Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 16: Như Áng Mây Bay

24 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 5880)
Chương 16: Như Áng Mây Bay

NHƯ ÁNG MÂY BAY

Cuộc đời của Đại Lão Hòa Thượng
THÍCH ĐÔN HẬU
Đệ tử Tâm Đức phụng sọan
Thất chúng môn đồ ấn hành 2010 USA

QUYỂN NĂM:
CƯ TRẦN LẠC ÐẠO


Chương 16: Như Áng Mây Bay

Ngày 27-3-1992: Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ trở về Sài Gòn.

Ngày 23-4-1992: Vào lúc 20 giờ Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu viên tịch, trụ thế 87 năm, 67 pháp lạp. Nghi lễ Nhập Tháp do Hòa Thượng Huyền Quang soạn, câu đối do Thượng Tọa Tuệ Sỹ sáng tác.

Ngày 2-6-1992: Chính phủ Võ văn Kiệt công bố đã đóng cửa tất cả các trại cải tạo trên toàn quốc.

*

* *

Vào đầu năm 1992 căn bệnh phổi đầy nước tái phát. Bệnh của Hòa Thượng ngày càng trầm trọng. Bác sĩ, y tá, Tăng Ni, Phật Tử ngày đêm săn sóc, nhưng bệnh tình của Hòa Thượng không thuyên giảm. Hòa Thượng viên tịch ngày 21 tháng 3 Âm Lịch.

Tiểu Sử trong trang 72 ghi: “Vào dịp Tết Nguyên Ðán, Hòa Thượng vẫn khỏe khi ngồi tiếp chuyện với chư vị Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Lưỡng Viện đến vấn an và chúc thọ Ngài. Ðến giữa tháng Ba, pháp thể Hòa Thượng khiếm an.

 

Sau một tuần tịnh dưỡng, đúng giữa giờ Thìn, ngày Thân, tháng Thìn, vào lúc 8 giờ tối ngày 21 tháng 3 Âm Lịch, tức ngày 23 tháng 4, 1992, Hòa Thượng xả bỏ báo thân, an nhiên thị tịch. Hòa Thượng trụ thế 87 năm và 67 Pháp Lạp”.

Hòa Thượng đã trụ thế, tu đạo, hành đạo, ra đi Như Áng Mây Bay.

Cuộc đời của Hòa Thượng không khác ngọn gió bay qua khóm tre thân thuộc trong thôn xóm Việt Nam, mát mẻ mà không hệ lụy; không khác con chim nhạn bay qua hồ nước lạnh, không lưu lại bóng hình, thanh thoát không trụ trước, nhẹ nhàng Như Áng Mây Bay. Cuộc đời của Hòa Thượng có thể được diễn tả trong 4 câu thơ:

Phong lai sơ trúc,

Phong khứ nhi trúc bất lưu thanh.

Nhạn quá hàn đàm,

Nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh.

TANG LỄ.

Trước khi viên tịch, Hòa Thượng để lại Lời Di Huấn cho hàng thất chúng đệ tử và Chúc Thư cho thành viên Hội Ðồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Trong Lời Di Huấn, Hòa Thượng lưu ý hàng đệ tử ba điều quan trọng đó là:

1. Sống hòa hợp.

2. Tang lễ tổ chức giản dị theo truyền thống.

3. Sắp xếp chỗ đứng chỗ ngồi của chư Tăng Ni, quan khách theo luật định.

Ba điều này thể hiện một cách cụ thể lối suy nghĩ và hành xử của một nhà tu, vì Hòa Thượng luôn luôn là một nhà tu dù ở hoàn cảnh nào, vị thế nào.

Trong Chúc Thư, Hòa Thượng cũng lưu ý đến ba điều quan trọng:

 

1. Tiếp tục công việc của Giáo Hội đúng theo Hiến Chương của GHPGVNTN.

2. Tổ chức Ðại Hội VIII khi hoàn cảnh cho phép.

3. Quan tâm đến tổ chức Phật Giáo hải ngoại.

Hòa Thượng không quên đặt nặng trọng tâm nếp sống Phật Giáothanh tịnhhòa hợp. Ba điều trong Chúc Thư cũng thể hiện rõ ràng lối suy nghĩ và hành xử của một nhà tu, có trọng trách đối với ngôi nhà Phật Giáo. Và trọng trách ấy cần được thực hiện đúng theo Hiến Chương, đúng theo luật Phật trong thanh tịnhhòa hợp.

Sau khi Hòa Thượng viên tịch, Hội Ðồng Lưỡng Viện và môn đồ đệ tử thành lập Ban Tang Lễ theo lời Di Huấn của Hòa Thượng. Giản dị mà trang nghiêm. Khiêm cung mà cẩn trọng. Hòa Thượng không muốn có những lời tán dương trần thế, vì cuộc đời tu hành, hoằng đạo của Hòa Thượng chỉ hướng vào việc phụng sự Ðạo Pháp, do đó Ban Tang Lễ tuy rất tri ân Ðại Diện chính phủ muốn truy tặng huân chương cho Hòa Thượng nhưng không thể tiếp nhận được.

Vì Ban Tang Lễ không tiếp nhận huân chương do đại diện chính quyền truy tặng nên đã xảy ra sự hiểu lầm khiến cho chư Tăng Ni môn đồ đệ tử ngồi tuyệt thực trước kim quan Hòa Thượng.

Nhưng rồi mọi chuyện đều được dàn xếp thỏa đáng, Nghi Lễ Nhập Quan được tiến hành.

Kim Quan của Hòa Thượng được tôn trí trang nghiêm trong điện Ðịa Tạng cũ tại chùa Linh Mụ suốt 10 ngày. Trong thời gian này, chư Tăng Ni Phật Tử luân phiên tụng niệm.

Hòa Thượng Huyền Quang đã soạn Nghi Dự Tiến để cúng dường, nói lên công hạnh của cố Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu.

blank

Hòa Thượng Trí Ấn Nhật Liên trao Lời Di Huấn của Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống
cho Hòa Thượng Huyền Quang trước kim quan (Tiểu Sử, tr. 35)

blank
Hòa Thượng Huyền Quang, quyền Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo
đảnh lễ kim quan đức Ðệ Tam Tăng Thống (Tiểu Sử, tr. 73)

blank
Tăng Ni môn đồ tuyệt thực trước kim quan (Tiểu Sử, tr. 35)
blank
Chư Ni luân phiên tụng niệm (Tiểu sử, tr. 73)

NGHI DỰ TIẾN.

Cao Tăng Trừng Nguyên Ðôn Hậu, sắc tứ Linh Mụ Ðại Lão Hòa Thượng.

TIẾT THỨ LÀM NGHI.

– Chuông trống Bát Nhã - Cử nhạc khai đàn

Chủ lễ lâm diên - Cử nhạc tham lễ

Chủ lễ niệm hương - Dâng hương - tác lễ

Chủ lễ hạ phủ xích, xướng:

Ðại hạn đến rồi!

Giường hạc an nhiên phút mộng tàn,

Nghìn thu vĩnh biệt nẻo nhân gian.

Pháp âm gió thoảng, hồn ngơ ngác,

Tăng tướng mây bay dạ ngỡ ngàng!

Tuy nhiên:

Ðạo nghiệp một đời ghi đá trắng

Hóa thân muôn thuở ngự hoa vàng

Niết bàn, sinh tử không hai lẽ

Duy nguyên Tôn Sư giáng đạo tràng

Tả bạch xướng: Ðảnh lễ giác linh tam bái

Chủ lễ hạ xích thủ, tuyên dương thân thế, đạo nghiệp:

Kính bạch tân tịch Ðôn Hậu Hòa Thượng giác linh:

Hòa Thượng Người:

Cùng tỏ ngộ lòng thiền, trong cửa Tây Thiên, vâng lời thọ ký

Người khai Phật trí tại chùa Linh Mụ nối nghiệp độ sinh.

Người là: Non nước anh linh, trăng sao tú khí

Ngọc vàng tinh túy, tùng bá kiên cường!

Phật pháp đống lương, tông môn cương kỷ

Tào khê pháp khí, thiếu thất gia trân.

Người đã từ:

Quảng Trị nhà Diệp giáng trần, nhân gian thác chất

Xuân kinh cửa Tùng đầu Phật, thế ngoại thê thần!

 

Lúc thiếu thời, Người:

Ðèn sách chuyên cần, rừng Nho biển Thánh

Bút nghiên kiểu hãnh, cửa Khổng sân Trình

Trau dồi lý thuyết Năm Kinh

Xôi nấu từ chương Bốn Sách

Học tập trí tri vật cách

Thực hành tâm chánh thân tu...

Người thường thao thức:

Không lẽ kiếp sống phù du, nhắm mắt hồn tiêu vĩnh kiếp

Cuộc đời hồ địch, xuôi tay mộng vỡ trường niên?

Biết hỏi ai mở cửa thâm huyền,

Biết nhờ ai chỉ đường diệu ngộ?

Thế rồi Người vào Thuận Hóa,

Tâm Tịnh cầu thầy thế độ,

Tây Thiên xin tổ xuất gia.

Và, từ đó Người sống cuộc đời đạo hạnh:

Thanh tịnh thi la, quang minh bát nhã,

Họ Thích. Người nguyện xây nghiệp cả,

Dòng Thiền, Người mong xây dựng tôn cao!

Người được bổn sư:

Truyền áo phương bào, giữa lúc trăng sao lóng lánh,

Xoa tay viên đảnh, trong khi sương tuyết lạnh lùng!

Bổn sư ân cần chúc dặn:

Trong cửa ta: Ðôn Hậu sau cùng, Trừng Giác Nguyên trước hết,

Làm đạo chớ mỏi mệt, dựng nghiệp phải siêng năng...

Người lên đường tham phương du hóa:

Ðến gõ cửa: Hồng Khê tham vấn Ðại Tăng

Thập Tháp thỉnh cầu Thượng Sĩ

Cơ thiền huyền bí, ý tổ mật nghiêm...

Người đã bao lần chịu gậy (Bảng) dưới thềm

Và, mấy độ nghe la (Hát) trong thất.

Trong cơ sự bất ngờ ấy đã làm cho Người:

Mộng tan nửa giấc, hồn tỉnh một đời

Cơ Thiền diệu ngộ không lời,

Ý Tổ tâm truyền khó nói...

Người đã phát nguyện:

Thuyền từ bể khổ đăng trình,

Xe pháp đường mê thông lộ.

Người đã: Chuyển luân pháp cổ, hàng phục quân ma,

Hiệu triệu pháp loa, hoằng dương Phật đạo.

Khuôn phò tổ quốc, cháu con Vạn Hạnh tiên sinh,

Vận động hòa bình, thầy tổ nhất chi hậu bối.

Ðộ sanh: Người mở mang Phật hội,

Tiếp chúng: Người xây dựng tăng trường.

Cũng có lúc: lụy tiết vấn vương, chim kêu phi tội.

Ðấu tranh đòi hỏi, Người bảo vô công,

Thừa kế Thích Tông, Tăng Thống đại vì chỉ giáo.

Duy trì Thánh Ðạo, Giảo Quyền Phó Viện chủ trì,

Người tượng trưng cho:

Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.

Tỏ lòng thấy tánh, trăng sáng nước trong,

Thanh cao Linh Mụ tổ phong,

Nghiêm túc thiền tôn đại hóa.

Vị tha vô ngã, kiến nghĩa năng vi,

Hưng từ vận bi, dương nhơn bất nhượng.

Cao cả thay, Tòng lâm long tượng,

Quí báu thay, Ðôn Hậu cao tăng!

Chủ lễ hạ thủ xích, cảm thán:

Thế nhưng, việc phải đến đã đến,

Thật vô khả nại hà.

Than ôi:

Ðạo tràng gió tạt từ đăng,

Pháp hội khói tan tuệ cự

Giờ này: Tăng Ni đau buồn khắp xứ.

Thiện tín thương tiếc mọi nơi!

Tòng bá lệ rơi,

Trống chuông buồn trổi...

Chủ lễ hạ phủ xích, tuyên Pháp ngữ:

Kính bạch Tân Tịch Ðại Lão Cao Tăng Giác Linh:

Biết bao giờ nghe thầy hỏi đá: Phật tánh vân hà?

Biết mấy thuở thấy Tổ cầm hoa: Pháp thân như thị!

Như Người đã biết:

Sanh tử, niết bàn bất dị,

Bồ đề, phiền não vô thù.

Chỉ ngậm ngùi: Nhất biệt, thiên thu,

Mong sao được: Tam sinh tái ngộ.

Tả bạch tiến: Kính bạch giác linh tân tịch Hòa Thượng:

Pháp sư vừa cúng dường cam lộ,

Linh giác đã nạp thọ đề hồ.

Giờ này: Giáo đoàn pháp phái hiếu đồ,

Trân trọng thượng hương bái thỉnh:

Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.

Chủ lễ hạ phủ xích, thượng hương sơ thỉnh:

Nam mô nhất tâm phụng thỉnh:

Thạch Liêm tục diệm, Liễu Quán truyền đăng,

biển pháp mạc vận cân bằng, rừng thiền hậu sanh sư tượng.

Hôm nay Pháp tịch, phụng vị:

Sắc tứ quốc tự, Thiên Mụ đường thượng,

nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,

húy thượng Trừng hạ Nguyên,

tân tịch bổn sư, Hòa Thượng Giác Linh, liên đài tọa hạ.

Duy nguyện:

Hương lòng vừa bén, linh giác đã hay,

Pháp tịch vừa bày, nguyện xin chứng giám.

Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...

Chủ lễ hạ phủ xích, thượng hương tái thỉnh:

Nam Mô Nhất Tâm phụng thỉnh:

Xích tâm tôn giả, cầu Phật đại phu,

Ấn tâm chánh thống nghìn thu,

y bát chơn truyền muôn thuở.

Hôm nay Pháp tịch phụng vị:

Tây Thiên đường thượng,

Nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,

Pháp hiệu Ðôn Hậu, pháp sư giác linh, liên đài tọa hạ.

Duy nguyện đài vàng hoa rải, đảnh báu hương xông,

linh giác cảm thông, quang lâm Pháp Hội.

Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...

Chủ lễ hạ phủ xích. Thượng hương tam thỉnh:

Nam Mô Nhất Tâm phụng thỉnh:

Cổ chùy đại sát, lão nạp tổ đình.

Thoại đầu khám phá nghi tình,

công án phát minh tín giải.

Hôm nay Pháp Tịch phụng vị: Thiền tôn tự tổ,

Nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,

Truyền giáo Sa Môn, Bổn sư Giác Linh, liên đài tọa hạ.

Duy nguyện: Thiền sàng an tọa, trượng thất cao cư,

Duy nguyện thùy từ, chứng minh công đức.

Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...

Nam Mô Ðăng Bảo Tọa Bồ Tát.

Tả bạch xướng: Sơ hiếu trà. Lễ tam bái. Ðồng quì.

Chủ lễ hạ phủ xích. Vịnh 1:

Tôn linh báo hiếu lễ nghiêm trang,

Duy nguyện tôn sư giáng đạo tràng.

Lễ nhạc hương hoa dâng cúng dưỡng,

Cúi đầu đảnh lễ trước tôn nhan.

Kệ trà:

Tôn nhan ngôi sư tượng,

Tướng hảo vẫn huy hoàng.

Dâng hương hoa cúng dưỡng,

Cúi lễ trước linh sàng.

Chủ lễ tuyên sớ:

Nguy nguy Tăng tướng,

Trạo trạo uy quang,

Thiên thượng nhân gian,

Tùy duyên ứng cúng.

Nay có hiếu chúng,

Thiết lễ an linh,

Tỏ tấc hiếu tình,

Sớ văn bái bạch.

Duy nguyện tôn sư cảm cách,

Từ bi túc đại chứng minh.

Tuyên đọc văn sớ:

Kính bạch Linh Mụ Tân Tịch Hòa Thượng Giác Linh:

Chúng con cung kính nghe rằng:

Ðại Phật xuất sinh,

Tự có ngày niết bàn an nghỉ.

Cao Tăng nhập diệt,

Há không dịp đền đáp thâm ân?

Sự ấy rất cần,

Lý đâu lại chấp.

Sớ rằng: Nay có Tỳ Kheo, hiếu đồ Thích Nhật Liên,

Cùng bốn chúng Tăng Ni, mười phương thiện tín,

thuộc các tổ đình Thiền Tôn, Tây Thiên, Linh Mụ...

ở cố đô Huế.

Giờ này cung kính quì trước tổ đình,

chí thành dâng lên Sư Tọa:

Tâm Hoa Bát Nhã, đạo vị Thiên Trù,

Thanh tịnh trai tu, thiền duyệt pháp hỷ.

Ngõ đền ơn khai thị, hầu tỏ dạ tiếc thương.

Hiếu tĩnh hương phẩm cúng dường, linh giác ái liêm chứng giám.

Chúng con tự nghĩ: Tôn sư Người,

Pháp thân diệu trạm, Phật tính Trừng Thanh,

Thuyết pháp độ sanh, tham thiền kiến tánh.

Non thần viên đảnh, nghe nhiều thấy rộng phẩm cao,

Ruộng phước phương bào, giống Thánh hạt lành giá quí.

Người là: Trần lưu đạo sĩ, tịch tịnh thiền tăng.

Than ôi:

 

Ðau lòng trước cảnh sơn băng,

Xót dạ trong tình hà ẩm?

Rồi đây: Áo não khói mờ màu giáo phẩm,

Gậy giày mưa xóa dấu (gót) Tăng quan!

Giờ thì: Tịch mịch thiền sàng, cô liêu linh tọa!

Từ nay: Ai phò cơ cao nghiệp cả?

Ai truyền diệu kệ chơn thuyên?

Hải hà đức lớn khó đền,

Khe hát lòng hèn nào bổ.

Thổn thức vì: Song lâm thiên cổ,

Nghẹn ngào vì: Chính lý nhất triêu.

Nay thời: Pháp tịch lâm triều, tang nghi cập nhật.

Cẩn cụ sớ văn tuân thức, hòa nam bái bạch xin nghe:

Nam Mô Sắc Tứ Quốc Tự, Thiền Tôn tổ đình,

Linh Mụ Tự Tổ, Tân Tịch Cao Tăng Ðôn Hậu

Sa Môn Hòa Thượng Giác Linh tác đại chứng minh.

Phục nguyện: Một tánh linh minh,

Tây phương trực vãng,

Ba thân viên mãn,

chánh giác vị thành.

Chứng pháp nhẫn vô sanh,

ngộ chân thừa đại định.

Mong Phật thọ mệnh,

ứng hóa độ sanh.

Cẩn sớ.

Tả bạch xướng: Hiến trà. Lễ tam bái. Ðồng quì.

Chủ lễ hạ phủ xích. Vịnh 2:

Sắc hương mỹ vị y hồ soạn,

thành kính dâng lên trước bảo đài.

Một bát hòa la đầy đạo vị,

Cúng dường Hòa Thượng Sứ Như Lai.

Kệ trà:

Như Lai, người sứ giả,

Ứng cúng khắp mười phương.

Một bát y hồ soạn,

Xin thành kính cúng dường.

Mỹ Hương Trai Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tả bạch xướng: Phụng thực.

Tụng: Cúng dường thanh tịnh Pháp Thân...

Tả bạch xướng: Chung hiến trà. Lễ tam bái. Hồ quì.

Chủ lễ rung linh. Vịnh 3:

Người từ đâu đến, đi về đâu?

Ðạo lý vô sanh quá nhiệm mầu.

Ðến chẳng tằng sanh, đi chẳng diệt,

Ðến, đi, dấu tích khó tìm cầu.

Kệ trà:

Tìm cầu chi dấu vết,

Chẳng đến cũng chẳng đi.

Lý vô sanh đã nêu rõ,

Ði, đến hỏi làm gì?

Tụng: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh...

Chủ lễ hạ phủ xích: Hồi hướng:

Vừa rồi bao nhiêu công đức, bấy hương hoa,

Thành kính thiết tha nguyện cúng dường.

Linh Mụ phương trượng giác linh tọa,

Duy nguyện ai liêm, thùy từ minh chứng.

Cúi mong Người hãy dùng thần thông cảm ứng,

Diệu dụng thiêng liêng.

Gia hộ cho:

Thanh tịnh nhà thiền, trang nghiêm chốn tổ,

Trong sáng tôn phong Linh Mụ,

Vàng son Tổ ấn thiền tôn,

Ðạo pháp trường tồn, núi sông vĩnh điện.

Và mong được, sống thời:

Nghe pháp dưới sân Tiêu Diễn,

Tham thiền trong thất thần quang.

Nối dòng lịch sử vẻ vang,

Noi dấu ông cha rạng rỡ.

Trúc Lâm muôn thuở,

Yên Tử nghìn thu.

Tăng Ni thực học chân tu,

Thiện tín xây đời giữ đạo

Tôn thờ Tam Bảo,

Ðền đáp Tứ Ân.

Ðồng hòa: Nam Mô A Di Ðà Phật.

Chủ lễ hạ phủ xích. Tán lưu:

Ðại Tăng tang sự rất trang nghiêm,

Long vị, thiền sàng đã tạm yên.

Nghi trượng thiền môn còn tiếp diễn,

Xin Người an nghỉ tại Linh Sàng.

Linh Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Chủ lễ phủ xích. Kết diện, xướng:

An linh lễ tất,

Hiếu sự sơ thành.

Chuông trống hòa thanh,

Lễ từ ba lạy. Lễ chung.

LỄ NHẬP THÁP.

Lễ cung nghinh kim quan của Hòa Thượng nhập bảo tháp được tổ chức trọng thểtrang nghiêm vào đúng giữa giờ Mão, ngày Mồng Một tháng Tư Âm Lịch, vào lúc 6 giờ sáng ngày 3 tháng 5 Dương Lịch.

Tham dự Lễ Nhập Tháp có đầy đủ chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Lưỡng Viện Giáo Hội PGVNTN, cùng chư Hòa Thượng, Thượng Tọa đại diện các Miền, Tỉnh, Quận.

Ngoài ra còn có sự hiện diện của chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Chứng Minh, Hội Ðồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, phái đoàn Ðại diện Hội Ðồng Chính Phủ, Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ban Tôn Giáo, đại diện Bộ Văn Hóa Thông Tin, phái đoàn Tỉnh Ðảng Bộ Ðảng Cọng Sản Việt Nam tỉnh Thừa Thiên, Huế, phái đoàn Tỉnh Bộ Ðảng Cọng Sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị, phái đoàn đại diện các cơ quan, đoàn thể chuyên nghiệp công tư, cùng hàng vạn tín đồ Phật Tử, hàng nghìn Huynh Trưởng, Ðoàn Sinh Gia Ðình Phật Tử Thừa Thiên, Huế

Bảo Tháp của Hòa Thượng được xây dựng phía sau điện thờ Ðức Quán Thế Âm, trong khuôn viên chùa Linh Mụ.

Kiến trúc ngôi bảo tháp thể hiện được đường nét đặc trưng về sự đơn sơ và giản dị nhưng không thiếu phần mỹ thuật đúng y theo Lời Di Huấn của Hòa Thượng.

Thượng tọa Tuệ Sỹ mô tả cuộc đời Hòa Thượng Linh Mụ trong hai câu đối:

blank

Lễ Nhập Tháp (Tiểu Sử, tr. 41)

Thiên chu mê vụ, cử trạo kích kinh đào,

thanh đoạn cửu thiên, trường xướng vô sanh vô ngã.

Kiều mộc tằng nham, phất vân khuy hạo nguyệt,

ảnh phù không dã, thùy tri tức vọng tức chân.

Thượng Tọa dịch ra chữ Việt bằng văn vần:

Thuyền con giữa chốn mịt mù,

vung chèo cỡi sóng, đêm thu bão bùng.

Lời ca vang chín từng không,

diễn lời kệ ngọc vô sinh nhiệm mầu.

Cây cao trên đỉnh ngút ngàn,

xé mây lóa ánh trăng vàng mát trong.

Bóng cây tỏa khắp ruộng đồng,

ai hay tâm vật sắc không là gì.

blank

Hòa Thượng Thiện Hạnh thay mặt Ban Tang Lễ
đọc lời cảm tạ quan khách sau Lễ Nhập Tháp.
(Từ phải sang trái: Ô. Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ô. Vũ Thắng, Bí Thư Tỉnh Ủy Thừa Thiên, Huế,
Ô. Nguyễn Chính, Phó Ban Tôn Giáo Chính Phủ. (Tiểu Sử, tr. 75)

Trong Light of Asia (Ánh Sáng Á Châu) thi sĩ người Anh Edwin Arnold bằng lời thơ bóng bẩy đơn sơ, như bức tranh thủy mạc, diễn tả Phật nhập Niết Bàn, gọn ghẽ trong bốn giòng thơ ngắn:

He is one with Life

Yet lives not. He is blest, ceasing to be

Om Mani Padme, Om! The Dewdrop slips

Into the shining sea!

Tôi tạm dịch:

Người và Nguồn Sống biến thành nhất thể

Cuộc đời nhân thế đâu người trải qua.

Người xa sinh tử Ba Tà, đi vào tịch tịnh hư vô Niết Bàn

Úm Ma Ni Bát Mê Hồng! Giọt sương tan biến đại dương sáng ngời.

Cuộc đời của Hòa Thượng

“Phong lai sơ trúc,

Phong khứ nhi trúc bất lưu thanh.

Nhạn quá hàn đàm,

Nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh!”

Hòa Thượng Thích Huyền Quang trong Nghi Dự Tiến diễn đạt:

Người từ đâu đến, đi về đâu?

Ðạo lý Vô Sanh quá nhiệm mầu

Ðến chẳng từng sanh, đi chẳng diệt

Ðến, đi, dấu tích khó tìm cầu...

“Tứ đại đã về không, nhưng Pháp ÂmPháp Thân của Hòa Thượng vẫn bất diệt giữa dòng đời sinh diệt.”

Với quần chúng Phật tử Mông Cổ, Hòa Thượng được ngưỡng mộ như bậc Thánh. Với hàng Phật Tử Việt Nam, Hòa Thượng được kính trọng như vị tôn sư. Với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng là Ðức Ðệ Tam Tăng Thống, nhưng với hàng thất chúng môn đồ đệ tử, Hòa ThượngSư Phụ trong Gia Ðình Ðạo, là Ôn sống mãi trong lòng những người đệ tử thân thuộc, trong lòng con cháu của Ôn. Và một ngày nào đó, như lòng mong ước, những người đệ tử của Ôn sẽ gặp lại Ôn bên kia trời Tây, nơi thế giới Cực Lạc vô sinh vô tử, mãi mãi cùng Ôn không xa cách!

Ôn ra đi, để lại Ngôi Nhà Phật Giáo, cũng như Ngôi Nhà Việt Nam, tuy đã được kết hợp, nhưng vẫn còn nhiều hàng rào phân cách. Không biết khi nào, như ông Hồ Sĩ Khuê đã đặt câu hỏi: “Người bên này, người bên kia chiến tuyến, chịu tháo gỡ các hàng rào ý hệ, xé nát khẩu hiệu, bích chương, cùng mở lối cho nhau về lại Ngôi Nhà của ông cha?” (Hồ Sĩ Khuê: HCM, NÐD, và MTGP tr. 442)

Tiếng Ôn vọng lại từ Áng Mây Bay: “Tất cả chỉ là huyễn vọng. Ngày nào con người còn chấp trước, còn thị phi, thì không làm sao có thể nhìn mặt nhau, không làm sao tìm được cái an lành, êm ả, cái không khí thân tình của Ngôi Nhà do tổ tiên để lại...”

Nam Mô Tôn Sư Bồ Tát, Ân Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.

blank
Bảo Tháp của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu trong khuôn viên chùa Linh Mụ, Huế (2010)
blank
Con cháu của Ôn quanh quẩn bên Ôn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24497)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13773)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13179)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22060)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19076)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11913)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13044)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15193)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10541)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10130)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9849)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27427)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17844)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25161)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34662)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19070)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9006)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9009)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9453)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9139)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11796)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18524)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8784)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10667)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10958)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28004)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17879)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14410)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13207)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15538)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7601)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17051)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8396)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30723)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant