Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Bảy: Lời Khuyên Của Rinpoche Dành Riêng Cho Hành Giả Mật Tông

14 Tháng Mười Hai 201612:29(Xem: 2183)
Phần Bảy: Lời Khuyên Của Rinpoche Dành Riêng Cho Hành Giả Mật Tông

Chân Dung Của Tsenzhab Serkong Rinpoche


Alexander Berzin, 1998

   Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ;
Võ Thư Ngân hiệu đính

Phần Bảy: Lời Khuyên Của Rinpoche Dành Riêng Cho Hành Giả Mật Tông
Nhập Thất Mật Điển “Bán Thời”

Mặc dù những khóa nhập thất toàn thời dài lâu sẽ đem lại lợi lạc, nhưng đa số không có dịp may để thực hiện điều này. Vì vậy, Rinpoche thấy nếu ta cho rằng phải có ba tháng hay nhiều thời giờ rảnh rỗi hơn mới có thể nhập thất theo kiểu này thì quá hẹp hòi. Nhập thất không có nghĩa là xa lánh mọi người, mà là thời gian tu tập miên mật để giúp cho tâm mình uyển chuyển với một pháp tu. Thực hành một thời khóa mỗi sáng và tối trong khi vẫn giữ sinh hoạt bình thường trong ngày là điều hoàn toàn chấp nhận được. Chính Rinpoche cũng làm nhiều khóa nhập thất như thế mà không ai biết là ngài đang nhập thất.

Điều hạn chế duy nhất đối với phương pháp tu tập này là ta phải ngủ trên cùng một chiếc giường, hành thiền trên cùng một tọa cụ, ở cùng một nơi trong suốt khóa nhập thất, nếu không thì sẽ mất đà trong việc tích lũy năng lượng tâm linh. Hơn nữa, mỗi thời khóa phải có một số lượng mật chú, lễ lạy hay các hành trì lập đi lập lại tối thiểu, dựa theo số lượng mà ta đã thực hiện trong thời khóa đầu tiên của kỳ nhập thất. Vì vậy, lời khuyên của Rinpoche là chỉ hành trì pháp tu mình đã chọn lựa ba lần trong thời khóa đầu tiên thôi. Nhờ vậy, bệnh tật trầm trọng sẽ không nhất thiết làm gián đoạn kỳ nhập thất và ta khỏi phải khởi sự lại từ đầu.

Khi Sự Cấp Thiết Vượt Qua Hạn Chế Của Khóa Nhập Thất

Tuy nhiên, đối với các hình thức giới luật Phật giáo, “điều cấp thiết đôi khi vượt qua sự cấm đoán”, nhưng chỉ trong các trường hợp rất đặc biệt. Một lần nọ, giữa kỳ nhập thất ở Dharamsala, tôi nhận được lời yêu cầu đi dịch thuật cho một lễ quán đảnhthuyết pháp của Đức Dalai Lama ở Manali, một thị trấn Hy Mã Lạp SơnẤn Độ. Tôi đã thỉnh ý với Rinpoche và ngài bảo tôi đi, không nên chần chừ hay lưỡng lự. Việc phụng sự Đức Dalai Lama là điều lợi lạc hơn hết mà tôi có thể thực hiện. Tôi sẽ không mất đà với việc hành trì, miễn là tôi vẫn có một thời khóa hành thiền mỗi ngày và trì tụng số mật chú tối thiểu theo hạn định. Tôi đã làm theo cách này, và sau mười ngày làm việc với Đức Dalai Lama, tôi đã trở về Dharamsala để hoàn tất khóa nhập thất.

 

Theo Đúng Quá Trình Nghi Lễ

Rinpoche luôn nhấn mạnh nghi lễ được đặt ra là có mục đích và nghiêm túc. Ta cần phải làm đúng theo nghi lễ. Thí dụ như các khóa nhập thất Mật tông đòi hỏi việc trì tụng một số lượng mật chú nhất định, rồi thực hiện một “lễ hỏa tịnh” sau đó. Lễ hỏa tịnh là một nghi thức phức tạp để cúng dường các thức đặc biệt vào trong lửa. Mục đích của nghi lễ này là để bù đắp cho bất kỳ sự thiếu sót nào trong hành trì của mình và tịnh hóa bất cứ sai lầm nào ta đã tạo ra.

Một số khóa nhập thất đặc biệt khó khăn. Thí dụ như trong một lần nhập thất, tôi phải trì tụng một mật chú một triệu lần, và trong lễ hỏa tịnh phức tạp, tôi phải cúng dường mười ngàn cặp cỏ lau sậy dài và trì tụng một mật chú với mỗi một cặp cỏ. Toàn bộ mười ngàn cặp cỏ phải được ném vào trong lửa tại chỗ, không được gián đoạn. Khi thực hiện lễ hỏa tịnh vào cuối kỳ nhập thất này, tôi không có đủ số cỏ lau sậy. Sau khi hoàn tất phần nghi lễ còn lại, tôi đã thưa chuyện với Rinpoche và ngài bắt tôi làm lại toàn bộ lễ hỏa tịnh trong một vài ngày sau đó. Lần này, tôi phải biết chắc là mình có đủ mười ngàn cặp cỏ lau sậy!

Rinpoche nhấn mạnh khả năng tự lực, bởi vì các vị chuyên môn về nghi lễ không luôn luôn có mặt để cho ta ý kiến. Vì vậy, ngài dạy các đệ tử Tây phương cách tự thực hiện lễ hỏa tịnh. Điều này bao gồm cách chuẩn bị lò lửa và vẽ mạn đà la cần thiết bằng bột màu trên nền lò. Thậm chí nếu người Tây phương cần người khác trì tụng nghi lễ khi không có bản nghi lễ bằng ngôn ngữ của họ, Rinpoche giải thích rằng họ vẫn cần phải tự cúng dường các thức vào trong lửa. Ngay cả khi nhập thất theo nhóm, họ cũng phải làm y như vậy.

Tuy nhiên, việc theo đúng quá trình nghi lễ không mâu thuẫn với cách tiếp cận thực tế. Thí dụ như các khóa nhập thất bắt đầu bằng việc trưng bày các thức cúng dường đặc biệt trên bàn thờ tại nhà và cúng dường chúng mỗi một ngày tiếp theo để tiêu trừ chướng ngại. Các chướng ngại được quán tưởng trong dạng quỷ thần gây trở ngại và họ được triệu thỉnh mỗi ngày để thọ dụng các thức cúng dường. Rinpoche khuyên ta có thể dùng những hộp bánh quy thay thế cho các torma truyền thống trang trí công phu, thường được sử dụng cho việc này.

Đừng Cố Gắng Thực Hành Những Pháp Tu Cao Cấp Khi Chưa Có Đủ Khả Năng

Rinpoche không hài lòng khi người ta cố gắng thực hành những pháp tu cao cấp, khi họ chưa có đủ khả năng. Ví dụ như một số người cố gắng hoàn tất các pháp tu theo giai đoạn khi mà họ chưa sẵn sàng hay thậm chí chưa quan tâm đến việc hành trì một nghi quỹ dài, nói gì đến việc quán triệt nó. Cấp độ cao nhất của Mật điển, Anuttarayoga (Tối Thượng Du Già), gồm có giai đoạn phát khởi trước hết, rồi đến giai đoạn viên mãn. Giai đoạn đầu luyện trí tưởng tượng và định lực qua việc hành trì nghi quỹ. Giai đoạn sau sử dụng năng lực của tâm để phối hợp hệ thống năng lượng vi tế của thân thể, nhằm chuyển hóa bản thân. Nếu không có các kỹ năng thành tựu được nhờ việc hành trì nghi quỹ thì việc tu tập với các luân xa (chakras), kinh mạch và luồng khí trong hệ thống vi tế là một trò hề.

Rinpoche cảnh cáo rằng các pháp tu Mật tông cao cấp có thể rất tai hại nếu người tu tập không có khả năng và thực hành sai lầm. Thí dụ như pháp chuyển di tâm thức (powa) bao gồm việc tưởng tượng tống khứ tâm thức của mình ra khỏi đỉnh đầu khi gần kề cái chết có thể rút ngắn thọ mạng. Pháp sử dụng thuốc tinh chất (chulen) mà hành giả phải nhịn đói hàng tuần và sống bằng các viên thuốc xá lợi đã được gia trì, đặc biệt là khi thực hành theo nhóm, có thể tạo ra nạn đói trong vùng. Hơn nữa, những ai tu tập như vậy có thể bị bệnh trầm trọng vì thiếu thức ăn và nước uống, thậm chí có thể tử vong.

Các khóa nhập thất Mật điển tự chúng là pháp tu cao cấp, và Rinpoche cảnh cáo về việc nhập thất quá sớm. Ví dụ, đôi khi người ta nhập thất để trì tụng một trăm ngàn mật chú, nhưng lại không quen thuộc với pháp tu này. Họ tưởng rằng trong thời gian nhập thất, họ sẽ có được kinh nghiệm. Dù bỏ ra một thời gian tu học miên mật và quen thuộc với một pháp tu nào đó là việc lợi lạc, đó không phải là việc ta phải làm trong một khóa nhập thất Mật điển chính thức. Một người không biết bơi thì không thể bắt đầu tập luyện trong hồ bơi 12 tiếng mỗi ngày. Liều lĩnh một cách dại dột như vậy chỉ đưa đến sự kiệt sứcvọp bẻ chân tay mà thôi. Việc tập luyện rốt ráo chỉ dành cho những tay bơi lão luyện, để trở thành các vận động viên hàng đầu. Các khóa nhập thất Mật tông cũng giống như vậy.

Đừng Kiêu Căng Về Công Phu Tu Tập

Hơn nữa, việc tu tập các pháp tu Mật điển phải là việc kín đáo, nếu không, chướng ngại có thể xảy ra. Rinpoche thấy nhiều người Tây phương không những không giữ kín việc tu tậpthành tựu của mình, mà còn khoe khoang về những điều này. Ngài nói khoe khoang khoác lác rằng mình là đại hành giả du già về một Bổn tôn nào đó là điều lố bịch, khi ta chỉ mới hoàn tất hay đang thực hiện một kỳ nhập thất ngắn bằng cách trì tụng các mật chú liên quan đến vị Bổn tôn này vài trăm ngàn lần. Hơn nữa, việc tự phụ và kiêu căng trong khi mình không tu tập nghi quỹ dài của Bổn tôn đó hàng ngày thì lại càng tệ hơn nữa. Rinpoche luôn luôn giải thích rằng nghi quỹ dài dành cho những hành giả mới bắt đầu tu tập. Các nghi quỹ dài có hơn một trăm trang, giống như kịch bản opera quán tưởng dài dòng. Các nghi quỹ ngắn dành cho những hành giảcông phu sâu dày, đã quen thuộc với toàn bộ pháp tu đến mức họ có thể thực hành mọi pháp quán tưởngnghi thức trong khi chỉ trì tụng một vài câu.

Hiểu Rõ Giá Trị Của Phương Pháp Giảng Dạy Tối Nghĩa Có Chủ Ý Trong Mật Tông

Rinpoche dạy rằng người Tây phương cũng cần phải kềm chế khuynh hướng đòi hỏi cách trình bày mạch lạc đối với tất cả các giáo huấn và chỉ giáo ngay từ đầu, đặc biệt là trong Mật tông. Các đạo sư Ấn ĐộTây Tạng vĩ đại hoàn toàn có khả năng sáng tác những bản văn dễ hiểu. Tuy nhiên, các ngài cố ý viết một cách mơ hồ. Cách trình bày tài liệu Mật tông quá rõ ràng và dễ tiếp xúc có thể dễ đưa đến sự thoái hóachướng ngại trong việc tu tập. Ví dụ như người ta có thể xem thường các giáo pháp này và không nghiêm túc nỗ lực tu hành.

Một thành phần quan trọng trong phương pháp sư phạm của Phật giáo là khiến cho người ta đặt câu hỏi về ý nghĩa của giáo pháp. Nếu các đệ tử thật sự quan tâm đến giáo pháp thì họ sẽ tìm cách để làm cho ý nghĩa được sáng tỏ hơn. Phương pháp này sẽ tự động loại bỏ nhưng người chỉ là “khách du lịch tâm linh”, và những ai không sẵn sàng bỏ ra công phu khó nhọc cần thiết cho thành tựu giác ngộ. Tuy nhiên, nếu mục đích làm sáng tỏ giáo pháp Mật tông là để xua tan ấn tượng méo mó, tiêu cực của người ta về các giáo pháp này thì Đức Dalai Lama đã tán thành việc công bố sự giải thích rõ rệt. Tuy nhiên, việc này chỉ liên quan đến mặt lý thuyết chứ không liên hệ đến pháp tu cụ thể về mỗi một Bổn tôn. Một cẩm nang rành mạch về “cách hành trì” có thể khuyến khích người ta cố gắng hành trì các pháp tu cao cấp mà không có sự giám sát của một vị thầy, và điều này có thể rất nguy hiểm.

Không Nên Xem Thường Các Vị Hộ Pháp

Rinpoche cảnh cáo điều tối nguy hiểm là xem thường các vị Hộ Pháp. Chư Hộ Pháp là lực lượng mạnh mẽ, thường là chư thần đã được các đại sư cao cả thuần hóa. Các ngài khiến cho những chúng sanh hung bạo này thệ nguyện bảo hộ giáo pháp của Đức Phật (Pháp) và các hành giả chân thành tu tập giáo pháp thoát khỏi sự nguy hại và chướng ngại.

Rinpoche thường kể chuyện về một vị Hộ Pháp đã thệ nguyện gìn giữ pháp tu chuyên về biện luận của một tu viện nọ. Vị Hộ Pháp này phải gây trở ngại, chẳng hạn như tạo ra bệnh tật và tai nạn cho bất cứ người nào cố gắng hành trì Mật điển trong khuôn viên của tu viện, trong khi họ nên biện luận về giáo pháp. Chỉ các nhà sư nào đã hoàn tất lớp biện chứngtu học thêm tại một trong hai học viện mật điển mới được phép tu tập Mật điển, nhưng thậm chí ở thời điểm đó, họ cũng không được hành trì giữa bốn bức tường của tu viện này.

Một vị Geshe, lúc còn là tăng sinh, đã cúng dường lễ đốt lá tùng liên hệ đến pháp tu Mật điển, và ông đã liên tục gặp chướng ngại. Sau đó, ông tu học ở một trong hai học viện Mật điển và sau khi ra trường, đã tiếp tục làm lễ cúng dường này, nhưng ở ngoài tu viện, trên một sườn núi gần đó. Vài năm sau đó, khi vị Geshe này trực tiếp chứng ngộ tánh Không vô niệm, vị Hộ Pháp đã hiện ra trong một linh kiến. Vị thần hung tợn đã xin lỗi ngài và nói rằng, “Tôi xin lỗi là trước đây đã làm hại ngài, nhưng đó là một  trong những điều cam kết của tôi đối với vị sáng lập tu viện của ngài. Giờ thì ngài đã chứng ngộ tánh Không, dù có muốn, tôi cũng không thể nào làm hại ngài được nữa.”.

Rinpoche nhấn mạnh tầm quan trọng của ví dụ này. Đùa giỡn với các lực lượng ngoài tầm kiểm soát của mình có thể dẫn đến tai họa. Ngài thường trích dẫn lời Đức Dalai Lama luôn nói rằng hãy nhớ các vị Hộ Pháp là hầu cận của các Bổn Tôn. Chỉ những hành giả nào có đẩy đủ khả năng trong giai đoạn phát khởi của Tối Thượng Du Già Mật Điển và có quyền ra lệnh như một Bổn Tôn mới nên liên hệ với các Hộ Pháp. Nếu không, việc liên hệ quá sớm sẽ giống như đứa bé gọi một con sư tử to lớn đến bảo vệ nó. Con sư tử có thể ăn tươi nuốt sống đứa bé. Đức Dalai Lama khuyên rằng nghiệp do ta tạo ra là hộ pháp tốt nhất đối với mình. Hơn nữa, còn việc quy y Tam Bảo – Phật, Pháp. Tăng (tăng thân đã đạt chứng ngộ cao cả) thì sao?

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8022)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35558)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19695)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11710)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23195)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13357)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5846)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10621)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10359)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10060)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20868)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6207)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6857)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8899)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6019)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18160)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6355)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6734)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6556)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5875)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7893)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10207)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7876)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9874)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9085)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5988)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24554)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36402)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7733)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11551)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10048)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5230)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5421)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10004)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7886)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9370)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8663)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46532)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6907)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12322)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5799)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14514)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12996)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12441)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14569)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12436)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10956)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9640)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16708)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8483)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5972)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9959)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6378)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11355)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7047)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46715)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13507)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8397)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9179)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17859)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18180)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15807)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6960)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31255)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9583)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7697)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21629)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34179)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33326)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14241)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35672)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13010)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15783)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33050)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26385)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41421)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40362)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20058)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33718)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29685)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33734)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18879)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22722)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49009)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11970)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11165)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18009)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15120)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22694)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16006)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13118)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19725)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant