Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Gương sáng muôn thuở chiếu soi

13 Tháng Mười Một 201608:07(Xem: 1789)
Gương sáng muôn thuở chiếu soi
GƯƠNG SÁNG
MUÔN THUỞ CHIẾU SOI

Ngưỡng bạch Giác Linh Hòa Thượng Ân Sư Thích thượng Chơn hạ Thiện !

Xào xạc bên thềm gió lật Kinh

Sụt sùi tứ chúng tiễn Giác Linh

Người đã mãn duyên, về quê cũ

Lưu lại nơi đây thấm đượm tình…

 Dạo này Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) đang kỷ niệm 35 năm hình thành và phát triển. Con quan tâm đến Hội Thảo của Ban Giáo Dục Tăng Ni Trung Ương (BGDTNTƯ) và đọc lại các bài Hội Thảo trước đây mà Thầy trình bày – xin cho con được phép gọi Người là Thầy, vì gọi Ngài thì đúng rồi nhưng con cảm thấy có khoảng cách, còn gọi là Hòa Thượng lại không phù hợp với những giai đoạn hoạt động của Người trước năm 2000. Con thật ấn tượng sâu sắc về những bài tham luận của Thầy trong các cuộc Hội Thảo và Đặc San Văn Hóa, thể hiện một cái nhìn xuyên suốt Đông Tây Kim Cổ, định hướng cho nền Giáo Dục Phật Giáo Việt Nam, thật xứng đáng với chức danh của Thầy là Trưởng BGDTNTƯ . Con đang dạy Khoa Triết Đại Học Vạn Hạnh với bộ môn Kinh Lăng Già, ngày đêm nghiên cứu đối chiếu với cuốn sách Nghiên Cứu Kinh Lăng Già mà Thầy (cùng với cư sỹ Trần Tuấn Mẫn) đã dịch ra từ tiếng Anh của DT Suzuki và con liên hệ đến trách nhiệm của mình : cần phải sớm liên hệ thành lập và ra mắt Ban Dịch Thuật Anh – Việt Phật Học như đề nghị của lãnh đạo Viện Nghiên Cứu Phật Học đối với con để kế tục những việc nghiên cứu và dịch thuật như Thầy đã làm. Chính vào lúc mà tâm tư của con đang hướng đến Thầy cao độ thì lại là lúc con nghe ai tin từ Phật Giáo Huế : Thầy đã xả bỏ báo thân, an nhiên thâu thần thị tịch vào ngày 08/11/2016. Lòng con bàng hoàng ngẩn ngơ : Người đã ra đi thật rồi sao? Dạo này chư Tôn Đức cây cao bóng cả trong toàn quốc, thế hệ vàng khi phải trải qua Pháp nạn 1963 ấy, đã ra đi nhiều, bây giờ tiếp tục lại là sự vắng bóng của Thầy nữa rồi! Giờ đây, tâm tư của con chất chứa và sống dậy hoài niệm về Thầy với những kỷ niệm từng biết, từng hội kiến với Thầy…

Ngay từ khi còn học Trung Cấp Phật Học Nguyên Thiều Bình Đinh và ôn thi vào Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam (TCCPHVN tức là HVPGVN ngày nay) TPHCM khóa III, con đã say mê đọc cuốn sách rất thâm thúy và trình bày những điều căn bản, cần thiết về Đạo Phật của Thầy : Tăng Già Thời Đức Phật. Vào Đại Học Vạn Hạnh, con có phước duyên hội kiến Thầy vừa với tư cách Phó Viện Trưởng, vừa giảng dạy bộ môn Thắng Pháp Tập Yếu Luận và say mê đọc sách Phật học khái luậnNghiên cứu Kinh Lăng Già do Thầy viết và dịch. Lối giảng dạy của Thầy thật đặc biệt : bình dị, gần gũi, say sưa bất tận, khảo sát đối chiếu rộng theo nhiều hệ thống tư tưởng trường phái, dân chủ, cởi mở, mời gọi sự sáng tạo từ phía sinh viên khiến cho chúng con ngày mỗi ngày được trưởng thành hơn, được khai mở trong bầu trời Tuệ Giác bao la, đúng là phong cách Sư Phạm cùa người đã tốt nghiệp Cao Học Tâm Lý Giáo Dục Hoa Kỳ có khác. Trong những buổi họp mặt của nhà Trường vào sáng 2 tiết sau thứ 2 nửa tháng một lần, khi bàn thảo những vấn đề quan trọng, Thầy hiện diện cùng với Chánh Văn Phòng là Cố HT. Thích Đạt Đạo và Tổng Thư Ký là Cư Sỹ Trần Tuấn Mẫn. Thầy luôn cân nhắc các vấn đề, ban đạo từquyết định với đầy cảm thônghiểu biết một cách sáng suốt, kjp thời và thích hợp nhất. Phước duyên cho chúng con trong thời gian 4 năm tham học Cử Nhân Phật Học, chúng con thọ giáotiếp xúc với những bậc Cao Tăng thời đó như Trưởng Lão Hòa Thượng (TLHT) Thích Minh Châu, TLHT Thích Thiện Siêu, HT Thích Thanh Từ, Cố HT Thích Thanh Kiểm, Cố Ni Sư Trí Hải, … là những bậc quảng bác đa văn, dấn thân phụng sự Đạo Pháp, tận tụy với giáo dục Phật Giáo với đàn hậu tấn khiến cho bản thân con có nhiều động lực để tinh tiến phấn đấu dồi mài ngày đêm không ngừng.

Chúng con đang học năm thứ 2 ở Đại Học thì Thầy đi du học Ấn Độ theo chương trình Tiến Sỹ Phật Học tại Đại Học Delhi với học bỗng ICCR (Hội Đồng Quan Hệ Văn Hóa của Ấn Độ). Đó cũng là nguồn động lực rất lớn để con đầu tư học Pali, tiếng Anh và tiếng Hoa trong ĐH Vạn Hạnh và các trung tâm bên ngoài như lời trong Quy Sơn Cảnh Sách : “Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ” (Người đã là trượng phu thì Ta cũng nên như thế). Chúng con sẽ noi gương những bậc đi trước để an tâm phấn đấu và chuẩn hị hành trang sẵn sàng đi du học sau khi tốt nghiệp Cử Nhân Phật Học tại ĐH Vạn Hạnh. Việc đi du học Ấn Độ lúc đó là hiếm và quý lắm vì sau khi Cố TLHT Thích Minh Châu tốt nghiệp tiến sỹ tại Ấn Độ hơn 34 năm sau mới có người tu sỹ Phật Giáo Việt Nam tiếp bước qua du học Ấn Độ đó là Thầy và sau đó là vài Tăng Ni Sinh Khóa I Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, TPHCM du học theo Thầy bên đó. 

Sau này có cơ hội đến học chính Đại Học Delhi và các giáo sư đã dạy và hướng dẫn Thầy trong giai đoạn nghiên cứu và bảo về luận án tiến sỹ của Thầy mới biết được thêm nhiều điều về Thầy trong thời gian du học Ấn Độ. Các Giảng Viên Tiến Sỹ tại đó như KTS Sarao, Rana, Tỳ Kheo Satyapala,… xem Thầy như một người thiện tri thức, người bạn, huynh đệ hơn là một học trò. Sự hiện diệntham học của Thầy tại Khoa Phật Học Đại Học Delhi cũng là diễm phúc, thắng duyên của họ. Họ rất trân trọng và chia sẻ với Thầy về nhiều quan điểm Phật Giáo. Đến năm 1996 Thầy bảo vệ Luận Án Tiến Sỹ với đề tài : “Lý Thuyết Nhân Tính qua Kinh Tạng Pali” được Giáo Sư hướng dẫn TKS Sarao ca ngợi hết lời : xuất sắc, sâu sắc, nhiều khám phá mới và đóng góp, hoàn thành chương trình tiến sỹ trong khoảng nửa thời gian so với một nghiên cứu sinh bình thường khác,…Cũng như TLHT Thích Minh Châu để lại ấn tượng tốt đẹp tại Đại Học Nalanda, Thầy lưu lại những kỷ niệm không thể phai mờ và tình cảm tốt đẹp khiến cho các giáo sư Khoa Phật Học này tiếp tục dành tình cảm tốt đẹp cho Tăng Ni du học sinh Việt Nam nhờ ánh hào quang và bước khai phá của Thầy để lại.

Thầy kịp về lại TCCPHVN khi chúng con học năm cuối, để sắp xếp lại các chương trình học và thêm phần sum tựu ấm áp trong buổi Lễ tốt nghiệp ra trường của Tăng Ni Sinh Tốt Nghiệp TCCPHVN Khóa III năm 1997. Sau đó, Thầy sáng tác những sách giá trị khác như Hoa Ngọc Lan - 1998, sách hoài niệm về thời tuổi trẻ xuất gia của Thầy với Đức Đệ Nhất Tăng Thống Việt Nam Cố TLHT Thích Tịnh Khiết tại Chùa Tường Vân, Huế, khi Thầy là nhân vật Chú Tâm Ngộ sinh hoạt với các huynh đệ : Tâm Tín, Tâm Thành,…Quả thật, Thầy thuộc hàng : “sanh phùng trung quốc, trưởng ngộ minh sư, chánh tín xuất gia, đồng chơn nhập Đạo” (sanh nơi thành Đô, gặp được bậc Minh Sư, xuất gia với niềm tin sâu sắc, tuổi trẻ đã vào Đạo). Qua đó, chúng ta thấy Thầy được trưởng dưỡng trong chiếc nôi Đạo Pháp quý hiếm, có nền tảng Phật Pháp vững vàng ngay từ nhỏ, tâm hồn trong sáng, tha thiết gắn bó với Đạo Pháp,…Giai đoạn ban đầu đó có ảnh hưởng rất lớn đến tâm chí và hành hoạt cả đời của Thầy sau này. Thầy được Sư Phụ trao lại chiếc y 21 điều trong ngày thọ đại giới tại Việt Nam Quốc Tự Saigon, 1964 : “Tay mân mê chiếc y vàng 21 điều (Đại y) mà Hòa thượng đã trao cho Chú trước ngày thọ đại giới, chiếc y mà Hòa thượng đã sử dụng qua một thời gian dài, chú Tâm Ngộ cảm động đến ứa nước mắt…” Điều này khiến chúng ta liên tưởng sự kiện Ngũ Tổ Hoàng Mai trao Y Bát và sứ mệnh hoăng pháp cho đệ tử đắc PhápLục Tổ Huệ Năng để thừa đương Tổ nghiệp, tác Như Lại sứ, hành Như Lai sự.

Đến năm 2001 khi Cố TLHT Thích Thiện Siêu viên tịch thì Thầy chính là nhân tuyển thích hợp nhất để thừa đương 2 trọng trách lớn lao mà TLHT để lại đó là : Trưởng Ban Giáo Dục Tăng Ni Trung Ương (BGDTNTƯ) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) và Viện Trưởng Học Viên Phật Giáo Việt nam tại Huế trải suốt 15 năm qua. Thầy đã không ngừng tổ chức, bổ sung nhân sự, thay đổi chương trình, nội dung giáo dục theo chiều hướng tích cực, nhờ đó Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế thừa hưởng được truyền thống Phật Giáo lâu đời và môi trường Giáo Dục Phật Giáo Huế từ bao thể kỷ trước và phát huy đến đỉnh cao trong hiện tạikết hợp truyền thống và hiện đại- sánh tầm với HVPGVN tại Hà Nội và TPHCM, là nơi thu hút nhiều Tăng Ni Sinh toàn quốc đến ửng thí và tham học chương trình Cử Nhân Phật Học.

Đọc những sách Thầy viết, chúng con có thể cảm nhận được sự miệt mài, công phu tỉ mỉ và nghiêm túc của Thầy trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, thể hiện một sự tham khảo đối chiếu Đông Tây, tổng hợp nhiều trường phái nhiều quan điểm. Với Tuệ Giác của một bậc Tôn Túc thấm nhuần Phật chất, Thầy có những cái nhìn mới mẻ, những phát kiến độc đáo, rất sâu sắc và thực tế, mang đậm phong cách riêng của Thầy về : Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung, Tây Du Ký, về văn hóa và phát triển xã hội, về nguồn gốc con người, về đời sống tình cảm, về hạnh phúc, về Phật giáo với dân tộc, về tâm lý học, về Thiền Định...Đặc biệt, Thầy rất chuyêu sâu về lĩnh vực Giáo dục Phật Giáo. Chúng con có thể cảm nhận phần nào về những phác họa, những tinh hoa tư tưởng vượt thời giankhông gian của Thầy, đọc các bài viết trong tập sách : “Trí Tuệ & Chân thành” mới thấy được cái Tâm và cái Tầm của người viết kiến nghị những giải pháp thiết thực, soi sáng đường lối cho dân cho nước, thưởng thức bài viết trong tham luận như : “CỦNG C VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC TĂNG NI”  đọc tại  tại Đại hội đại biểu Phật giáo Việt Nam lần VI  năm 2007 cho việc củng cố và phát triển Giáo Dục Phật Giáo Việt Nam và bài phỏng vấn “Vai trò kh hu ca giáo dc Pht giáo trong ci biến nn giáo dc hin ti” năm 2012 cho việc định hưởng và phát triển nền giáo dục nước nhà trong sự hỗ tươngphối hợp nhịp nhàng của Giáo Dục Phật Giáo, chúng con được khai thị rất nhiều và thật ấn tượng, thuyết phục với lời khẳng định của Thầy ở đoạn cuối:Các lý thuyết và triết lý giáo dục đương đại có ngã tính, thế nào cũng đi vào khủng hoảng sớm hay muộn trước thực tại vô ngã tính. Giáo dục Phật giáo xiển dương sự thật duyên sinh, vô ngã nên không rơi vào khủng hoảng. Đây là giáo lý mà học đường đương đại có thể tham khảo để điều chỉnh các lý thuyết.

Sách và tư tưởng của Thầy càng đọc càng thấy hay, đọc nhiều lần mới thấm thía, Con có duyên học trực tiếp từ Thầy thì ít mà học gián tiếp qua sách báo, bài giảng thu âm thì nhiều. Thầy giảng nhiều đề tài khác nhau : Kinh Luận Đại Thừa, Kinh Nikaya và tâm lý xã hội… Khi mới nghe giảng thì âm thanh đặc chất Huế của Thầy hơi khó nghe, nhưng nghe nhiều rồi tự nhiên rất thích cái giọng nói và âm điệu ấy. Thầy là một trong số lượng tương đối ít những Tôn đức Việt Nam mà con đặc biệt kính ngưỡng trong nghiên cứu, khám phá, đóng góp rất lớn cho Phật học Việt Nam  như Quý Ngài Phước Huệ, Bích Liên, Mật Thể, Trí Độ, Trí Thủ, Huyền Quang, Trí Quang, Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hộ Tông, Khánh Anh, Tố Liên, Đức Nhuận, Thanh Kiểm, Trí Tịnh, Minh Châu, Thiện Siêu, Thanh Từ, Nhất Hạnh, Huyền Vi, Tâm Thanh, Đổng Minh, Viên Minh, Minh Cảnh, Chơn Thiện, Tuệ Sỹ, Mạnh Thát, Ni Trưởng Như Thanh, Hải Triều Âm, Diệu Không, Trí Hải, ...Những phát biểu, đạo từ của Thầy rất là chuẩn mực, làm kim chỉ nam cho mọi hành động, những lời dạy có ý nghĩa sâu xa, thấu đạt mọi khía cạnh, ngọn nguồn, cử chi và tư cách mô phạm của bậc bao gồm Bi và Trí thân mật, gần gũi nhẹ nhàng, ung dung, cởi mở, lắng nghe, cảm thônghiểu biết, quan tâm giúp đỡ. Thầy rất xứng đáng với vai trò Trưởng Ban Giáo Dục Tăng Ni Trung Ương GHPGVN và Viện Trưởng của một HVPGVN vì Thầy là một nhà giáo thực thụ nhất...

Một năm trước đây con đã ra thăm HVPGVN tại Huế và rồi đến Chùa Tường Vân tha thiết mong mỏi một lần nữa được diện kiến Thầy và xin chỉ giáo đôi điều vướng mắc trong tâm tư, thế nhưng Thầy có duyên Phật sự bên ngoài nên không gặp được. Con tự hẹn với lòng có ngày sẽ trở lại, thế nhưng thời gian và công việc cứ mãi đưa mỗi người theo một quỹ đạo riêng cho đến mai này trở lại Huế lần nữa thì không thể nào được diện kiến tôn nhan của Thầy nữa mà chỉ là khói hương mờ nhạt trên di ảnh lung linh. Thôi thế thì thôi, biết tìm đâu gặp lại được bóng dáng  Ân Sư?
       Thầy ra đi là một tổn thất lớn lao không gì bù đắp được : nhân dân Việt nam mất đi một vị đại biểu cho chính, cất lên tiếng nói đại diện cho dân, vì dân, hết lòng thương dân, GHPGVN mất đi bóng dáng tôn nghiêm của một bậc Phó Pháp Chủ, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự, một bậc chứng minh uy đức trang nghiêm, một vị lãnh đạo tài tình, ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam mất đi một bậc Long Tượng, một đại thọ, Đại Học Phật Giáo và bao lớp lớp Tăng Ni mất đi một bậc Thầy thân kính, hàng Phật tử mất đi một Đạo sư chơn chánh để nương tựa,...Vẫn biết, cuộc thế vốn vô thường, sắc sắc không không, pháp hữu vi có sinh ắt có diệt, có đến ắt có đi, có hiệp ắt có ly, có hình ắt có hoại, thế nhưng với bao nhiêu công đức sâu dày mà hơn 75 năm trụ thế, 53 hạ lạp, Thầy đã để lại cho Đạo, cho Đời, ai mà không bùi ngùi, chạnh lòng kính tiếc. Những bậc Cao Tăng Thạc Đức trưởng thành qua các giai đoạn lịch sử 1954, 1963,...như chiếc lá vàng vọt rơi rụng dần dần khiến chúng con cảm thấy chơ vơ. Hàng học trò của Thầy có đến hàng trăm tiến sỹ thế nhưng có mấy ai dám tự tin lập nên được những kỳ tích, đóng góp vào cho nèn Giáo Dục Phật Giáo Việt Nam cũng như đảm đang vai trò Như Lai Sứ Giả được như Thầy?

Trong khi HVPGVN đang trong không khí chuẩn bị chào đón Ngày Hiến Chương Nhà Giáo Việt Nam, ngày Tôn Sư Trọng Đạo thì một bậc Thầy tôn kính đã ra đi. Biết nói sao đây cho vơi nguôi được khúc nôi tâm tình? Lá Bồ Đề vẫn sớm hôm xào xạc khẽ nhắc tên Người, dòng sông Hương vẫn muôn đời in bóng khách, đồi Thông Đà Lạt vẫn còm cõi đợi chờ, Thiền Viện Vạn Hạnh vắng Thiền chủ chơ vơ, ngấn lệ ngắn dài tứ chúng đang sụt sùi tiễn đưa bậc Tôn Sư khả kính nhập vô dư niết bàn, báo thân buông xả.

Trang sử đời Người đang khép lại, rồi mai đây báo thân của Người sẽ vào miền đấtt lạnh, sẽ hóa thành mây bạc thong dongTường Vân để che bóng mát cho những ai tìm đến nương nhờ ân Tam Bảo. Nhưng chúng con tin tưởng rằng : Người đã ra đi nhưng vẫn còn ở lại, Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương, Người đi dấu vết chưa nhòa, Thác là thể phách, còn là tinh anh, tuy Người không còn hiện hữu bằng xương bằng thịt với sắc Pháp Hữu Vi nữa nhưng bao nhiêu ân tình, kỷ niệm, lời dạy của Thầy vẫn sống mãi trong tâm trí của chúng con và mãi là hành trang, động lực tinh thần, cảm hứng vô biên cho chúng con trên bước đường tu học và dấn thân phụng sự đào tạo Tăng Tài, kế vãng khai lai, báo Phật Tổ ân đức. Sự thị hiện của Người thật trọn vẹn, những gì cần làm Người đã làm xong, Người vừa đặt gánh nặng xuống và vào cõi vô tung bất diệt, Pháp thân lồng lộng khắp hư không pháp giới vô biên, gánh trách nhiệm đó đến lúc chúng con, những học trò của Thầy, phải thừa đương kế tục. GHPGVN vừa cử hành đại Lễ kỷ niệm 35 năm hình thành và phát triển, trong 35 năm chặng đường lịch sử đó, có những bước đi khai phá và cống hiến đặc biệt của Thầy. Có phải là Thầy nghĩ đã hết nhiệm kỳ, giai đoạn của Thầy mà tùy duyên buông xả để cho thế hệ kế thừa phải ở vào tư thế tự tin, ý thức trách nhiệm, đảm đangtrưởng thành hơn để tiếp nối tôn phong, cho mạng mạch Phật Giáo Việt Nam được trường tồn và hưng thịnh, làm tốt Đạo, đẹp Đời và những lời dạy của Thầy vẫn còn vang vọng trong chúng con trong suốt hành trình nhân sinh trở về bảo sở :

“Những lời đức Phật dạy trong kinh tạng Pàli khơi gợi một con đường tư duy mới của vô ngã vốn khác hẳn quan điểm của các tôn giáo và triết lý khác. Con đường tư duy này không nhìn con người hay thế giới là một thực thểbản chất thường hằng, mà là một hiện hữu năng duyênsở duyên, có thể đem đến cho nhân loại hạnh phúc trong hiện tại và những lời giải đáp rất hữu ích nếu con đường tư duy ấy được đem áp dụng vào đời sống thực. Những lời dạy ấy có thể sử dụng ở trường học, đại học như là một môn học chính của ngành triết học: triết lý giáo dục, tâm lý giáo dục, tâm lý trị liệu trong ngành giáo dục, hay lý thuyết về Nhân Tính. Tại sao lại không thể? - Con đường tư duy ấy, hay cái nhìn sự vật ấy, sẽ giúp giáo dục điều chỉnh lại các lý thuyết Nhân Tính vốn phi thực, điều chỉnh lại tinh thần giáo dục cạnh tranh vốn gây tổn hại đến tinh thần hợp tác; con đường tư duy ấy sẽ giúp sinh viên, học sinh phát triển tư duy độc lậpsáng tạo, và xóa tan các vấn đề phiền não trong đời sống hằng ngày một cách hữu hiệu; sau cùng, con đường tư duy ấy sẽ đề bạt tiêu chuẩn giá trị đạt cơ sở trên hạnh phúc của cá nhâncộng đồng mà không phải trên luân lý, đặt cơ sở trên trí tuệ mà không phải trên kiến thức tưởng tượng, đặt cơ sở trên tình người và nhân bản mà không phải trên hận thù và đấu tranh v.v...”  (Trích phần kết của “Lý Thuyết Nhân Tính qua Kinh Tạng Pali”)

Giờ đây, khi ngôn ngữ trở thành bất lực và khập khiễng để có thể mô tả trọn vẹn công hạnh của Thầy, con chỉ còn biết thành tâm lẳng lặng ngưỡng vọng Tổ Đình Tường Vân, đảnh lễ Linh Đài và Giác Linh của Thầy trong giao cảm vô ngôn, cầu nguyện Giác Linh Thầy cao đăng Phật Quốc, hồi nhập Ta Bà, soi đường chỉ lối cho Tăng Đoàn, hóa độ tất cả chúng sanh. Có lẽ Thầy không nhớ con là ai vì thế hệ học trò của Thầy nhiều quá, nhưng hình ảnh, giọng nói, tâm tình của Thầy khắc sâu trong con và tâm khảm của hàng triệu triệu Tăng Ni Phật Tử và người dân Việt Nam. Chúng con xin nguyện dấn thân trên con đường nghiên cứu giáo dục theo tấm gương Thầy mãi chiếu soi, góp phần cho sự phát triển Giáo Dục Phật Giáo Việt NamĐạo Phật ngày thêm sáng tỏ, bánh xe chánh Pháp chuyển không ngừng, trang nghiêm tu học tự thân, cho thế giới thêm Chân Thiện Mỹ.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tam Thế, Xuân Kinh Tường Vân Tổ Đình Trú Trì, Sài Gòn Vạn Hạnh Thiền Viện Viện Chủ, Việt Nam Phật Giáo Giáo Hội, Chứng Minh Hội Đồng, Phó Pháp Chủ, húy thượng Tâm hạ Ngộ, tự Chơn Thiện, hiệu Viên Giác Hòa Thượng Ân Sư Giác Linh thùy từ chứng giám.

Ngày 11/11/2016

Khể Thủ

Hậu Học : Thích Đồng Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17598)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24398)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25904)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13729)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13149)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 21938)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19021)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9973)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11881)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13009)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15141)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10509)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21730)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10090)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9825)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9730)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10170)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27243)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17794)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13155)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25014)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34546)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26697)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 18991)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 8980)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13038)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8968)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9428)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9109)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11766)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18480)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8748)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10634)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10910)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27937)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17842)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14383)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16332)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13173)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15435)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14653)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7553)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 16943)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8347)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30626)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant