Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Stcherbatsky, một nhà Phật học lỗi lạc

10 Tháng Chín 201609:17(Xem: 6446)
Stcherbatsky, một nhà Phật học lỗi lạc

STCHERBATSKY,
MỘT NHÀ PHẬT HỌC LỖI LẠC
Nguyễn Văn Nhật

 

Theodore StcherbatskyTheo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng... Vào thế kỷ thứ XVII, phong trào di cư của các sắc dân Kalmyk và Buriat đến các vùng hạ lưu sông Don và hồ Baikal đã đóng góp cho xứ Nga những khối người vốn đa sốPhật tử thuần thành. Tuy sống đời du mục nhưng các tộc người này có một trình độ tâm linh phát triển. Họ đã xây dựng chùa-tháp để thờ Phật ở vùng mới định cư, và thực hành đời sống tôn giáo rất tinh cần. Cùng thời gian đó, nhà nước phong kiến Nga cũng quan tâm đến nền văn hóa phương Đông, đã thành lập các định chế nghiên cứu về phương Đông. Các sự kiện trên khiến người Nga chú tâm đến Phật giáo và sớm có được nhiều kiến thức về Phật học. Nhiều học giả Nga đã tìm hiểu Phật giáotrở thành nổi tiếng. Một trong những học giả ấy là Theodor (Fyodor) Ippolitovich Stcherbatsky.

Theodor Stcherbatsky (19.9.1866-18.31942) sinh trưởng trong một gia đình quý tộc Nga. Thời tuổi trẻ, ông theo học tại trường (trung học) Tsarskoye Selo Lyceum gần St Petersburg. Sau khi hoàn tất học trình vào năm 1884, ông được tiếp nhận vào khoa Triết học-Lịch sử của Viện Đại học St Petersburg. Tại đây, ông nghiên cứu về ngữ họcngôn ngữ Sanskrit. Hướng dẫn ông là các Giáo sư Ivan Minayev và Sergey Oldenburg; sau này, ông và Oldenburg đã có những liên lạc mật thiết về học thuật. Năm 1889, Stcherbatsky tốt nghiệp Đại học với hạng tối ưu, được công nhận học vị Tiến sĩ, và được đề nghị giữ lại trường để chuẩn bị đảm nhận vai trò giáo sư của ngành Ấn Độ học.

Tuy nhiên, ngay sau đó, ông được gửi sang Vienna để mở rộng khả năng học thuật. Tại Vienna, dưới dự hướng dẫn của các Giáo sư Georg Buhler và Max Muller ông tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ Sanskrit, về văn phạm của Panini, về luật của Dharmashastra, về triết học Ấn Độ, và về thơ ca Ấn Độ cổ. Tập luận văn Lý thuyết về thơ ca Ấn Độ được ông thực hiện để kết thúc học trình tại Vienna đã làm ông được nhiều học giả thuộc ngành Đông phương học khác biết tới.

Năm 1893, Stcherbatsky về Nga khi đã nổi tiếng là một chuyên gia về ngôn ngữ Sanskrit và thơ ca Ấn Độ. Tuy nhiên, nhiều năm sau đó ông bận tham gia vào một số đề án xã hội với tư cách đại biểu của giới quý tộc nên không có một hoạt động học thuật nào. Mãi đến năm 1899, sau khi tham dự Hội nghị Quốc tế Nghiên cứu Đông phương lần thứ XII ở Rome, ông mới trở lại với hoạt động nghiên cứu Ấn Độ học. Hội nghị Rome năm 1899 có vai trò quan trọng trong việc phát triển việc nghiên cứu Ấn ĐộPhật giáo trên khắp thế giới. Tại hội nghị, các báo cáo trình bày về việc phát kiến những sản phẩm độc đáo thuộc nền văn hóa Phật giáo được tìm thấy ở các ốc đảo trong vùng Tarim, chẳng hạn những tác phẩm nghệ thuật và những mảnh thủ bản kinh điển Phật giáo viết bằng tiếng Sanskrit hay tiếng Tây Tạng, đã gây nên một sự quan tâm mạnh mẽ của các học giả trong việc nghiên cứu Phật giáo Bắc tông. Sau Hội nghị, Stcherbatsky đến Bonn tiếp tục tìm hiểu về triết học Phật giáo với Giáo sư Hermann Jakobi. Cuộc nghiên cứu của ông tại đây mang lại cho ông những kiến thức vững vàng về cấu trúc và văn phong của những bản chuyên luận có tính cách triết học.

Năm1900, ông trở về Nga và bắt đầu giảng dạy tại ngành ngôn ngữ Sanskrit, khoa Ngôn ngữ Đông phương Viện Đại học St Petersburg, kế nghiệp giáo sư Oldenburg. Ngoài ra, trong đầu thập niên 1920, ông cũng mở một số lớp chuyên môn tại Viện Ngôn ngữ Phương đông Hiện đại ở Leningrad.

Công trình đầu tiên của ông là dịch thuật, phân tích, và chú giảihệ thống các tác phẩm nói về luận lý học Phật giáo viết bằng tiếng Sanskrit do Tôn giả Dharmakirti (Pháp Xứng), một luận sư Ấn Độ nổi tiếng, sống vào khoảng thế kỷ thứ VII, trước tác. Công trình này, có tên là Lý thuyết về Tri thức và Luận lý, theo Quan điểm của các Phật tử Hậu kỳ, được xuất bản thành hai tập ở Nga trong khoảng các năm 1903-1905. Ông đã sử dụng công trình ấy làm tài liệu căn bản cho tác phẩm chính của ông, Luận lý học Phật giáo, về sau được coi là một cột mốc quan trọng trong lịch sử tìm hiểu Phật học.

Năm 1903, ông được bầu vào làm thành viên của Ủy ban Nghiên cứu về Trung và Đông Á do hai học giả Vassili Radlow và Sergey Oldenburg lãnh đạo. Mùa Xuân năm 1905, ông được mời đến Urga, nơi vị Đạt-lai Lạt-ma đời thứ XIII (ngài Thubten Gyatso) đang lưu lại tại đó. Ông có may mắn được tiếp kiến vị lãnh đạo Phật giáo này và đã được ngài chuẩn thuận cho phép ông đưa một phái đoàn học giả Nga đến tìm hiểu Phật giáo Tây Tạng. Rất tiếc, Bộ trưởng Ngoại giao Nga lúc bấy giờ đã bác thỉnh cầu của ông, vì thế người Nga đã bỏ qua một cơ hội độc đáo để đến được Tây Tạng, vùng đất bấy giờ còn nhiều bí ẩn đối với thế giới. Ở một chừng mức nào đó, về sau, chương trình này của Stcherbatsky đã được thực hiện bởi Baradyin, một người học trò của ông. Trong các năm 1905-1907, Baradyin đã có điều kiện đến viếng các tu viện Kumbum và Labrang thuộc Amdo (Tây Tạng); chương trình này được vạch ra bởi Stcherbatsky và Oldenburg; và cuộc thăm viếng này đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành nghiên cứu Phật học ở Nga. Thật vậy, Baradiyn có mang về Petersburg khoảng 200 quyển sách là những tác phẩm quý hiếm của Tây TạngMông Cổ đã được xuất bản tại Amdo, cùng với các bộ sưu tập khác về nghệ thuật Phật giáo và về dân tộc học.

Việc tìm hiểu sâu về triết học Phật giáo đã đưa Stcherbatsly đến Ấn Độ, cái nôi Phật giáo. Trong các năm 1910 và 1911, ông được Ủy ban Nga đưa đến Ấn để làm việc. Thời gian ông lưu lại Bombay đã có những kết quả đáng kể. Ông đã vận động để có được bảng danh mục của thư viện thuộc về một học giả vĩ đại thuộc Kỳ-na giáo, ngài Hemacandra. Ông rất quan tâm đến di sản văn học Kỳ-na giáo vì giáo phái này từng nghiên cứu rất cẩn thận và viết những bình luận chi tiết về những chuyên luận Phật giáo suốt thời kỳ Phật giáo phát triển rực rỡ trên đất Ấn. Ông có đủ may mắn để gặp được một trong những vị học giả địa phương chuyên về Ấn Độ học, đã giúp ông nghiên cứu những chuyên luận triết học. Nhờ vậy, ông đã đọc tất cả những bản chuyên luận chính của học phái Nyaya và dịch một số trong những bản văn ấy ra tiếng Anh. Sau đó, ông di chuyển tới Pune và đến thăm trường Cao đẳng Deccan nơi ông đã sao chụp được hai thủ bản thuộc thế kỷ XIII được viết bởi triết gia nổi tiếng Udayana. Tại Benares, ông chuyên tâm nghiên cứu về học phái Mimamsa. Đầu tháng mười năm 1910 ông đến viếng Darjeeling. Tại đây, ông gặp lại đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIII và được ngài mời đến Tây Tạng để sao chép một số thủ bản Sanskrit lúc ấy được lưu trữ tại Lhasa và gần Kailash. Tuy nhiên, nhà cầm quyền Trung Hoa đã ngăn cản, không cho phép vị học giả Nga vào Tây Tạng.

Ý nghĩa chuyến đi Ấn Độ của Stcherbatsky thật lớn lao. Chuyến đi đã thu hút ông vào với truyền thống truyền khẩu sống động mà không có những kiến thức liên quan tới truyền thông đó thì mọi nghiên cứu nghiêm túc về các văn bản tôn giáo và triết học Ấn Độ hầu như không thể nào thực hiện được. Trong ý nghĩa này, ông thực sự đi theo con đường của người thầy của mình, Giáo sư Minayev, người đã dành nhiều năm để di chuyển xuyên suốt các xứ Ấn Độ, Tích Lan và Miến Điện. Chuyến viếng thăm Ấn Độ đã củng cố lòng hâm mộ của Stcherbatsky đối với di sản tâm linh của xứ này. Trở về Nga, Stcherbatsky bắt đầu cuộc nghiên cứu vào những bản chuyên luận nổi tiếng của Tôn giả Vasubandhu, chẳng hạn như tập Abhidharmakosha (A-tì-đạt-ma Câu-xá luận). Sự hào hứng của ông được khơi dậy bởi cuộc hội ngộ ở Calcutta với Giáo sư Denison Ross, người đã giải mã những mảnh rời các tập chuyên luận chép tay ở Uighur và sau đó là những tin tức về việc Bá tước Aurel Stein đã phát hiện toàn bộ văn bản Uighur của tác phẩm Abhidharmakosha ở Đông bộ Turkestan, sau này những văn bản đó được đưa về Paris rồi chuyển đến giáo sư Sylvain Lévi. Tháng mười hai năm 1912, Stcherbatsky gặp Sylvain Lévi tại Paris; và sau khi hội ý với các học giả gồm Louis de La Vallée-Poussin (Bỉ), Denison Ross (Anh Quốc) và Unrai Wogihara (Nhật Bản), một kế hoạch được triển khai để biên tập  và phiên dịch các văn bản của Abhidharmakosha nằm trong các phiên bản Tây Tạng, Sanskrit, Uighur và Trung Hoa cùng với một số bản sớ giải. Vào năm 1914, Stcherbatsky cùng với Oldenburg quyết định khởi đầu thực hiện loạt sách Những Công trình Bất hủ về Triết học Ấn Độ với dự định dịch các tác phẩm triết học Ấn Độ và nhất là triết học Phật giáo từ ngôn ngữ Sanskrit và các ngôn ngữ phương Đông khác ra tiếng Nga cùng nhiều ngôn ngữ chính khác của châu Âu. Không may, chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã làm tiêu tan tất cả những kế hoạch này.

Stcherbatsky thực hiện những công trình quan trọng nhất của ông – đã khiến ông nổi tiếng khắp thế giới – sau cuộc Cách mạng Cộng sản năm 1917 ở Nga. Năm 1918, ông được cử làm thành viên thường trực của Hàn lâm viện Khoa học Nga. Năm 1923 tập luận văn Ý niệm Chính yếu của Phật giáoÝ nghĩa của từ “Dharma” dựa trên những nghiên cứu sâu rộng của ông về Abhidharmakosha đã được Royal Asiatic Society xuất bản tại London. Trong tập luận văn này, ông nghiên cứu những chủ đề chính yếu của triết học Phật giáo tiền kỳ; chẳng hạn, những lý thuyết về dharma (pháp) hoặc những thành phần của hiện hữu cấu tạo nên dòng ý thức.

Năm 1927, Ý niệm về Niết-bàn của Phật giáo được phát hành và đã làm biến đổi sâu xa sự hiểu biết về tinh túy của học thuyết Đại thừa. Trong tác phẩm của mình, Stcherbatsky cố gắng trình bày ý niệm của Đại thừa về Phật giáo và về Niết-bàn. Để thực hiện mục đích ấy, ông sử dụng bản dịch của chính mình về hai chương đầu tiên tác phẩm Trung Quán luận của Tôn giả Nagarjuna (Long Thọ) cùng những sớ giải do Tôn giả Candrakirti (Nguyệt Xứng) viết về tập luận ấy. Trong nhiều năm, các tác phẩm của ông được coi là nền tảng cho những nghiên cứu sâu xa hơn về Phật học trong vùng.

Mặc dù chuyên tâm vào việc phiên dịchnghiên cứu các văn bản Phật giáo, Stcherbatsky vẫn không ngừng các hoạt động của ông trong việc tổ chức những chuyến du khảo đến phương Đông. Do vậy, vào năm 1924, ông đến vùng hồ Baikal để tìm kiếm những thủ bản Phật giáo quan trọng được lưu giữ tại các tu viện ở Buryat và để thiết lập những tiếp xúc với những vị Lạt-ma học giả trong vùng. Những người học trò của ông như Eugene Obermiller và Andrei Vostrikov, Tubyansky và Semichov cũng thực hiện những cuộc nghiên cứu tại chỗ trong vùng hồ Baikal suốt những năm 1927-1931, và qua đó cũng đã đóng góp rất nhiều cho việc phát triển ngành nghiên cứu Phật học Nga. Thật vậy, Obermiller và Vostrikov, những người đã rất quen thuộc với truyền thống tôn giáo sống động, đã mang về St Petersburg một số lớn văn bản Phật giáo. Năm 1927, Stcherbatsky triển khai những kế hoạch nhằm biên tập Bách khoa Toàn thư Phật giáo. Năm 1928, ông được cử đứng đầu Viện Nghiên cứu Văn hóa Phật giáo (Institute for Studies of Buddhist Culture) do Hàn lâm viện Khoa học Liên Xô thành lập. Viện này quy tụ những học giả thuộc nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, từ Ngôn ngữ Sanskrit, đến Nghiên cứu về Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa… trước hết là những vị như Obermiller, Vostrikov, Semichov, Vassiliev, và Kozerovskaya (về sau trở thành một Tỳ-kheo có pháp hiệu Sankrityayan). Viện Nghiên cứu Văn hóa Phật giáo nhắm tới việc nghiên cứu toàn diện về cả văn hóa Phật giáo lẫn những hình thái của Phật giáo trong dòng lịch sử phát triển của tôn giáo này, cũng như trạng thái hiện thời của Phật giáo ở nhiều vùng đất khác nhau. Vào năm 1930, Phân ngành Ấn-Tạng của Viện Nghiên cứu Đông phương được thành lập trên cơ sở hợp nhất Viện Bảo tàng châu Á, Viện Nghiên cứu Văn hóa Phật giáo và Phân ngành Thổ Nhĩ Kỳ, giao cho Stcherbatsky lãnh đạo. Cùng thời gian đó, vào năm 1928, Stcherbatsky được cử làm thành viên Hội Nghiên cứu Phật giáo do Von Max Walleser thành lập tại Heidelberg (Đức) rồi đại diện cho Viện Nghiên cứu Văn hóa Phật giáo ký một thỏa thuận hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Văn hóa Phật giáo và Hội Heidelberg. Năm sau, Stcherbatsky cùng với học trò là Obermiller cùng biên tập bộ luận Abhisamayalamkara (Hiện quán Trang nghiêm luận) bằng các ngôn ngữ Tây Tạng và Sanskrit, mở đầu cho việc nghiên cứu nền văn học Bát-nhã được Obermiller thực hiện.   

Những nghiên cứu về Phật giáo của Stcherbatsky đem lại kết quả là bộ Buddhist Logic (Luận lý học Phật giáo) gồm hai quyển. Quyển hai phát hành năm 1930 chứa đựng bản dịch đã được hiệu đính tập chuyên luận của ngài Dharmakirti và những sớ giải của ngài Dharmottara (Pháp Thượng) bên cạnh những chú giải mở rộng của Stcherbatsky. Quyển một, dựa trên những dữ kiện lấy từ quyển hai, điểm qua quá trình lịch sử và dựng lại một cách tổng hợp toàn thể kiến trúc của triết lý Phật giáo hậu kỳ.

Công trình cuối của Stcherbatsky được phát hành là bản dịch từ ngôn ngữ Sanskrit năm chương của bộ luận Madhyanta-vibhanga (Trung biên Phân biệt luận), một tập luận được coi là thuộc về Năm chuyên luận của Tôn giả Di-lặc (Maitreya).

Cũng nên nhắc tới một công trình khác đã được khởi xướng và biên tập bởi Stcherbatsky, đó là việc phiên dịch từ tiếng Sanskrit tập chuyên luận Arthashastra của Kautilya về nghệ thuật lãnh đạo chính trị, chiến lược quân sự và kinh tế. Việc dịch thuật được thực hiện bởi Oldenburg và các nhà nghiên cứu làm việc tại Phân ngành Ấn-Tạng thuộc Viện Nghiên cứu Phương Đông vào đầu thập niên 1930. Công trình dịch thuật này chỉ được biên tập lại vào năm 1959.

Stcherbatsky là một trong những người thuộc ban biên tập loạt sách nổi tiếng Bibliotheca Buddhica, khởi xướng bởi các học giả Nga ở cuối thế kỷ XIX nhắm đến việc phát hành có hệ thống các kinh điển Phật giáo bằng ngôn ngữ Sanskrit và các ngôn ngữ phương Đông khác sao cho các tài liệu ấy có thể có sẵn để phục vụ tất cả những ai nghiên cứu về phương Đông trên khắp thế giới. Được phát hành đầu tiên trong loạt sách này là bản luận giản yếu về tu tập của Tôn giả Shantideva (Tịch Thiên) có tựa là Shiksha-samuccaya (Học luận; Hán tạng dịch là Đại thừa Tập Bồ-tát học luận) do Giáo sư Cecil Bendhall ấn hành năm 1897, được chú ý đặc biệt bởi quyết định của Đại hội các nhà Đông phương học họp tại Paris như là một sáng kiến quan trọng và hữu ích sủa Viện Hàn lâm Khoa học St Petersburg. Trong suốt đời mình, Stcherbatsky, đã có 30 quyển sách được phát hành trong loạt tác phẩm này, bao gồm 11 quyển do chính ông biên tập. Năm 1936, đợt phát hành cuối cùng của loạt sách đó được thực hiện, tập Trung biên Phân biệt luận do Stcherbatsky dịch được phát hành. Về sau, năm 1960, Giáo sư George Roerich chuẩn y lần phát hành thứ 31 của loạt sách này, cho ra đời tập Dhammapada (Kinh Pháp cú) do Vladimir Toporov thực hiện. Năm 1962, được coi là đợt phát hành kế tiếp của loạt chuyên luận Văn học Lịch sử Tây Tạng do Vostrikov thực hiện. Tập sách này, viết năm 1937, đã được tác giả dành tặng cho dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Stcherbatsky.

Theodor Stcherbatsky mất ngày 18-3-1942 ở Borovoye, miền bắc Kazakhstan, nơi ông đến tản cư cùng với những hàn lâm viện sĩ khác của Leningrad đang bị đe dọa bời quân đội Đức Quốc xã. Phẩm chất học thuật của Stcherbatsky rất được ca ngợi bởi những đồng nghiệp ngoại quốc của ông trên thế giới. Trong thập niên 1930, ông được cử làm hội viên của ba hiệp hội học thuật cổ nhất và có thẩm quyền nhất về Đông phương học là Royal Asiatic Society của Anh Quốc, the Asiatic Society of Paris, và German Oriental Society, Berlin. Ông còn là Hội viên thông tấn của Gottingen Academy of Sciences. Ông được coi là nhà nghiên cứu tiền phong về Luận lý học Phật giáo.

Năm nay, kỷ niệm 150 năm ngày sinh của ông, những người quan tâm đến Luận lý học Phật giáo xin được thể hiện lòng ngưỡng mộ ông, một người đã hầu như suốt đời dành tâm lực để nghiên cứu Phật học.     

 

Tài liệu tham khảo:

1.  Phật giáo Nga, Giáo sư Trần Quang Thuận, Nhà xuất bản Tôn Giáo (2008).
2.  Academician Fyodor Ippolitovich Stcherbatsky, B.V. Semichov và A.N. Zelinsky viết bằng tiếng Nga, bản dịch tiếng Anh của A. Zorin, đăng trên trang mạng www.orientalstudies.ru của russian academy of sciences.
3.  Tài liệu trên Wikipedia

Bài đọc thêm bằng tiếng Anh: Sách Nhân Minh Luận tức Luận Lý Học Phật Giáo:
buddhist_logic 1 (Stcherbatsky) PDF 
buddhist_logic 2 (Stcherbatsky) PDF

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 35337)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19529)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23058)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13265)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5807)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10557)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10290)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 9955)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20755)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6174)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6819)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8841)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 5977)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18106)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6313)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6699)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6522)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12933)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5832)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7842)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10131)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7826)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9811)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9033)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5919)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24480)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36270)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7665)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11471)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 9979)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5202)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5396)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9936)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7831)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9325)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8580)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46363)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6869)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12165)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5759)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14400)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12910)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12345)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14406)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12318)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10918)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9585)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16611)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8432)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5927)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9891)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6344)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11282)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7001)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46565)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13458)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8326)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6833)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9129)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6160)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6868)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17741)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18051)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15686)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6911)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31102)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9542)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7654)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21512)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34082)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33184)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14178)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35546)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 12978)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15738)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13633)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 32913)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41300)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40235)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19998)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33617)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29642)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33697)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18792)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48911)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11935)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11138)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22403)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17930)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15066)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15966)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13081)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19656)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12037)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17597)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant