mùng 10, sư ủy thác công việc cho Toại Ông, đã được sư cho sám hối. Sư nằm yên trên đệm.

Hừng đông ngày 11, Sư kêu lên tiếng cuối cùng, nghiêng bên phải mà hóa, thọ 84 tuổi, không để lại kệ từ thế như lệ thường của thiền sư. Bạch Ẩn chấm dứt một đời độ sanh trong im lặng. Ngày 15, đưa tiễn, phân tháp ở ba nơi.

Nối pháp có Đông Lãnh Viên Từ, Toại Ông Nguyên Lưu, Nga Sơn Từ Trác, Đại Hưu Huệ Phỏng, Quyết Long, Đông Nham,... hơn bốn mươi người. Hàng đệ tử bạch y chấp lễ khó biết được, Pháp tràng hưng thịnh xưa nay ít có. Thiên Hoàng sắc thụy Thiền sư Thần Cơ Độc Diệu, Quốc sư Chánh Tông. Ngữ lục khắc ở rừng Độc Nhị hơn mười quyển đều lưu hành ở đời.


Thích Tâm Hạnh
(Trụ Trì Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã, Thừa Thiên Huế)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 35335)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19527)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23058)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13265)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5806)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10555)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10289)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 9955)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20755)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6174)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6818)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8841)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 5976)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18106)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6313)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6697)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6521)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12933)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5832)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7842)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10131)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7826)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9811)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9032)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5919)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24479)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36269)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7665)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11468)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 9978)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5202)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5396)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9935)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7831)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9324)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8577)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46363)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6869)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12165)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5759)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14400)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12909)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12344)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14403)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12318)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10918)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9585)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16606)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8431)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5927)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9890)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6343)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11280)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7001)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46563)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13457)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8326)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6832)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9129)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6160)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6868)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17741)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18050)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15685)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6911)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31099)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9542)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7654)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21511)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34081)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33184)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14177)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35539)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 12976)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15738)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13633)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 32912)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41298)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40232)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19998)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33616)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29642)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33697)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18791)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22572)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22317)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48911)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11935)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11138)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22403)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17929)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15066)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15966)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13081)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19653)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12037)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17597)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant