Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương II: VƯƠNG QUỐC MAURYA DƯỚI THỜI ASOKA

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8757)
Chương II: VƯƠNG QUỐC MAURYA DƯỚI THỜI ASOKA

A DỤC VƯƠNG (ASOKA)

CUỘC ĐỜISỰ NGHIỆP

 80aducvuong

THÍCH TÂM MINH

 

---o0o---

 

Chương II

VƯƠNG QUỐC MAURYA DƯỚI THỜI Asoka

Asoka lên ngôi thừa hưởng một vương quốc to lớn do ông nội ông, Chandragupta, sáng lập và do cha ông, Bindusàra, tiếp tục củng cốmở rộng. Trong khoảng thời gian tám năm đầu mới lên ngôi, giống như Chandragupta và Bindusàra, Asoka đã áp dụng chính sách xâm lăng nhằm mở rộng đế quốc Maurya. Trận đánh chiếm xứ Kalinga thuộc vùng Orissa ngày nay là một bằng chứng về chính sách xâm lăng của Asoka. Nhưng chiến thắng Kalinga cũng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng tronglịch sử triều đại Asoka: chấm dứt chính sách xâm lược, mở ra một kỷ nguyên mới về hòa bình tiến bộ xã hội, phát triển tôn giáo, ổn định chính trị, quan hệ ngoại giao và nhiều lĩnh vực khác của vương triều Maurya. Kể từ sau trận Kalinga, nghĩa là từ 262 trước Công nguyên trở đi, Asoka từ bỏ mọi ý đồ xâm lăng và áp dụng một chính sách hòa bình triệt để. Trong các bia ký của mình, Asoka tỏ ra hối tiếc về việc xâm lăng Kalinga và xác nhận : “ Tiếng trống thúc quân ( bheri-ghosa ) ngày nào nay được thay thế bởi tiếng gọi Chánh pháp ( Dharma-ghosa )”.[45] Việc Asoka áp dụng chính sách như thế nào để mang lại thái bình cho xứ sở ông và giữ vững quan hệ hòa hiếu với các lân bang là vấn đề sẽ được bàn đến ở các chương tiếp theo. Trong phạm vi chương này; chúng ta sẽ tập trung xem xét hai vấn đề chính, phạm vi lãnh thổ và cơ cấu tổ chức- quản lý nhà nước dưới triều Asoka.

I.Phạm vi lãnh thổ:

Vphạm vi lãnh thổ do Asoka cai quản, nguồn tài liệu bia ký và trụ đá của ông cung cấp cho chúng ta khá nhiều thông tin. Các bia ký và trụ đá của ông được tìm thấy tại nhiều nơi khác nhau thuộc Ấn Độ ngày nay và tại các quốc gia lân cận nói rõ phạm vi rộng lớn của vương quốc Maurya dưới thời Asoka. Trước hết, chuyển từ đông sang tây, chúng ta có hai văn bản, bản bắc và bản nam, về 14 bia ký Asoka được tìm thấy tại vùng đông nam, gần vịnh Bengal. Trong số này, bản bắc được khắc gần ngôi làng Dhauli, thuộc quận Purì, vùng Orissa. Bản nam được ghi tại thị trấn Jaugadà, thuộc quận Ganjàm, bang Madra. Tất cả các bia ký này được dựng tại vùng Kalinga vừa mới chiếm cứ, thuộc đông nam Ấn Độ. Chuyển về phía bắc, chúng ta có văn bản thứ ba về các bia ký của Asoka được khắc trên một tảng đá gần ngôi làng Kàlsì , thuộc quận Dehrà Dun. Hướng về phía tây, ta có hai văn bản, một được khắc tại Manserà, quận Hazàrà và một tại Shàhbàzgarhì, thuộc thủ phủ Peshàwar, Pakistan. Chuyển sang bờ biển phía tây, chúng ta chú ý tới một văn bia được phát hiện gần Junàgarh thuộc Kàthiàwàr và một văn bia khác tại Sopàrà thuộc quận Thànà, cách Bombay 37 dặm về hướng bắc. Gần đây người ta lại phát hiện một loạt 14 bia ký tại các biên giới phía nam lãnh thổ Asoka, tức YerragudI, thuộc quận Kurnool, bang Madras. Vào năm 1903, Levis Rice tìm thấy ba văn bia nằm gần nhau tại quận Chitaldrug thuộc Bắc Mysore. Tất cả những bia ký này và những địa điểm chúng được phát hiện giúp chúng ta hiểu rõ phạm vi rộng lớn của vương quốc Aśka.

Nội dung các bia ký Asoka cung cấp thêm cho chúng ta những địa danh hay vùng lãnh thổ thuộc vương quốc Maurya. Trong các bia ký II và XIII, Asoka thông báo cho chúng ta về các vị vua trị vì bên ngoài Ấn Độ như Yavana, Amtiyoka, Turumàya, Amtekina, Maga và Alikasumdara. Về phía nam đế quốc Asoka, nằm trong và ngoài Ấn Độ, có các xứ sở như Chola, Pàndya, Keralaputra, Sàtiyaphutra và Tambapamnì. Các bia ký V và XIII nói đến các địa danh xa xôi như Yona, Kamboja, Gamdhàra, Ràstika-Petenika, Bhoja-Petenika, Nàbhaka- Nàbhapamti, Amdhra, và Pàrimda. Theo công trình nghiên cứu và khảo sát của D.R.Bhanarkar, trừ các xứ sở như Chola, Pàndya, Sàtiyaputra và Keralaputra, tất cả các xứ sở còn lại đều thuộc quyền cai quản của Asoka. [46]

Một nguồn thông tin khác có thể giúp thêm cơ sở cho việc xác định biên giới vương quốc Maurya dưới thời Asoka là các trụ đá và bảo tháp ( Stùpa ) của ông được tìm thấy tại nhiều nơi khác nhau của Ấn Độ và các lân bang. Các trụ đá Asoka dược phát hiện ở Punjab, Kauśàmbi, Sañchi, Sàrnàth, tại Rummindeì và ở Nigliva thuộc Tarài, Nepal. Huyền trang ( Yuan Chwang ) nói đến các bảo tháp Asoka được xây dựng ở Kapis ( Kafiristan), Nagar ( Jalalabad) và ở Udyàna thuộc vùng biên giới tây bắc, tức Đông Afghanistan. [47]

Ngoài ra, các tài liệu Hy Lạp nói về các thuộc địa của triều đại Chandragupta cũng giúp chúng ta hình dung phạm vi rộng lớn của vương quốc Maurya dưới thời Asoka. Theo các tài liệu này thì không bao lâu sau khi Alexander qua đời, những cuộc xâm lăng Ấn Độ của ông ở phía đông Indus, vượt Punjab trải rộng cho đến sông Hyphasis hay Bias đều nhanh chóng rơi vào tay Chandragupta. Bốn chức phó vương các lãnh địa Aria, Arachosia, Gedrosia và Paropanisadai cũng được Seleukos Nikator nhượng lại cho Chandragupta vào năm 305 trước Tây lịch. Như vậy biên giới Maurya dưới thời Chandragupta đã được mở rộng cho tới dãy Hindu Kush và các quốc gia rộng lớn ngày nay như Afghanistan, Baluchistan và Makra, cùng với vùng biên giới tây bắc đều được sáp nhập vào đế quốc Maurya. Ấn Độ lúc bấy giờ bao gồm các thành trì nổi tiếng như Kabul, Zabul, Kandahar và Heart. B.M. Barua đồng nhất các xứ sở Kashmir, Nepal, Butan và Sikkim ngày nay với các sở Yona, Kàmboja, Gàndhàra và Nàbhaka được nói đến trong bia ký Asoka .[48] Theo V.A Smith thì Bindusàra tiếp tục giữ vững lãnh thổ Maurya rộng lớn do Chandragupta để lại. [49] Đến thời Asoka, vương quốc Maurya lại tiếp tục được mở rộng ra ở phía đông nam, sau chiến thắng Kalinga.

Căn cứ các tài liệu nêu trên thì Maurya dưới thời Asoka là một vương quốc rộng lớn, bao gồm các quốc gia ngày nay như Pakistan, Afghanistan, Butan, Sikkim, Nepal và toàn bộ Ấn Độ hiện tại. B.M.Barua mô tả đế quốc Asoka theo các hướng địa lý như sau : phía bắc được giới hạn bởi dãy Himalaya; phía nam tiếp giáp với lãnh thổ độc lập Chola, Pàndya, Sàtiyaputra, Keralaputra và Tàmraparnya; phía đông trải rộng cho đến tận vịnh Bengal; phía tây tiếp giáp với lãnh thổ Tây Á Antiyoka.[50]

Theo Will Durant, xứ đó là một tam giác mênh mông , đáy ở phía Bắc , tức dãy Himalaya quanh năm tuyết phủ, đỉnh ở phía Nam, tức đầu đảo Tích Lan, quanh năm nóng như thiêu. Phía Tây là Ba Tư mà dân chúng, ngôn ngữ, thần thánh đều rất gần gũi với Ấn Độ thời Veda, cơ hồ hai xứ là bà con chú bác với nhau. Nếu chúng ta theo biên giới phía Bắc Ba Tư mà tiến về phương Đông thì sẽ gặp Afghanistan, nơi mà nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp và Ấn Độ dung hòa với nhau trong một thời gian rồi tách biệt nhau ra không còn bao giờ gặp lại nhau nữa; tiến lên phía Bắc chút nữa, đây là Kaboul nơi xuất phát những cuộc xâm lăng đẩm máu Hồi và Mông Cổ, và hai dân tộc đó làm chủ Ấn Độ trong ngàn năm. Ở phía trong biên giới, đây là Peshawer chỉ cách Kaboul một ngày ngựa. Bạn nhận thấy đất Nga ở xứ Kashmir thật sát Ấn Độ, thông với Ấn bằng những đèo Hindoukouch. Ở phía cực Bắc Ấn Độ là tỉnh Cachenire. Ở phía Nam Cahenire là miền Pendjap với châu thành Lahore và kinh đô mùa hè của Ấn Độ, tức Simla. Tiến về phía Đông thì tới xứ Miến Điện với những ngôi chùa giát vàng ở Rangoon và con đường Mandalay chói chang ánh nắng. Phía Tây là tỉnh Bombay với những châu thành dân cư đông như kiến. Ở phía Đông và phía Nam là tiểu quốc Hyderabad và Mysore mà các vua chúa đều có óc duy tân tiến bộ. Dọc theo bờ vịnh Bengale là tỉnh Madras. Sau cùng là chiếc cầu Adam- một hàng mỏm đá ló một nửa lên khỏi mặt nước- đưa ta tới đảo Tích Lan. [51]

Bản đồ Ấn Độ mà sử gia Will Durant vừa mô tả chỉ được thực hiện không lâu trước hoặc sau ngày Ấn Độ độc lập nhưng cũng giúp chúng ta hình dung sự sộng lớn của lục địa này dưới thời Asoka như thế nào bởi những địa danh được đề cập xưa kia từng là đất của Ấn Độ. Rõ ràng với một lãnh thổ rộng lớn như vậy việc điều hành và cai quản chắc chắn sẽ gặp phải không ít khó khăn. Tiếp theo chúng ta sẽ xem Asoka đã thiết lập hệ thống tổ chức và quản trị như thế nào để điều hànhquản lý quốc gia to lớn của mình.

II.Tổ chức nhà nước và hệ thống quản lý :

Về phương diện tổ chức và quản lý, bộ luận Arthaśàstra tương truyền do Kautilya, một đại thần thuộc vương triều Chandragupta, biên soạntài liệu do Mégasthènes, sứ thần của nah2 vua Syrie Seleukos Nikator, để lại cung cấp cho chúng ta ít nhiều hiểu biết về hệ thống điều hành nhà nước và thuật quản lý của triều đại Maurya đầu tiên. Tuy nhiên để hiểu rõ cơ cấu tổ chức và quản lý nhà nước dưới thời Asoka, các bia ký của ông là nguồn thông tin chính xácđáng tin cậy. Vương quốc Maurya là một nhà nước theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền, đứng đầuquốc vương, kế đến là hội đồng triều thần gồm các quan lại phụ giúp quốc vương trông coi việc triều chính .[52] Các bia ký cũng nói đến các phân ban hay bộ thuộc guồng máy nhà nước trung ương như phân ban trông coi về pháp luật, phân ban trông coi về đạo đức xã hội, phân ban trông coi về biên cương hay quốc phòng, phân ban trông coi các đô thị, phân ban trông coi các vấn đề về phụ nữ, phân ban trông coi việc chăn nuôi. Xét tài liệu bia ký đề cập việc Asoka cho thiết lập hệ thống chăm sóc y tế ở khắp nơi trong nước và ở nước ngoài, B.M.Barua cho rằng hẳn phải có một phân ban hay bộ nhằm trông coi công tác này. [53] Ta cũng có thể kể thêm một phân ban chăm lo các vấn đề an sinh phúc lợi xã hội, bởi các hoạt động này rất được chú trọng và mở rộng dưới thời Asoka, như tài liệu bia ký của ông đã nói rõ. Bia ký Asoka cũng nhắc đến các quan chức gọi là dùta ( sứ giả hay đại sứ ) đảm nhiệm công tác đối ngoại. Đứng đầu các phân ban hay bộ có các quan chức gọi là Mahàmàtra.

Vương quốc Maurya mà Pàtaliputra ( Patna ngày nay) là kinh đô được chia làm nhiều địa hạt khác nhau; mỗi điạ hạt lại được chia thành nhiều trấn hay quận huyện và do một vị phó vương ( uparàja ) hay người đại diện trông coi. Chúc vụ phó vương hay đại diện do nhà vua cắt cử. Dưới thời Bindusàra, Asoka từng giữ chức phó vương vùng Ujjain hay Avantì. Làng xã la đơn vị hành chánh nhỏ nhất của tố chức nhà nước dưới thời Asoka. Ta có được thông tin này nhờ trụ đá Rummindeì, ghi sự kiện 20 năm sau khi lên ngôi, Asoka ngự giá chiêm bái thánh tích Lumbinì và ban lệnh giảm tô thuế cho dân làng Lumbinì bởi “đức Thế Tôn đã ra đời tại đây .”

Về Pàtaliputra, được khởi dựng từ thời Udaya, cháu nội vua Ajàtasatru, [54] sứ thần Syrie là Mégas-thènes, đến Ấn Độ dưới thời Chandragupta, mô tả như sau: Kinh đô dài khoảng mười lăm cây số, rộng ba cây số, có hình dáng một hình bình hành, có tường thành bằng gỗ bao bọc chung quanh và các lỗ châu mai để bắn cung tên từ bên trong ra. Thành gồm 570 vọng tháp và 64 cổng lớn, mặt trước có hào sâu phòng thủ và cũng dùng làm cống thoát nước cho cả thành phố. Cung điện nhà vua tuy cất bằng gỗ nhưng đẹp hơn các cung điện ở Suse và Ecbatane, chỉ kém các cung điện Perśepalis. Các cột trụ trong cung điện đều bọc vàng, vẽ những hình chim và lá cây, trong cung bày đồ đạc vàng son rực rỡ, ở bên ngoài cung có nhiều hồ dùng nuôi cá kiểng.[55]

Về cơ cầu tổ chức, bộ luận Arthaśàstra cho biết Pàtaliputra gồm một hội đồng ba mươi nhân viên chia làm sáu ủy ban. Một ủy ban điều khiển kỹ nghệ; một ủy ban lo về ngoại kiều, kiếm chỗ ở cho họ, hướng dẫn họ mà cũng dò xét sự di chuyển của họ; một ủy ban giữ sổ sinh sổ tử; một ủy ban cấo giấy phép cho thương nhân, quy định việc bán các sản phẩm tự nhiên, kiểm soát các đồ đo lường; một ủy ban nữa kiểm soát việc bán các hóa phẩm; và một ủy ban khác lo việc đánh thuế 10% vào mọi việc giao dịch. Will Durant dẫn lời Havell thừa nhận; “ Tóm lại, ở thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, Pàtaliputra có vẻ là một đô thị tổ chức và cai trị rất hoàn hảo theo những quy tắc tốt nhất của môn xã hội học.” Sử gia này cũng trích lời V.A.Smith khen ngợi cơ cấu hành chánh của Pàtali-putra : “ Sự tuyệt hảo của các biện pháp đó đáng làm cho ta ngạc nhiên dù ta chỉ mới xét các đại cương mà thôi, nếu đi sâu vào chi tiết ta càng thán phục rằng hơn ba trăm năm trước Công nguyên, làm sao Ấn Độ đã sáng lậpthực hành được một nền hành chánh như vậy.” [56]

Sang thời Asoka, Pàtaliputra dường như được mở rộng ra và các công trình kiến trúc gỗ được thay thế bằng các kiến trúc sa thạch. Pháp Hiển ( Fashien ), một tăng sĩ Phật giáo Trung Hoa đến Ấn Độ đầu thế kỷ thứ năm , mô tả cung điện của Asoka như sau; “ Cung điện và các sảnh đường nằm ở trung tâm thành phố đến nay ( nghĩa là khoảng 650 năm sau ) vẫn còn như xưa, được xây dựng theo lối xếp chồng các khối đá với các tường thành và các cổng bao quanh và được trang trí với nghệ thuật khắc chạm duyên dáng cùng các công trình điêu khắc lắp ghép tinh xảo.” [57] Tường thuật này của Pháp Hiển tỏ cho thấy Asoka đã dùng đá để xây cất cung điện thay cho vật liệu bằng gỗ của thời Chandragupta. Công cuộc khai quật cổ thành Pàtaliputra được tiến hành bởi P.C. Mukharji và sau đó bởi tiến sĩ D.B.Spooner đã phát hiện một số dấu vết còn lại của cung điện Asoka,những mảnh vỡ của các cột trụ bằng đá bóng nhẵn mà người ta cho là thuộc kiến trúc cung điện của ông. Hơn thế, người ta còn phát hiện một sàn gỗ nằm sâu khoảng năm mét dưới lòng đất bên trên phủ một lớp đất dày ba mét tiếp theo là một lớp tro trong đó các mảnh vỡ của những chiếc cột được tìm thấy. Các chứng cứ khảo cổ này có thể giải thích sự kiện Asoka đã dùng đá để thay thế các kiến trúc bằng gỗ như Pháp Hiển đã mô tả.

Chúng ta không được biết đích xác có bao nhiêu điạ hạt trong đế quốc rộng lớn của Asoka. Ngoài Pàtaliputra, các bia ký của ông chỉ thông báo cho chúng ta về bốn lãnh thổ quan trọng do các thành viên hoàng gia cai quản. Đó là Ganghàra phía tây bắc với trung tâm Taxilà, Kalinga, phía đông nam với thủ phủ là Tosalì, Ujjain ở phía tây và Suvarnagiri ở phía nam. [58] Mahàvamsa thông báo Asoka từng đề cử Tisya, em trai ông,làm phó vương ( uparàja ) nhưng không cho biết thuộc địa hạt nào. Pháp Hiển ( F-hsien ) nói đến việc hoàng tử Dharmavivardana giữ chức vụ phó vương vùng Gandhàra. [59] Theo Divyàvadàna, Dharmavivardana là tên gọi khác của hoàng tử Kunàla được Asoka đề cử làm phó vương Taxilà, thủ phủ Gandhàra.[60]Bia ký Rudradàman đề cập một vị phó vương người địa phương có tên là Pusyagupta trấn nhậm lãnh địa phía tây với trung tâm là Girnar, dưới thời Chandragupta, trong khi dưới triều đại Asoka, Raja Tusàpha được đề cử trông coi lãnh địa này. [61]Từ những thông tin do các bia ký cung cấp, chúng ta có thể nói rằng dưới thời Asoka có hai loại phó vương được đề cử nhằm cai quản các địa hạt của vương quốc Maurya.Thứ nhất là hạng phó vương thuộc hoàng gia gọi là Kumàra hay Àryaputra va thứ hai là hạng phó vương không thuộc hoàng gia, như trường hợp Raja Tusàpha được cử trấn nhậm lãnh địa phía tây với Girnar là thủ phủ.

Lại nữa, tại mỗi lãnh địa có hệ thống các quan lại phụ giúp việc quản trị cho vị phó vương. Tác phẩm Divyàvadàna nói đến trường hợp dân chúng xứ Taxilà dưới thời Bindusàra nổi lên chống đối các quan lại đàn áp nhưng không chống lại vị hoàng tử phó vương hay mệnh lệnh triều đình.[62] Trong truyền thuyết nói về hoàng tử Kunàla trấn nhậm lãnh thổ Gandhàra, người ta kể rằng ông hoàng này từng bị một phen khốn đốn bởi kẻ khác đã mạo danh ông gởi mật lệnh giả cho các quan lại dưới quyền ông .[63] Bia ký Kalinga II nói rõ sự kiện các phó vương có quyền đề cử các thuộc hạ của mình vào chức vụ Mahàmàtra nhằm kiểm tra và giám sat định kỳ việc thực thi pháp luật. Theo bia ký Kalinga I, văn bản Dhauli, và Tiểu bia ký I, văn bản Brahmagiri, thì các phó vương và các vị Mahàmàtra cùng làm việc với nhau. Vào thời gian đầu, vị Hoàng tử phó vương (Àryaputra ) có trách nhiệm gởi thánh chỉ của nhà vua đến các quan lại địa phương, nhưng về sau trách nhiệm này cũng được giao cho các vị Mahàmàtra. Bia ký Kalinga II, văn bản Jaugada, nói đến một hạng Mahàmàtra khác được biết bởi tên gọi là Làjavachanika, người trực tiếp nhận chỉ thị của nhà vua mà không thông qua vị hoàng tử phó vương. Như vậy Mahàmàtra ở đây có thể được xem là chức vị tổng đốc bởi các Mahàmàtra này được giao trách nhiệm cai quản độc lập các tổng trấn.

Pràdeśika. Ràjùka và Yukta là tên gọi của các loại quan chức khác được nói đến trong bia ký Asoka.B.M.Barua xem Ràjùka là người đại diện chính quyền trung ương có trách nhiệm đối với nhà vua trong việc chuyển các mật lệnh và các chỉ dụ của nhà vua đến các quan tổng đốc ( Mahàmàtra ) ở các thị trấn hay quận huyện thuộc phạm vi quản lý của mình. Như vậy Ràjùka đóng vai trò như một sứ giả mang các mật lệnh và chỉ dụ của nhà vua cho các quan lại địa phương. Ràjùka nhận các chỉ dụ từ bộ phận thư ký riêng của nhà vua và chuyển giao cho các quan lại địa phương có trách nhiệm thi hành.[64] Tuy nhiên theo D.R.Bhandarkar và R.Mookerji thì Ràjùka là một quan chức có trách nhiệm về mặt pháp luật, có quyền thưởng phạt đối với người có công hay kẻ phạm tội.[65] Cũng có ý kiến cho rằng công việc của Ràjùka là thống kê đất d0ai, thu thuế má, trông coi các công việc về nông nghiệp, như được mô tả trong Kurudhamma-Jàtaka. Mégasthènes thông báo cho chúng ta rằng Ràjùka có trách nhiệm trông coi các việc công ích như bảo vệ sông rãnh, đào giếng, đắp đê, làm đường …Ràjùka cũng có quyền ban thưởng cho người có công và trừng phạt kẻ phạm tội.[66] Từ các thông tin trên ta có thể hiểu rằng Ràjùka là một chức vị khá cao trong cơ cấu tổ chức nhà nưóc của vương triều Asoka, mỗi Ràjùka đứng đầu một ban ngành chuyên trách khác nhau trong hệ thống quản lý nhà nưóc.

Về chức vị Pràdeśika, Thomas đồng hóa Pràdeśika với Pradeshtri được nói đến trong bộ luận Arthaśàstra, nghĩa là một quan chức có trách nhiệm thực hiện việc thu thuế và ngăn bắt kẻ trốn thuế.[67]Bộ luận Arthaśàstra của Kautilya cũng cho chúng ta biết về chức năng của vị quan chức gọi là Yukta. Theo Kautilya, Yukata là chức danh dành cho các quan lại ngân khố địa phương có trách nhiệm quản lý tài sản của nhà vua, tiến hành việc thu thuế và kết toán các khoản thu nhập. [68] Như vậy cả hai loại quan chức Pràdeśika và yukta xem ra có chung một trách nhiệmthực hiện việc thu thuế cho ngân khố quốc gia. Tuy nhiên, theo bia ký III thì năm năm một lần, cùng với các Ràjùka, các Pràdeśika và Ykta có trách nhiệm tuần du địa bàn quản lý của mình nhằm giám sát và đôn đốc mọi người thực thi pháp luật. Theo ý kiến của Kern thì Pràdeśika là chức quan ngang hàng với tổng đốc , [69] trong khi theo tài liệu của Kautlya được nói ở trên thì Yukta chỉ là một quan lại địa phương. Như vậy ta có thể hiểu rằng Yukta là một chức quan có lẽ thuộc cấp quận huyện và Pràdeśika cũng là một chức quan nhưng ở cấp cao hơn.

Ngoài ra, bia ký Asoka còn nói đến một số quan chức đứng đầu các bộ như Dharma-Mahàmàtra, quan trông coi về đạo đức xã hội; Ithijhakha-Mahàmàtra hay Stryadhyaksha-Mahàmàtra, trông coi các vấn đề về phụ nữ; Anta-Mahàmàtra, trông coi các biên giới; Mahàmàtra-Nàgaraka, trông coi về đô thị; Vachabhùmika, lo về chăn nuôi. [70] . Sau cùng ta phải kể đến một loạt các quan chức trông coi các công trìnhphúc lợi xã hội, những việc mà Asoka rất quan tâm và được làm rất tốt dưới triều đại của ông. Rải rác trong các bia ký của ông người ta đọc thấy chức danh các viên chức trông coi các công trình công ích và an sinh xã hội như Vraija-bhùmika, [71] trông coi các công viên công cộng, các vườn xoài, các giếng nước, các nhà nghỉ dọc theo các đường lộ dành cho khách hành hương. Lại có một bộ phận công nhân viên chức khác chăm nom các vườn cây thuốc và các viên chức y sĩ chăm lo việc chữa trị cho người và thú vật.

Trên đây là các thông tin về cơ cấu tổ chức và hệ thống quản lý nhà nước dưới thời Asoka. Tiếp theo chúng ta sẽ thử xem những động cơ nào đã thực sự khiến cho guồng máy nhà nước này vận hành tốt và có hiệu quả.

Mặc dù có vài ý kiến xem ông là một triết gia hơn là một quốc vương, một nhà đạo đức hơn một nhà quản lý,[72] đa số các học giả đều công nhận tài lãnh đạonăng lực quản lý quốc gia của Asoka.K.Hazra cho rằng các hệ thống quản lýcải cách của ông có đủ lý do để chứng minh rằng Asoka không chỉ là một nhà quản trị tài ba của thời đại ông mà còn là một hoàng đế lớn của mọi thời đại. Trước và sau ông, khó có ai đạt được vị trí mà Asoka đã đạt được trong lịch sử chính trị và tôn giáo của Ấn Độ cổ đại. Từ bỏ mọi chiến tranh và ý đồ xâm lăng, Asoka đã giữ vững một đế quốc to lớn và duy trì quan hệ thân thiện với các thế lực nước ngoài.[73] Theo B.M.Barua, “ việc thành lập các phái đoàn thanh tra nhà nước năm năm và ba năm một lần (đi thanh tra các nơi trên toàn quốc), việc bổ nhiệm các quan chức Dharma-mahàmàtra trông coi về đạo đức xã hội, chuẩn bị những phương án tỷ mỉ cho việc giáo dục, công dân, cải tiến về quản lý tội phạm, nhân tính hóa các điều luật hình sự , nhấn mạnh các quan niệm hiếu thảo, khuyến khích các lễ nghi và v.v…là những sáng kiến bổ sung trách nhiệm cho một nhà nước lý tưởng mà Asoka đã cưu mang và ấp ủ.”[74]

Có thể nói rằng động cơ mạnh mẽ nhất khiến guồng máy quản lý nhà nước dưới thời Asoka vận hành tốt và có hiệu quả trước hết và trên hết là nguyên lý vì con ngườihạnh phúc của con người mà chính Asoka đã nỗ lực thực hiện . Asoka đại diện cho nguyên tắc sống làm việc vì lợi íchhạnh phúc của nhân dân. Nhà nước Asoka tiêu biểu cho một mô hình nhà nước của dân, do dân và vì dân mà hơn 20 thế kỷ sau các quốc gia dân chủ phương Tây mới nói đến. Bộ luận Arthaśàstra đề cập sự kiện Chandragupta thiết lập điều lệ lên ngôi của các quốc vương Maurya, nói rằng đức vua phải tuyên thệ suốt đời phụng sự nhân dân vào dịp lễ đăng quang. Các lời thề như sau; “ Xin hãy bắt ta từ bỏ thiên đường, từ bỏ cuộc sống và trở thành một kẻ tuyệt tự nếu ta áp bức thần dân.” “ Niềm hạnh phúc của Người(vua) là niềm hạnh phúc của thần dân.Người coi những gì làm cho Người vui thích đều không tốt, mà coi bất cứ thứ gì làm cho thần dân vui thích đều là tốt.” Ngoài ra, luận Arthaśàstra còn nhấn mạnh đức vua phải luôn luôn sẵn sàng gánh vác việc công , không nề hà hay than thở. Nếu nhà vua hành động sai trái thì dân chúng có quyền phế truất ông và thay thế một vị vua khác.[75]Như vậy cứ theo bộ luận Arthaśàstra thì mỗi vị vua Maurya đều phải là một hoàng đế chân chính, có lòng thương dân và luôn luôn lo lắng cho dân, lấy hạnh phúc của dân làm niềm vui của mình và không được đi ngược ý chí của toàn dân. Asoka kế thừa truyền thống này và chứng tỏ là một hoàng đế xứng đáng với niềm tin của nhân dân.

Trước hết, Asoka là vị hoàng đế rất mực thương dân. “ Tất cả thần dân là con cái ta; bởi ta có lòng mong muốn cho các con ta được hạnh phúcan lạc đời này và đời sau, ta cũng mong muốn cho tất cả thần dân của ta được như vậy.”[76] Từ quan điểm lấy dân làm gốc, vì hạnh phúc nhân dânphục vụ, Asoka từ bỏ những cuộc dạo chơi săn bắn và nhiều thú vui khác của hoàng gia ( vihàr-yàtra ) để tập trung vào công việc chăm lo đời sốnggiáo dục nhân dân ( Dharma-yàtra ). Theo ông,[77]nỗ lực quản lýđiều hành quốc gia không chỉ là nghĩa vụ mà còn là món nợ mà một vị vua phải làm đối với nhân dân. R.Mookerji cho rằng hiếm có vị vua nào lại nhấn mạnh các nghĩa vụ và bổn phận của mình đối với dân như Asoka.[78] Bia ký VI nói rõ Asoka chú tâm giải quyết công việc ở mọi lúc và mọi nơi; ông lệnh cho các quan chức phải báo cáo ngay cho ông những vấn đề liên quan đến đời sống nhân dân,ngay cả khi ông đang ăn, đang ở hậu cung, đang ngủ, đang ở tại các trại chăn nuôi, đang ở chổ thuyết giáo hay khi ông đang vui chơi. Asoka còn nói thêm trong bia ký rằng ông không bao giờ bằng lòng về các nỗ lực giải quyết công việc của mình, bởi ông cho rằng làm việc là để phục vụ hạnh phúc của dân trong đó nỗ lực giải quyết các công việc là căn bản. Asoka cũng ý thức rất rõ rằng việc quản lýđiều hành một quốc gia rộng lớn như Maurya không thể chỉ hoàn toàn dựa vào những báo cáocần phải thường xuyên theo dõi và giám sát thực tế. Đó là lý do vì sao ông thường xuyên du hành với mục đích xem xét tình hình đất nước và hiện tình đời sống nhân dân.[79]Rõ ràng nhờ ý chí phục vụ không mệt mỏitài năng lãnh đạo đa dạng của Asoka mà guồng máy nhà nước Maurya dưới sự điều khiển của ông được vận hành tốt và có hiệu quả.

Một yếu tố quan trọng khác góp phần làm cho guồng máy nhà nước của Asoka vận hànhhiệu quả là đội ngũ các nhà quản lý các cấp do ông thiết lập và đề cử đã tỏ ra xuất sắc trong các nhiệm vụ được giao. Mặc dù rất năng động trong cung cách điều hànhgiải quyết các công việc, Asoka không thể một mình quản lý hết mọi việc của một quốc gia rộng lớn như Maurya. K. Hazra cho rằng nhờ tài lãnh đạo sáng suốtquản lý giỏi và với sự trợ giúp của đội ngũ quan chức chính phủ các cấp. Asoka đã quản lý hết sức thành công toàn bộ đế quốc to lớn của mình và đã thu phục lòng người một cách dễ dàng.[80]

Hệ thống tổ chức và quản lý nhà nước của ông khá quy mô và vận hànhhiệu quả. Asoka tỏ ra rất sắc sảo trong khoa học quản trị khi thiết lập hệ thống quản lý nhà nước với nhiều ban ngành chuyên trách và đề cử nhiều chức vụ quản trị tương ứng. Danh sách các quan chức đứng đầu các bộ hay ban ngành chuyên trách thuộc nhà nước trung ương, hệ thống các quan lại địa phương với các nhiệm vụchức năng được quy định rõ tỏ cho thấy Asoka ý thức rất rõ việc quản lý nhà nước rộng lớn bằng phương tiện thông tin, bằng chứng là ông đã cho dựng các bia ký và trụ đá khắp nơi nhằm phổ biến chính sách nhà nước và hướng dẫn nếp sống nhân dân. Ông từng phàn nàn việc một số các chỉ dụ của ông đã bị thông tin thiếu chính xác.[81]Trong các chỉ dụ của mình, Asoka thường xuyên nhắc nhở quan chức các cấp sống đúng pháp luật và làm việc theo pháp luật để nêu gương cho mọi người.[82] Bia ký Kalinga ghi rõ những lời răn của ông dành cho các quan lại địa phương, nhắc nhở họ về bổn phận và nghĩa vụ của kẻ làm quan. Theo Asoka,[83]mục đích của kẻ làm quan là chăm lo hạnh phúc cho dân, vì vậy kẻ làm quan phải tuyệt đối cần mẫn và phải hiểu rõ niềm vui và nỗi khổ của dân. Trong cách nói của mình, Asoka ví dân như trẻ thơ, quan lại như người vú. Dân cần phải được chăm sóc bởi quan lại cần mẫn, giống như đứa trẻ cần phải được chăm sóc bởi người vú ân cần.

Có thể còn nhiều yếu tố khác nữa khiến bộ máy nhà nước của Asoka được củng cố vững chắcvận hànhhiệu quả. Chẳng hạn, chính sách đức trị và chăm lo hạnh phúc cho dân, phản ánh của quần chúng nhân dân đối với chính sách nhà nước và thái độ của các quan chức chính phủ mà họ có quyền nói lên vào dịp các phái đoàn thanh tra nhà nước đến làm việc tại các điạ phương. Bia ký VIII ghi nhận sự kiện rằng mười năm sau khi lên ngôi, Asoka chiêm bái thánh tích Bodhgaya, chỗ đức Phật giác ngộ, và từ đó trở đi ông thường thực hiện những chuyến du hành gọi là Dharma-yàtrà nhằm phổ biến chính sách đức trị bằng cách thăm viếng các tổ chức tôn giáo, tiếp xúc với quần chúng nhằm khuyến khích nếp sống đạo đứcthảo luận với nhân dân về đường lối đức trị, K . Hazra cho rằng Asoka đã thiết lập một nhà nước lý tưởng dựa trên tình thương và sự cảm thông.[84] Quả thực, với một ông vua hết lòng thương dân như thế và với một đội ngũ các quan chức chính phủ được giáo dục thương yêu và chăm lo hạnh phúc cho dân như thế thì không có gì quá đáng khi nói rằng nhà nước của Asoka là một nhà nước lý tưởng của mọi thời đại.


[45] Bia ký IV.

[46] D.R.Bhandarkar,Asoka,tr.42.

[47] OYC,II, tr.184.

[48] B.M.Barua,Asoka and his Inscription,tr.104.

[49] V.A.Smith,Asoka,tr.76.

[50] B.M.Barua, Asoka and hia Inscriptions,tr.69.

[51] Nguyễn Hiến Lê, lịch sử văn minh Ấn Độ,tr.30.

[52] B.M.Barua, Asoka and his Inscription,tr.146.

[53] B.M.Barua, Asoka and his Inscription, tr.186.

[54] Theo tài liệu Vàya Putràna.

[55] R.Mookerji, Asoka, tr.94-95.

[56] Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử Văn minh Ấn Độ, tr.98.

[57] RBK,tr.77.

[58] Kalinga Edict I; Kalinga II, văn bản Dhauli; Minor Rock Edict I, văn bản Brahmagiri.

[59] R.Mookerji, Asoka,tr.8,51.

[60] R.Mookerji,Asoka,tr.51.

[61] R.Mookerji, Asoka,tr.51.

[62] R.Mookerji, Asoka,tr.52;B.M.Barua, Asoka and his Inscription,tr.34.

[63] R.Mookerji, Asoka,tr.52.

[64] B.M.Barua, Asoka and his Incription,tr.151.

[65] D.R.Bhandarkar, Asoka,tr.53;R.Mookerji,Asoka,tr.53.

[66] D.R.Bhandarkar,Asoka,tr.53.

[67] D.R.Brandarkar,Asoka,tr.52.

[68] D.R.Bhandarkar, Asoka,tr.51.

[69] D.R.Brandarkar,Asoka,tr.52.

[70] D.R.Brandarkar, Asoka,tr.54-56;R.Mookerji, Asoka,tr.56.

[71] Bia ký XII.R.Mookerji, sau khi so sánh với tài liệu Arthaśàstra của Kautilya, cho rằng vraja-bhùmika là một quan chức trách nhiệm xây dựng các giếng nước, hồ nước, các vườn hoa, vườn cây ăn trái, các nhà nghỉ dành cho khách bộ hành , bảo vệ an toàn cho nhân dânsúc vật trên các tuyến đường. (Xem R.Mookerji, Asoka,tr.160-61, phần chú thích cuối trang.)

[72] Heras cho rằng Asoka là một triết gia hơn là một quốc vương, một bậc thầy về đạo đức hơn là một nhà quản trị. ( Xem QJMS, XVII, tr.276).C.J.Shah nêu quan điểm tương tự: “ Về phương diện chính trị, Asoka là một tín đồ phái Quaker và là người xứng đáng với vị trí một đạo sư hơn là một hoàng đế.” ( Xem C.J.Shah,Jainism in North India,tr.133 )

[73] RPBAI,tr.64-65.

[74] B.M.Barua,Asoka and his Inscriptions,tr.221-22.

[75] Phát hiện Ấn Độ, tập I,tr.201.

[76] Bia ký Kalinga II.

[77] Bia ký VI.

[78] R.Mookerji,Asoka,tr.50.

[79] R.Mookerji,Asoka,tr.50.

[80] RPBAI,tr.64.

[81] Bia ký Kalsi.

[82] Trụ đá I.

[83] Trụ đá IV.

[84] RPBAI,tr.64.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8013)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35543)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19674)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11692)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23179)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13347)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5841)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10613)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10354)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10052)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20862)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6204)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6851)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8892)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6014)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18153)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6351)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6729)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6552)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13012)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5870)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7884)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10203)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7871)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9862)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9078)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5983)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24544)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36390)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7721)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11547)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10044)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5228)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5420)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10002)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7882)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9359)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8653)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46519)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6899)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12307)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5798)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14497)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12979)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12424)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14559)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12425)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10953)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9632)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16694)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8472)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5963)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9955)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6375)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11349)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7045)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46703)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13498)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8392)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6858)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9174)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6180)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6904)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17850)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18172)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15794)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6951)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31240)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9574)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7687)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21621)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34170)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33317)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14236)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35647)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13006)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15771)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13683)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33035)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26361)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41413)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40353)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20045)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33704)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29683)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33730)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18871)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22699)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22423)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49000)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11968)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11161)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22513)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18002)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15117)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22685)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16000)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13115)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19719)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12066)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant