Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Không Một Pháp Để Làm

28 Tháng Sáu 201714:36(Xem: 3813)
Không Một Pháp Để Làm

Không Một Pháp Để Làm


Nguyên Giác
ht-thich-tich-chieu-1912-2016

Bài này được viết để thành kính tưởng niệm bổn sư Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu (1912-2016), vị  trụ trì quá cố của Chùa Tây Tạng Bình Dương, trong tuần lễ tròn một năm Thầy viên tịch.

Một lần Thầy nói, phải Thấy Tánh trước, vì chưa Thấy Tánh thì làm gì cũng sai.

Một lần Thầy nói, phải thấy sóng chính là nước, phải thấy xuyến thoa vòng nhẫn chính là vàng; thấy như thế tức khắc sẽ không còn sinh tâm phân biệt.

Một lần Thầy nói, không hề có một pháp nào để tu hết và cũng không hề có một pháp nào để làm.

Một lần Thầy nói, khởi tâm là sai, không khởi tâm cũng sai.

Một lần Thầy nói, khi con nói con sợ không giữ trọn năm giới, vậy thì hãy giữ một giới thôi – đó là giữ tâm bình đẳng với tất cả các pháp.

Dưới đây, xin trích dẫn một số kinh và luận người viết mới đọc gần đây. Kinh Phật và lời bình của các thiền sư hệt như ngọc quý, như vàng ròng. Chữ của người viết chỉ là lời vụng, ý thô của một học nhân chưa đi tới đâu. Tất cả sai sót, sẽ chỉ là riêng của người viết.

...o…

Nơi đây, chúng ta có một câu hỏi, tại sao Đức Phật và 2,500 thánh tăng đi đứng nằm ngồi trong cõi này và thọ dụng được Niết Bàn ngay trước mắt, ngay bên tai, ngay trong tâm... trong khi người đời thường chúng ta nhìn đâu, nghe gì cũng thấy phiền não, thấy khổ, thấy bất như ý?

Như thế, có phải cõi Niết Bàn (Đức Phật và các  bậc thánh tăng đang thọ dụng) và cõi phiền não (đang vây khốn chúng ta) thực sự không cách biệt một sợi tóc?

Niết Bànkhông sinh và không diệt, trong khi cõi phiền não lại đầy những sinh diệt, nhìn đâu cũng thấy vô thườngbất như ý. Nghĩa là, trước mắt hẳn là Bất Nhị, tức là Không Hai. Chúng ta thấy trước mắtphiền não, là sinh diệt… nhưng Đức Phật thấy là an lạc vô cùng tận, và là vô sinh diệt.

Đọc trong Tạng Pali, chúng ta sẽ thấy có một bài kinh, ghi lời Đức Phật dạy rằng hai cõi này không cách biệt nhau, nhìn mặt hiển lộ sẽ thấy là vô thường, là sinh diệt; và nhìn mặt khó hiển lộ sẽ thấy là vô sinh diệt, là không hề biến dị. Hai cảnh giới sinh diệtvô sinh diệt đó không hề cách biệt nhau, vì sóng chính là nước.

Đó là Kinh AN 3.47 Sankhata Sutta. Bài kinh này chia 2 đoạn. Đoạn văn đầu là nói về 3 đặc tính của pháp hữu vi, tức cõi phiền não. Đoạn thứ 2 nói về 3 đặc tính của pháp vô vi, tức Niết Bàn, rằng “không có sự sinh khởi được thấy, không có sự hư diệt được thấy, và không có sự biến dị trong khi nó đang trú được thấy.”

Như vậy, có phải Thấy Tánh là Thấy Vô Thường ở đoạn văn đầu, hay là Thấy Cái Vô Sinh Diệt ở đoạn văn sau? Hay là thấy cả hai, không ngăn ngại nhau?

Bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi như sau:

“Bhikkhus, there are these three characteristics that define the conditioned. What three? An arising is seen, a vanishing is seen, and its alteration while it persists is seen. These are the three characteristics that define the conditioned.

“Bhikkhus, there are these three characteristics that define the unconditioned. What three? No arising is seen, no vanishing is seen, and no alteration while it persists is seen. These are the three characteristics that define the unconditioned.”

Trong khi Bhikkhu Bodhi dùng chữ “được thấy(seen), Bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu dùng chữ “được nhận ra” (discernible).

Bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu (1918-2012) là:

"— Có ba tướng hữu vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp hữu vi. Thế nào là ba?

Sanh được trình bày rõ, diệt được trình bày rõ, sự biến dị khi đang trú được trình bày rõ. Có ba tướng hữu vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp hữu vi.

— Có ba tướng vô vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp vô vi. Thế nào là ba?

Sanh không được trình bày rõ, diệt không được trình bày rõ, sự biến dị khi đang trú không được trình bày rõ. Có ba tướng vô vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp vô vi." (1)

Có nghĩa là, cõi phiền não cũng là Niết Bàn, cõi Ta bà cũng là Tịnh Độ. Nghĩa là, trong cốt tủy là Bất Nhị, là Không Hai.

…o…

Khi nói về Bất Nhị, không gì hay hơn là dẫn Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, bản dịch Việt của Thầy Tuệ Sỹ (2).

Nơi Chương 1 Quốc Độ Phật, nghe Đức Phật dạy rằng, khi Bồ Tát giữ thanh tịnh tâm tức là trang nghiêm thanh tịnh quốc độ Phật. Ngài Xá Lợi Phất chợt nêu thắc mắc rằng tại sao vẫn thấy cõi này vẫn là hầm hố bất tịnh. Đức Phật liền ấn ngón chân xuống đất, ba nghìn cõi đại thiên bỗng sáng rực, hóa hiện trang nghiêm thanh tịnh.

Nhìn lại bài Kinh AN 3.47 dẫn trên, nghĩa là, chỉ cần Đức Phật ấn ngón chân xuống đất, cõi Niết Bàn sẽ hiện ra trước mắt Ngài Xá Lợi Phất, xuyên suốt với cõi hữu vi này.

Có thể thấy tương tự thêm nữa, nơi Chương 12 Thấy Phật A Súc, nhưng lần này, Đức Phật dạy ông Duy Ma Cật hãy bưng cõi Diệu Hỷ của Đức Vô Động Như Lai tới trước mắt cho đại chúng nhìn thấy…

Nghĩa là, các cõi Niết BànTa Bà thực sự là tùy tâm mà hiện, dù là nói theo Kinh AN 3.47 hay Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết.

…o…

Trong cuốn “Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải” của ngài Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng (1263-1323), dựa vào bản Việt dịch của Thiền Sư Thích Duy Lực (1923-2000), xin trích lại 2 câu 38 và 39 như sau để nói lên nghĩa bất nhị giữa Niết Bànphiền não, rằng chớ có sinh tâm ghét cõi này (dù là cõi Ta Bà) và ưa cõi khác (dù có là cõi Phật), vì trước mắt và bên tai thực sự vẫn là Niết Bàn tự tâm đang hiển lộ ra (và theo Kinh AN 3.47 là rất khó thấy, khó nhận ra).

Trích:

“38. DỤC THỦ NHẤT THỪA, VẬT Ố LỤC TRẦN

DỊCH: Muốn chứng lấy Nhất Phật Thừa, chớ nên chán ghét lục trần…

LỜI NGHĨA GIẢI: Tổ Sư nói "DỤC THỦ NHẤT THỪA, VẬT Ố LỤC TRẦN", người nghĩa giải cho rằng: NHẤT THỪA là biệt danh của tự tâm, lục trần, lục thức, lục cănbiệt hiệu của tự tâm, đâu có thể chứng nhất thừa mà ghét lục trần! Thế thì giống như yêu tay chân mà bỏ vai lưng vậy. Phải biết, Ngộ tâm này thì lục trần tức là nhất thừa, mê tâm này thì nhất thừa tức là lục trần. Bùi Tướng Quốc nói: "Nghịch nó tức phàm, thuận nó tức thánh". Kinh Lăng Nghiêm nói: "A Nan, ngươi muốn biết cái câu sinh vô minh, là gốc thắt kết khiến ngươi luân hồi trong sanh tử ấy, chính là lục căn của ngươi chứ chẳng phải vật khác. Ngươi lại muốn biết đạo vô thượng Bồ Đề khiến ngươi mau chứng quả tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của ngươi chứ chẳng phải vật khác".…

39. LỤC TRẦN BẤT Ố, HOÀN ĐỔNG CHÁNH GIÁC

DỊCH: Chẳng cho lục trần là tốt hay xấu, thì đồng như chánh giác…

LỜI NGHĨA GIẢI: Tổ Sư nói: "LỤC TRẦN BẤT Ố, HOÀN ĐỔNG CHÁNH GIÁC", người nghĩa giải cho rằng: Chẳng có lục trần, cũng chẳng có chánh giác, đều chỉ là diệu tâm sáng tỏ. Gọi là lục trần cũng được, gọi là chánh giác cũng được. Ông nếu ở nơi diệu tâm sáng tỏ này có chỗ không rõ, thì gọi là chánh giác cũng không rõ, đâu có việc gì khác? Chỉ cái rõ và không rõ này, khiến Phật Tổ nhọc lưỡi mỏi miệng phân ra những điều hơn kém, đều do chẳng tin tự tâm mà ra. (3)

(ngưng trích)

Nghĩa là, từ Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán (496?- 606) cho tới bản chú giải của ngài Trung Phong, đều nói rằng cõi này [hiển lộ qua lục trần] không có cái gì nên phân biệt tốt xấu, tức khắc sẽ hiển lộ ra chánh giác [Niết Bàn tự tâm]. Nghĩa là, cũng trở về Kinh AN 3.37 và Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết.

…o…

Đôi khi đọc trong Thiền sử, chúng ta nghe câu nói: hễ tác ý là sai. Nghĩa là, mình cố ý khởi tâm gì đi nữa, cũng là sai, dù là khởi tâm muốn làm Phật, muốn làm Tổ, muốn giải thoát, vân vân.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, có Kinh SN 1.1 Ogha-tarana Sutta ghi lời Đức Phật dạy rằng như người đứng giữa dòng, muốn qua bờ bên kia phải khéo, vì “hễ bước tới, hay đứng lại đều sẽ bị nhận chìm” (When I pushed forward, I was whirled about. When I stayed in place, I sank. And so I crossed over the flood without pushing forward, without staying in place.)

Nơi đây, chúng ta không có ý muốn nói hễ khởi tâm tác ý là sai. Duy chỉ muốn nói rằng, một số Kinh ghi lời dạy tác ý, một số Kinh ghi lời dạy chớ tác ý. Vì trong nhiều Kinh, Đức Phật dạy phải như lý tác ý, nghĩa là phải khéo tác ý, khéo biện biệt… Nhưng Thiền Tông (Tạng, Hoa, Việt, Nhật, Hàn…) khi dạy pháp an tâm, không tập trung vào “tác ý.” Vì chủ yếu phải Thấy Tánh trước, rồi mới tu sau. Trong khi đó, hễ tác ý (dù bất kỳ tác ý gì) là tâm nguyên sơ sẽ khởi lên một lớp sương mù ngăn che, dù sương mỏng cách mấy đi nữa, cũng là một màn sương ngăn cách thực tại hiện tiền trước mắt và bên tai.

Thậm chí, khi truyền dạy Thiền Tông cũng không dùng lời, hoặc dùng lời rất ít, vì bất kỳ lời nào cũng trải qua một khái niệm hóa, ngăn cách thực tại hiện tiền. Cái thấy trước mắt, nó như thế là như thế, làm sao dùng lời nói được?

Kinh Tương Ưng Bộ có 3 kinh kế nhau nói về hành, về tác ý: SN 12.38, SN 12.39, SN 12.40. Trong cả ba kinh, đều nói, người tu giải thoát chớ nên khởi tác ý gì cả.

Nơi đây, chúng ta trích một đoạn trong Kinh SN 12.40, bản dịch của Bhikkhu Bodhi:

But, bhikkhus, when one does not intend, and one does not plan, and one does not have a tendency towards anything, no basis exists for the maintenance of consciousness. When there is no basis, there is no support for the establishing of consciousness. When consciousness is unestablished and does not come to growth, there is no inclination. When there is no inclination, there is no coming and going. When there is no coming and going, there is no passing away and being reborn. When there is no passing away and being reborn, future birth, aging-and-death, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair cease. Such is the cessation of this whole mass of suffering.” (4)

 

Có thể dịch như sau:

Nhưng, chư tăng, khi một người không khởi ý định, không lập kế hoạch, và không có ý hướng về bất cứ gì, tất sẽ không có sở duyên cho thức an trú. Khi không có sở duyên, sẽ không có chỗ an trú cho thức. Khi thức không an trú, và [thức] không  tăng trưởng, sẽ không có nghiêng về [bất kỳ pháp nào]. Khi không có nghiêng về, sẽ không có tới và không có đi. Khi không có tới và không có đi, sẽ không có chết và không có tái sanh. Khi không có chết và không tái sanh, tất cả những tương lai sanh, già chết, sầu não, than khóc, đau đớn, bất như ýtuyệt vọng đều kết thúc. Như thế là tịch diệt toàn bộ khối đau khổ này.”

Kinh vừa dẫn, nghe y hệt Kinh Bahiya Sutta, khi Đức Phật dạy ngài Bahiya: “…Trong cái được thấy hãy chỉ là cái được thấy, trong cái được nghe hãy chỉ là cái được nghe…”

Và cũng y hệt Kinh Sandha Sutta - AN 11.10, ghi lời Đức Phật dạy rằng tu như ngựa giỏi là những vị thiền tư mà không y chỉ vào bất kỳ pháp nào:

“…Vị này không suy nghĩ dựa vào đất nước lửa gió. Vị này suy nghĩ không dựa vào không vô biên xứ, vào thức vô biên xứ, vào vô sở hữu xứ, và phi tưởng phi phi tưởng. Vị này không dựa vào thế giới này và thế giới khác và suy nghĩ. Vị này không dựa suy nghĩ vào bất cứ những gì  được thấy, được nghe, được kinh nghiệm, được thức tri và được tìm kiếm với tâm. Dù vậy, vị đó vẫn suy nghĩ…”(Dịch theo Ni Trưởng Sister Uppalavanna)

Do vậy, khi nói rằng có một pháp nào để tu, đều không phải là Thiền Tông.

Nơi đây cũng nên dẫn ra Kinh AN 6.63 Nibbedhika Sutta, trong đó Đức Phật nói:

“Intention, I tell you, is kamma. Intending, one does kamma by way of body, speech, & intellect.” (Ta nói, tác ý là nghiệp. Khi tác ý, chúng sinh gây nghiệp qua thân, khẩu, ý.”

Khi tác ý đúng, phải là tu theo Bát Chánh Đạo. Đó là chặng đường quen thuộc.

Nhưng với Thiền Tông, người tu nên là, không thấy pháp nào để tác ý. Cho nên, Kinh Lăng Nghiêm nói rằng hễ “tri kiến lập tri, tức vô minh bổn” (thấy biết, mà dựng lập thấy biết, đó là gốc vô minh).

Có nghĩa là gì? Có nghĩa là, hãy kham nhẫn với lục trần, nghĩa là kham nhẫn với bất kỳ những gì trong thế giới này. Kham nhẫn là gì? Là pháp Như Thị. Các pháp như thế thì cứ như thế.

Trong Aṅguttara Nikāya, có 3 kinh nằm kế nhau, đều nói về ngựa giỏi và người tu giỏi:

- 5. Paṭhama - ājānīyasuttaṃ - First on thoroughbreds

- 6. Dutiya - ājānīyasuttaṃ - Second on thoroughbreds

- 7. Tatiya - ājānīyasuttaṃ - Third on thoroughbreds

Trong đó, cuối ba kinh trên đều ghi lời Đức Phật dạy:

"Here, bhikkhus, the bhikkhu endures, forms, sounds, smells, tastes, touches and thoughts. Bhikkhus, the bhikkhu endowed with these six things is worshipful..." (Chư tăng, nơi đây, chư tăng hãy kham nhẫn sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Các nhà sư nào kham nhẫn như thế sẽ đáng tôn kính…)

Khởi đầu nhóm kinh đó là “Kinh 1. Paṭhama - āhuneyyasuttaṃ - First on worshipfulness” với bản dịch của Ni Trưởng Sister Uppalavanna, trích:

“Here, bhikkhus, the bhikkhu seeing a form is neither pleased or displeased abides mindful and aware with equanimity. Hearing a sound, ... re ... scenting a smell, ... re ... tasting a taste, ... re ... cognizing a touch with the body, ... re ... and cognizing an idea, is neither pleased nor displeased, abides mindful and aware with equanimity.

Bhikkhus, the bhikkhu endowed with these six things is worshipful, suitable for hospitality, gifts and to honour with clasped hands, the incomparable field of merit for the world...” (5)

Dịch:

Chư tăng, nơi đây, khi nhà sư nhìn thấy một hình sắc, mà không ưa, không ghét, vẫn giữ tâm tỉnh thức, bình đẳng.  Khi nghe một âm thanh… ngửi một mùi… nếm một vị… sờ chạm với thân… nhận ra một ý niệm… mà không ưa, không ghét, vẫn giữ tâm tỉnh thức, bình đẳng.

Chư tăng, vị sư có sáu pháp như thế xứng đáng tôn kính, cung thỉnh, cúng dườngchắp tay vinh danh, phước điền vô lượng cho thế giới…”

Đó là ý của một tâm bình đẳng.

…o…

Hầu hết các kinh trong nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời của chư tăng, khi Đức Phật sinh tiền, đều mang phong cách an tâm của Thiền Tông.

Nơi đây, chúng ta sẽ dịch 3 bài kệ trong Suddhaṭṭhaka Sutta ở Kinh Tập (Sutta Nipāta). Nhóm 3 bài kệ này mang ký số 793, 794, 795.

Bản Việt dịch nơi đây sẽ tham khảo từ 6 bản dịch của Thanissaro Bhikkhu, John D. Ireland, Bhante Varado, Khantipalo, Gil Fronsdal, Hòa Thượng Thích Minh Châu (6)

Dịch:

“Trong tất cả những gì được thấy, hay được nghe, hay được cảm thọ, các vị này không có gì để đối kháng cả. Với tâm cởi mở, các vị này chỉ nhìn các pháp như các pháp là như thế. Nào có ai mô tả gì được về các vị này.

Các vị này không dựng lập bất kỳ một tri kiến gì, cũng không ưa thích đề cao bất cứ những gì, cũng không tự xưng là thanh tịnh tối thượng gì. Nới lỏng sợi dây tham đắm họ đang bị ràng buộc, các vị này không còn muốn bất cứ những gì trên đời.

Đã biết, đã thấy, hoàn toàn không có gì để nắm giữ -- vị Phạm chí chân chính này đã vượt qua tất cả những biên giới, không còn tâm ưa thíchlôi cuốn, không còn tâm ghét bỏ gì để đối kháng. Không có gì nơi đây [để vị này] nắm giữ như tối thượng.”

Đọc kỹ các bài kệ trên, và rất nhiều bài kệ khác trong Phẩm Tám của Kinh Tập, chúng ta sẽ thấy đó chính là Thiền Tông. Gọi là vô tâm cũng được, không vô tâm cũng được.

…o…

Nơi đây, xin trích Bá Trượng Ngữ Lục, bản dịch của ngài Duy Lực, nói về pháp yếu của đốn ngộ:

“Tăng hỏi: Thế nào là pháp yếu của đại thừa đốn ngộ?

Sư nói: Các người trước ngưng các duyên, thôi nghĩ muôn việc, thiện và bất thiện thế gianxuất thế gian, tất cả các pháp chớ ghi nhớ, chớ duyên niệm buông bỏ thân tâm khiến cho tự tại, tâm như gỗ đá chẳng còn phân biệt, tâm vô sở hành. Tâm địa nếu không thì huệ nhựt tự hiển, như đám mây tan thì mặt trời hiện ra. Hễ ngưng nghỉ tất cả phan duyên những hình thức tham sân, ái thủ, cầu tịnh đều sạch đối với ngũ dục, bát phong chẳng bị lay động, chẳng bị kiến văn giác tri trói buộc, chẳng bị các cảnh xấu đẹp mê hoặc, tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, ấy là người giải thoát. Đối với tất cả cảnh giới, tâm chẳng tịnh chẳng loạn, chẳng nhiếp chẳng tán, thấu qua tất cả thanh sắc, chẳng có trệ ngại gọi là đạo nhân.

Thiện ác thị phi đều chẳng tác ý, cũng chẳng mến một pháp, cũng chẳng bỏ một pháp, gọi là người đại thừa. Chẳng bị tất cả thiện ác, không hữu, cấu tịnh, hữu vi vô vi, thế gian xuất thế gian, phước đức trí huệ ràng buộc, gọi là Phật huệ. Thị phi tốt xấu, đúng lý sai lý, các tri kiến tình thức đều sạch hết, chẳng có trói buộc, chẳng có giải thoát, nơi nơi tự tại, gọi là bồ tát mới phát tâm liền lên địa vị Phật.” (7)

 

Và bây giờ nói tới Thiền Việt Nam, về một đoạn vấn đáp của Thiền sư Vô Ngôn Thông (759?-826) nói về ý nghĩa bình đẳng, được nhà sư Nguyễn Thế Đăng ghi trong bài viết tựa đề “Tất Cả Chúng Sanh Đều Có Phật Tánh” – trích như sau:

Thấy Phật tánh tức là thấy tánh và tướng của sanh tử là Niết-bàn. Vị tổ thứ hai của dòng Thiền Vô Ngôn ThôngCảm Thành (thế kỷ thứ 9) khi có vị tăng đến hỏi, “Thế nào là Phật?”, Sư đáp, “Khắp tất cả chỗ.” Lại hỏi, “Thế nào là tâm Phật?”, Sư đáp, “Chẳng từng che dấu.”

“Khắp tất cả chỗ” và “Chẳng từng che dấu” là sự bình đẳng rốt ráo của Phật tánh. Cho đến Nhất-xiển-đề cũng có Phật tánh, như kinh nói. Đây là sự bình đẳng, hay không hai, bất nhị của Niết-bàn và sanh tử, sự bình đẳng hay không hai của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Chúng ta đang sống trong tánh bình đẳng, tánh không hai ấy của Phật tánh.(8)

Như thế, khi chúng ta ngồi, chính là Phật Tánh đang ngồi; khi chúng ta đứng, chính là Phật Tánh đang đứng. Trước mắtPhật Tánh hiển lộ, bên tai là Phật Tánh hiển lộ, dù có gọi cõi này là Niết Bàn hay phiền não cũng vẫn là Phật Tánh đang hiển lộ. Gọi là gì cũng đúng. Gọi tất cả các pháp là Không cũng đúng, gọi là Vô Tướng cũng đúng, im lặng không lời cũng đúng. Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.

Nguyên Giác

GHI CHÚ:

(1) Kinh AN 3.47. Bản của Bhikkh Bodhi: https://suttacentral.net/en/an3.47

Thanissaro Bhikkhu: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an03/an03.047.than.html

Bản HT Thích Minh Châu: https://suttacentral.net/vn/an3.47

(2) Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết. https://thuvienhoasen.org/p16a1638/kinh-duy-ma-cat-so-thuyet

(3) Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải: https://thuvienhoasen.org/a9867/tin-tam-minh-tich-nghia-giai

(4) Kinh SN 12.40: https://suttacentral.net/en/sn12.40

(5) Anguttara Nikaya: http://awake.kiev.ua/dhamma/tipitaka/2Sutta-Pitaka/4Anguttara-Nikaya/Anguttara4/6-chakkanipata/001-ahuneyyavaggo-e.html

(6) Kinh Tập, Chương Bốn, Phẩm Tám.

Thanissaro Bhikkhu: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.04.than.html

John D. Ireland: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.04.irel.html

Bhante Varado: http://suttas.net/english/suttas/khuddaka-nikaya/sutta-nipata/atthakavagga%20-%20php%20version%201.4/04-pure.php  

Khantipalo: https://suttacentral.net/en/snp4.4

Gil Fronsdal (sách bản giấy: The Buddha Before Buddhism, NXB Shambala, 2016)

HT Thích Minh Châu: https://thuvienhoasen.org/p15a1547/2/chuong-04-pham-tam 

(7) Bá Trượng Ngữ Lục: https://thuvienhoasen.org/p37a7557/ba-truong-ngu-luc

(8) Tất Cả Chúng Sanh Đều Có Phật Tánh: https://thuvienhoasen.org/a19179/tat-ca-chung-sanh-deu-co-phat-tanh

.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 35507)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19649)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11680)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23163)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13340)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5840)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10585)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10331)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10020)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20836)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6198)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6846)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8881)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6009)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18145)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6345)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6721)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6548)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12989)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5860)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7877)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10190)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7860)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9856)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9067)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5976)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24532)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36362)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7712)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11538)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10029)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5223)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5414)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9993)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7875)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9353)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8647)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46486)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6892)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12281)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5793)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14478)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12974)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12415)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14537)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12390)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10948)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9623)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16671)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8463)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5953)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9946)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6371)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11340)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7040)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46682)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13486)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8382)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6850)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9166)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6178)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6893)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17824)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18158)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15775)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6941)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31217)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9570)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7679)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21609)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34160)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33289)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14230)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35630)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13001)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15765)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13675)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33022)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26346)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41401)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40341)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20032)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33689)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29674)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33721)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18862)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22680)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22409)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48986)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11958)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11156)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22495)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17990)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15110)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22673)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15995)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13107)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19718)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12060)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17651)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant