Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giáo hóa Chúng sinh

25 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8332)
Giáo hóa Chúng sinh


Giáo hóa Chúng sinh

Trải qua những gian khổ, với nghị lực mãnh liệt Rinpoche đã hoàn tất những thực hành tịnh hóa chuẩn bị, và những thực hành chính của các thiền định phát triển và thành tựu. Tiếng tăm về sự thành tựu của ngài lan truyền khắp nơi. Đối với Rinpoche, sống trong những sơn thất cô tịch là lối sốngý nghĩa nhất, và ngài sung sướng được tiếp tục sống trong núi non và thiền định trong phần còn lại của đời mình. Sau khi Kalu Rinpoche trải qua mười hai năm thiền định theo cách này, các Lạt ma của ngài thấy rằng nếu ngài trở về và giảng dạy Giáo Pháp thì sẽ hết sức lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Và cuối cùng, những khẩn cầu từ Tai-Situ Padma Wangchuk và Norbu Dondrub đã thúc đẩy ngài rời khỏi ẩn thất. Theo lệnh của Situ Rinpoche, ngài được chỉ địnhĐạo sư của Trung tâm nhập thất ba năm của Jamgong Kongtrul Rinpoche tại Tu viện Pepung (Palpung), ở đó trong nhiều năm ngài liên tục ban những quán đảnh làm thuần thục, những giáo lý giải thoát, và thẩm quyền cần thiết để tụng đọc Kinh điển, và đã đào tạo được nhiều đệ tử thành tựu

Sau khi hai khóa nhập thất đã hoàn tất dưới sự hướng dẫn của Rinpoche, ngài khẩn cầu Tai Situ Rinpoche và Palden Khyentse Ozer cho phép thực hiện một chuyến hành hương tới Lhasa. Ngài ước muốn được du hành như một hành khất, tự mang thực phẩm và quần áo của mình, nhưng Tai Situ Rinpoche phản đối và nói: “Ngài giống như viên ngọc quý của tôi,” và dâng cho Rinpoche nhiều bò yak cùng những người phục vụ. Tuy nhiên, Kalu Rinpoche chỉ nhận nửa số bò yak và chỉ có người em và một tu sĩ cùng đi với ngài. 

Rinpoche đi hành hương tới xứ U, miền Trung Tây Tạng. Cùng lúc đó, Situ Rinpoche Pema Ongchuk Gyalpo tới chỗ hành hương. Theo lệnh của Situ Rinpoche, Rinpoche đã giảng dạy toàn bộ Sáu Giáo lý làm thuần thụcgiải thoát của Niguma của Shangpa Kagyu cho vị Trì Minh Vương hóa thân vĩ đại phái Gelug là Kar Dor Rinpoche, và cho Lhatsun Rinpoche và nhiều geshe Gelugpa khác. Từ những vị này ngài nhận những vật cúng dường to lớn được tạo nên bởi lòng tôn kính vô biên. Tại Điện Jokhang ở Lhasa, Rinpoche đã dâng những vật cúng dường bằng vàng trước pho tượng Jowo (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mười hai tuổi) , và tụng rất nhiều lời nguyện “Thiện Hạnh”. Tại Lhasa, Kalu Rinpoche tổ chức việc xây dựng lại một vài thánh địa Shangpa đã bị phá hủy và ban những nhập môn Dòng Shangpa và các giáo lý cho nhiều Geshe, Lạt ma và Tulku. Trong khi viếng thăm Tu viện Tsurphu, ngài dâng cúng mọi thứ ngài có cho Đức Gyalwang Karmapa thứ Mười Sáu Rangjung Rikpay Dorje. Vị Thầy vĩ đại này đã thừa nhận Kalu Rinpoche là hiện thân hoạt động của Jamgon Kongtrul Lodro Thaye.

Trong chuyến hành hương, khi ngài đang đi nhiễu những thánh địa ở U, Tsang, và Ru-shi, Rinpoche ở nhà của một thí chủ giàu có tại miền Kyangtsi. Trong một giấc mơ, một thiếu niên có nước da trắng hiện ra trước ngài và nói với vẻ buồn rầu rằng cậu là Khyungpo Tsultrim Gonpo, nhưng trong Thời đại Tối ám này cậu không thể làm lợi lạc cho giáo lýchúng sinh. Rinpoche mơ thấy rằng trong y áo của chính ngài có một lưỡi dao tigug và một cái chén sọ người. Ngài lấy những món này cho cậu bé, và nói: “Nếu ngài không rời những vật dụng này, ngài sẽ thành tựu mục đích của ngài. Ngài đừng lo.” Sáng hôm sau ngài nhìn thấy một cậu con trai của gia đình giống hệt thiếu niên trong giấc mộng. Rinpoche nói với cha mẹ cậu rằng không còn nghi ngờ gì nữa, thiếu niên này là một hiện thể linh thánh và cậu cần được đối xử hết sức trân trọng và được đi vào cửa Pháp. Cha mẹ cậu rất vui lòng và Rinpoche thụ phong cho cậu bé đồng thời ban cho cậu những quán đảnh.

Trong khi ở tại trụ sở của Jetsun Taranata, Gadon Puntso Ling ở Tsang Lha Tser, Rinpoche đã ban cho tập hội vĩ đại các tu sĩ toàn bộ những quán đảnh, giáo lý, và thẩm quyền tụng đọc Kinh điển đối với Sáu Giáo lý của Niguma. Các tu sĩ dâng lên ngài những vật cúng dường to lớn.

Khi Rinpoche ở Lhasa, dường như Radreng Trichen và nhiều người khác muốn thỉnh cầu ngài ban những giáo lý tâm linh sâu xa nhưng Situ Rinpoche bảo tốt hơn ngài đừng nên ở đó. Theo lời khuyên này, Rinpoche khởi hành cùng sứ giả của Situ Rinpoche và trở về Kham.

Rinpoche đã thực hiện một trăm triệu lần trì tụng thần chú Mahakala Sáu-Tay. Và đồng thời, trên ba trăm ngàn lần trì tụng lời nguyện “Thiện Hạnh Cao quý” đã được thực hiện, bao gồm những câu do chính Rinpoche tụng và số lần trì tụng do ngài bảo trợ với những vật cúng dường. Thật là những công hạnh kỳ diệu!

Những hiện thể linh thánh thành tựu việc làm lợi lạc cho Giáo lýchúng sinh bằng ba chu trình: chu trình đọc, nghe và suy tưởng; chu trình hoàn toàn tập trung (thiền định); và chu trình hoạt động. Một phần nhỏ những chu trình của Rinpoche chúng ta đã giảng rõ ở đây. Vì vậy chúng ta biết rằng những chứng ngộ và thấu suốt của ngài thì không thể nghĩ bàn. Nhưng là một “yogi lặng lẽ”. ngài đã giữ bí mật thiền định của ngài, và chúng ta không được thấy hay nghe những bí mật này. Tuy nhiên chúng ta biết rằng ở đâu có khói thì nơi đó có lửa, và ở đâu có hơi ẩm thì nơi đó có nước.

Trong một giấc mơ Rinpoche gặp Đức Phật và tám đệ tử thân thiết của Ngài, và mơ thấy ngài dâng cúng Lời Cầu Nguyện Bảy Chi. Một lần nữa trong một giấc mơ, bản thân Rinpoche biến thành Urgyen Guru Rinpoche (Đức Liên Hoa Sanh), và từ mười hai thiên nữ tsan-ma và những Dakini khác ngài đã nhận những vật cúng dường âm nhạc là những bài ca ngọt ngào và những lời cầu nguyện.

Trong giấc mơ khác, ngài gặp Jamgong Kongtrul đời trước. Vị Thầy này sử dụng chuông, trống, ban đầy đủ bốn quán đảnh, và cuối cùng tan vào ánh sáng và thấm nhập vào Rinpoche. Trong giấc mơ khác, ngài gặp Đức Tara Linh thánh và nghe nhiều lời tiên tri từ vị này. Trong một trường hợp khác ngài thấu hiểu giấc mơ và nhìn thấy một vũ điệu trong những cõi trời và nghe bài ca này:

Sinh trong miền Hor thượng,
Rồi nhờ kinh nghiệm thiền định
Thành tựu tiêu đích của Maha-Ati,
Cuối cùng tại nơi viên tịch
Tạ thế tại Samyes, Thị trấn Cát,
Sau đó lại tái sinh
Giữa Do-Kham và Kongbu,
Sinh ra là con trai một người hành khất.
Làm thuần thụcgiải thoát nhiều chúng sinh
Rồi từ giã cõi đời đó
Sinh trong một hoa sen
Trong Cõi Tịnh Độ Tây phương,
Không còn sinh trong Luân hồi Sinh tử.

Bởi chu trình hoạt động của ngài, Rinpoche xây dựng lại thiền đường cổ kính của Jamgon Kongtrul tại Pepung thành một công trình kiến trúc hảo hạng, làm mới những vòm và màn trướng thêu kim tuyến, những chiếc lọng và cờ chiến thắng. Ngài bỏ rất nhiều tiền của vào quỹ để duy trì việc nhập thất cho các tu sĩ. Để giúp Situ Rinpoche xây dựng một hình tượng Đức Di Lặc và những hình ảnh khác cho ngôi chùa của các ngài, Rinpoche đã du hành khắp xứ Hor để gây quỹ và thực hiện những lễ cúng dường gấm thêu kim tuyến, tiền và nhiều bao hạt. 

Trong khi ở Tây Tạng, dù ở đâu ngài cũng tạo lập hàng ngàn viên đá mani, các chorten, tsa-tsa (2) và những bánh xe cầu nguyện to lớn. Ngài không dính mắc vào của cải của riêng ngài.

Khi nhiều người Tây Tạng trốn thoát sang Ấn Độ, ngài thiết lập hai thiền đường ở Bhutan. Ngài đã thiết lập năm trung tâm thiền địnhẤn Độ. Sau đó tại Sonada ngài giảng dạy ba cuộc nhập thất liên tiếp tại thiền đường của ngài. Năm 1971, lần đầu tiên ngài tới Tây phương. Ngài đã thiết lập Naro Ling và Nigu Ling tại Pháp và bắt đầu mở ra cánh cửa dẫn tới sự thành tựu Mật thừa tại hải ngoại. Ngài đã viếng thăm vài quốc gia ở Châu Âu kể cả Vatican, nơi ngài được diện kiến Đức Giáo Hoàng John Paul I. Năm 1976, ngài thực hiện chuyến du hành thứ ba để xây dựng và bắt đầu khóa nhập thất ba năm cho các đệ tử Tây phương của ngài. Năm 1980 ngài trở lại Pháp để chấm dứt khóa nhập thất và bắt đầu khóa thứ hai. Ngài cũng ban quán đảnh Kalacakra tại Paris. Đây là lần đầu tiên quán đảnh này được ban tại Châu Âu. Ngài đã du hành khắp thế giới, mang Giáo lý của Đấng Chiến Thắng tới các quốc gia: Do Thái, Thụy Sỹ, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Đức, Hòa Lan, Bỉ, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Canada, Hawaii, và những quốc gia ở Viễn Đông bao gồm Miến Điện, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, và Nhật Bản. Tại các nước Châu Âu, ngài đã thành lập khoảng bảy mươi trung tâm Pháp và nhiều người có thiện duyên đã nhận được từ ngài ba loại thọ giới (1) và Giáo lý của Đức Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17581)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24366)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25876)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13710)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13140)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 21914)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19012)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9965)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11867)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 12998)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15120)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10500)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21697)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10075)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9816)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9723)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10162)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27201)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17775)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13147)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 24953)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34516)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26685)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 18955)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 8974)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13024)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8962)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9421)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9088)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11750)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18468)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8741)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10628)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10893)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27905)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17835)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14368)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16322)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13164)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15413)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14631)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7536)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 16917)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8332)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30599)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant