Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương VII: Lược Thuật về Những Tông Phái Chính của Phật Giáo Tây Tạng

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 4054)
Chương VII: Lược Thuật về Những Tông Phái Chính của Phật Giáo Tây Tạng

Chương VII 
Lược Thuật về Những Tông Phái Chính của Phật Giáo Tây Tạng 

A. Phái Ninh Mã (Nyingma; Hồng giáo). 
B. Phái Ca Nhĩ Cư (Kagyudpa, Cát Cử, hay phái Bạch Giáo). 
C. Phái Tát Ca (Sakya; hay phái Đa Sắc). 

Ngoài phái Ca Đương (Kadampa) và Cách Lỗ (Gelugpa) ra, ở Tây Tạng còn có ba tông phái chính:

A. Phái Ninh Mã (Nyingma; Hồng giáo) 

Phái Ninh Mã (1) cũng được gọi là Cựu Phái hoặc Đại Cứu Cánh Phái. Đây là Tiền Truyền Mật Thừa vào thời đạiLiên Hoa Sanh (Padmasambhava), cộng thêm Hậu Truyền Mật Thừa, hợp nhất thành một danh xưng. Đây cũng là phái hỗn hợp cách tu trì của Mật GiáoBổng giáo, nên tăng sĩ xem nhẹ giới luậtthường có vợ con. Phái này cho rằng chỉ chuyên trì mật chú, dùng Vô Thượng Du Già làm pháp cứu cánh, thì tự nhiên sẽ hiển hiện trí huệ thanh tịnh, khế hợp lý Không mà đạt giải thoát.

Sự truyền thừa của phái này bắt đầu từ đại sĩ Liên Hoa Sanh người Ấn Độ. Do sự thỉnh cầu của vua Xích Tùng Đức Tán (755-797), đại sĩ Liên Hoa Sanh đến Tây Tạng vào năm 747. Hợp tác với ngài Tịch Hộ (Shantarakashita), đại sĩ Liên Hoa Sanh cho xây chùa Tam Diệp (2) cách Lạp Tát (Lhasa) khoảng ba mươi dặm; nơi đây trở thành trung tâm tu họcphiên dịch kinh điển đầu tiên từ tiếng Phạn sang tiếng Tây Tạng. Đại sĩ Liên Hoa Sanh ban truyền mật thừa Vô Thượng Du Già cho quần chúng Phật tử, mà đặc biệt là hai mươi lăm vị đại đệ tử. Họ là những vị đại sĩ Tây Tạng đầu tiên đạt đại thành tựu. Điển hình, Ngưỡng Nhật Quang (Namkhe Nyingpo) có thể bay trên không trung trong nháy mắt; Da Hy Thố Cổ (Khandro Yeshe Tsogyal) cứu người chết sống trở lại; Trát Ba Thần Thông Nhiên (Kawa Peltseg) đọc được tâm niệm của những người khác (3), v.v... 

Đương thời cũng có các ngài Vô Cấu Hữu (Vimalamitra), Phật Mật (Buddhaguhya, hay Buddha Gupta), v.v... sang Tây Tạng hoằng truyền Mật pháp. Bấy giờ, dẫu Nhân Minh họcgiáo lý đạo Phật chưa được thạnh hành, nhưng sự tu trì Mật pháp (4) rất được chú trọng. Điển hình, ngài Pháp Xưng y theo pháp quán đảnh Kim Cang Giới Đại Mạn Trà La, mà truyền Mật pháp Du Già Bộ. Ngài Phật Mật truyền mật pháp Sự Bộ và Hành Bộ. Ba bộ Mật pháp đó (5) không khác với ba bộ Mật pháp của Hậu Truyền Phật giáo, và không những truyền cho phái Ninh Mã mà còn truyền cho các phái khác. Ngài Vô Cấu Hữu truyền Mật pháp Huyễn Biến Mật Tạng và Tâm Bộ. Đại sĩ Liên Hoa Sanh truyền Kim Cang Quyết Pháp, Mã Đầu Pháp Vương, cùng các pháp hộ thần khác. Ngài Tĩnh Tạng (Shantipa) truyền pháp Văn Thù; ngài Hồng Ca La (Nyag Jnana Kumara) truyền pháp Chân Thật Loại; ngài Mặc Na La Khất Đa (Dhana-rakhitd) truyền pháp Tập Kinh. Những bộ Mật pháp Vô Thượng Du Già chính là Mật pháp đặc biệt của phái Ninh Mã, nên sự truyền thừa vẫn còn nằm trong phạm vi bí mật.

Mật điển căn bản của phái Ninh Mã có mười tám bộ: 1/ Đại Viên Mãn Bồ Đề Tâm Biến Tác Vương; 2/ Kim Cang Trang Nghiêm Tích Giáo Mật Ý Tập; 3/ Nhất Thiết Như Lai Đại Mật Tạng Mãnh Điển Luân Tích; 4/ Nhất Thiết Như Lai Biến Tập Minh Kinh Du Già Thành Tựu Tích; 5/ Thắng Mật Tạng Quyết Định; 6/ Thích Tích Huyễn Võng Mật Kính; 7/ Quyết Định Bí Mật Chân Thật Tánh; 8/ Thánh Phương Tiện La Tác Liên Hoa Mạn; 9/ Huyễn Võng Thiên Nữ Tích; 10/ Bí Mật Tạng Tích; 11/ Văn Thù Luân Bí Mật Tích; 12/ Hậu Tích; 13/ Thắng Mã Du Hý Tích; 14/ Đại Bi Du Hý Tích; 15/ Cam Lồ; 16/ Không Hành Mẫu Diệm Nhiên Tích; 17/ Mãnh Chú Tập Kim Cang Căn Bổn Tích; 18/ Thế Gian Cộng Tán Tu Hành Căn Bổn Tích.

Mười tám bộ này còn tồn tại trong bộ Bí Mật của đại tạng kinh Tây Tạng. Song, phái Ninh Mã thường dùng tám bộ như: 1/ Văn Thù Thân; 2/ Liên Hoa Ngữ; 3/ Chân Thật Ý; 4/ Cam Lồ Công Đức; 5/ Quyết Sự Nghiệp; năm bộ này gọi là xuất thế gian pháp. 6/ Sai Khiển Phi Nhân; 7/ Mãnh Chú Chú Trớ, 8/ Thế Gian Cung Tán; ba bộ này thuộc về thế gian pháp

Trong đó, Văn Thù Thân là Tỳ Lô Giá Na Bộ; Liên Hoa Ngữ là Di Đà Bộ; Chân Thật Ý là Bất Động Bộ; Cam Lồ Công ĐứcBảo Sanh Bộ; Quyết Sự NghiệpBất Không Thành Tựu Bộ. Sau khi hàng phục quỶ thầnTây Tạng xong, đại sĩ Liên Hoa Sanh bèn truyền ba bộ thế gian pháp như Sai Khiển Phi Nhân, Mãnh Chú Chú Trớ, Thế Gian Cung Tán để bảo hộ chánh pháp, nên có người cho rằng đây là Mật pháp của Tây Tạng.

Trong phái Ninh Mã, giáo pháp trọng yếu nhất là Đại Viên Mãn giáo thọ, và được phân làm ba bộ: 1/ Tâm Bộ (sems-sde); 2/ Lũng Bộ (klon-sde); 3/ Giáo Thọ Bộ (man-nag sde). Tâm Bộ có mười tám bộ kinh; ngài Biến Chiếu Hộ (Vairocana raksita) truyền năm bộ; ngài Vô Cấu Hữu (Vimala-mitra) truyền mười ba bộ. Lũng Bộ do ngài Biến Chiếu Hộ truyền. Giáo Thọ Bộ được phân làm hai phần: 1/ Thậm Thâm Ninh Đề (Snin-thig), do ngài Vô Cấu Hữu truyền; 2/ Không Hành Ninh Đề, do đại sĩ Liên Hoa Sanh truyền. Y theo sự truyền thừa của các Mật pháp đó, mà tạo thành phái Ninh Mã.

Phái này phân Phật pháp ra làm chín thừa: 1/ Thanh Văn Thừa; 2/ Độc Giác Thừa; 3/ Bồ Tát Thừa; 4/ Tác Du Già Thừa (Sự Bộ); 5/ Phương Tiện Du Già Thừa (Hành Bộ); 6/ Du Già Thừa; 7/ Đại Du Già Thừa (Sanh Khởi Đại Du Già); 8/ Tùy Du Già Thừa (Giáo A Nậu Du Già); 9/ Vô Thượng Du Già Thừa (Đại Viên Mãn A Để Du Già).

1, 2,3 thuộc về Hiển giáo, do hóa thân Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết, được gọi là Cộng Tam Thừa. 4, 5, 6 thuộc về Mật giáo, do báo thân Phật Kim Cang Tát ĐỏaĐại Nhật Như Lai thuyết, được gọi là Mật Chú Ngoại Tam Thừa. 7, 8, 9 do pháp thân Phật Phổ Hiền thuyết, được gọi là Vô Thượng Nội Tam Thừa. Sáu thừa đầu tiên được lưu hành trong các tông phái khác. Ba thừa cuối chỉ được truyền trong phái Ninh Mã. Ngoài ra, phái này phân Mật giáo làm Ngoại Tích Bộ và Nội Tích Bộ. Ngoại Tích Bộ có Sự Bộ (Kriya tantra), Hành Bộ (Carya tantra), Du Già Bộ (Yoga tantra). 

Sự Bộ do Phật Thích Ca thuyết, và cũng gọi là Tác Mật, vốn tu vô tướng Du Già; tuy có kết đàn tràng, nhưng quan trọng hóa về việc thiết cúng dường, tụng chú, kết ấn, và chú trọng nơi sự tướng của việc thực hành chánh hạnh chánh mạng chánh ngữ để thanh tịnh thân tâm, và hành chút ít quán tưởng.

Hành Bộ và Du Già Bộ do Phật Tỳ Lô Giá Na thuyết. Hành Bộ cũng được gọi là Tu Mật; bộ này chú trọng vào việc phát triển các căn nội ngoại để thành tựu hợp nhất với thiền định

Du Già Bộ chú trọng việc phát triển nội tâm, và y theo lời dạy của Bổn Tôn Phật Tỳ Lô Giá Na

Nội Vô Thượng Tích Bộ là do ngài Kim Cang Trì thuyết. Tâm của mỗi người vốn hợp nhất với chư Phật (tức tâm tức Phật), nhưng vì vô minhsi mê, nên bị rơi vào lưới võng tham sân si mà chẳng thể tự cứu. Do đó, giai đoạn thứ nhất là phải dùng pháp suy tư quán tưởng, tức từ trong ý thức phát sanh ra một hình tượng hộ pháp, rồi hợp nhất với vị đó (6), biến bất tịnh thành thanh khiết, dẹp bỏ tri thức bình thườngchấp trước. Giai đoạn thứ hai là pháp Annuyoga (A Nộ Du Già), tức dùng thân kim cang để đạt đếntỉnh thức. Giai đoạn thứ ba là pháp Atiyoga (A Đề Du Già), tức loại bỏ tánh chất của hai giai đoạn trước, chuyên chú nhận thức tư duy chân chánh (7), đạt đến quả vị siêu thoát tối thắng của Vô Thượng Thừa Pháp. 

Chi hệ của phái này như phái Lạp Tôn (Lhlatsun-pa), phái Cát Nhĩ Thát (Kartok-pa), phái Na Đạt (Na-dak-pa), phái Mẫn Châu Lâm (Mindollin-pa), phái Đa Kiết Trát (Dorje-tak-pa). Tên của các hệ phái này xuất phát từ tên của các vị sáng lập hay từ tự viện của họ. Điển hình, phái Lạp Tôn và phái Cát Nhĩ Thát đều lấy tên của người sáng lập; phái Mẫn Châu Lâm và phái Kiết Trát lấy tên của chùa mà lập danh.

Chùa viện chủ yếu của phái Ninh Mã (hay Hồng giáo) là chùa Minh La Lăng (Mindroling, xây năm 1676), chùa Đa Nhĩ Tể Lạp Khắc (Dorje Drag, xây vào năm 1659); tại Tây Khương và các nơi khác có chùa Tạp Thát Cách (Kathok, xây năm 1159), chùa Ba Tả Lặc (Palyul, xây vào năm 1665), chùa Tảo Khắc Tần (Dzongchen, xây vào năm 1685), và chùa Hy Tần (Zhenchen, xây vào năm 1735). 

Các tín đồ của giáo phái này thường đọc tụng mật chú, và thường hành lễ cúng dường vào mồng mười và ngày hai mươi lăm trong tháng giêng. Họ cũng thường nhập thất tịnh tu một mình hay cùng với nhiều người trong ba năm ba tháng.

B. Phái Ca Nhĩ Cư (Kagyudpa, Cát Cử, hay phái Bạch Giáo) 

Môn đồ của phái này phần nhiều là những vị Du Già Sư tu hành khổ hạnh. Ca (Ka, hay bkah) nghĩa âm tiếng Tây Tạng là "Cội nguồn của sự phát âm", vì do từ kim khẩu của Phật thuyết ra. Nhĩ Cư (Gyud hay brgyud) là khẩu truyền trực tiếp từ các sư trưởng xuống đến chư đệ tử. Vì vậy, phái này chú trọng sự truyền thừa bằng khẩu truyền. Ngoài ra, Ca Nhĩ Cư còn có nghĩa là Bạch Truyền, vì chư tổ sư của phái này như Mã Nhĩ Ba, Mật Lặc Nhật Ba, v.v... thường mặc y màu trắng. Thế nên, phái này được gọi là Bạch Giáo.

Người sáng lập ra phái Ca Nhĩ Cư (hay Cát Cử, Bkah-brgyud-pa) là Mã Nhĩ Ba (1), đã từng sang Ấn Độ ba lần, và cầu pháp dưới tòa của tôn giả A Để Sa, và cũng là đệ tử thọ Mật Thừa cuối cùng của ngài Na Lộ Ba (2), đắc được Mật Thừa chân truyền từ ngài Kim Cang Tát Đỏa, Sa La Ha, Long Thọ. Ngài Mã Nhĩ Ba cũng thọ pháp Đại Thủ Ấn từ ngài Di Lặc Đế (Maitri). 

Mã Nhĩ Ba truyền pháp cho ngài Mật Lặc Nhật Ba (Mi-la-ras-pa, 1052-1135). Mật Lặc Nhật Ba có rất nhiều đệ tử, mà người đạt đại thành tựu có đến hai mươi lăm vị. Trong đó, cao đệ của Mật Lặc Nhật BaĐạt Bảo Cáp Giải (3), một nhân tài kiệt xuất như vầng thái dương, và là sơ tổ của các chi phái trong phái Cát Cử. Về sau, do phái này hoằng truyền rộng rãi, khiến sự truyền thừa Mật pháp ngày càng sai biệt phức tạp, nên lại phân ra chín hệ phái nhỏ:

1/ Đạt Bảo Cáp Giải tự thành lập phái Đạt Bố.

2/ Đệ tử của Đạt Bảo Cáp GiảiCầu Tùng Khẳng Ba (Dus-gsum-mkhyen-pa, hay Dusum Khyenpa) khai sáng phái Ca Nhĩ Mã (Karma-bkah-brgyud-pa), và dùng chùa Ca Nhĩ Mã làm đạo tràng chính. Cầu Tùng Khẳng Ba mất, lại chuyển thế tái sanh, làm tổ thứ hai của phái đó. Về sau, hậu thế tôn theo quy chế chuyển thế tái sanh. Chế độ chuyển thế của Phật sống (Hoạt Phật) do phái này khai sáng. Phái này rất được thạnh hành ở nước Tàu vào đời Minh. Tổ sư đời thứ tư của phái này vốn là pháp hữu của vua Minh Vĩnh Lạc, và thu đại sư Tông Khách Ba làm đệ tử. Vào thời ấy, phái này chịu sự ảnh hưởng của phái Ninh Mã mạnh mẽ.

3/ Bát Kết Mộc Cửu Ba (Phags-mo-gru-pa) khai sáng phái Bát Kết Ca Nhĩ Cư (Phags-gruhi-Bkah-brgyua-pa).

4/ Lạp Mã Tân (Bla-ma shan) khai sáng phái Tân Tra Nhi (Shan-tshal-pa).

5/ Đệ tử của Bát Kết Mộc Cửu Ba là Lâm Thanh (Rin-chen-dpal) khai sáng phái Địa Khang (Bdri-khun-pa), và kiến lập chùa Địa Khang cách Lạp Tát về phía đông bắc hơn một trăm dặm vào năm 1172.

6/ Kim Ba Nhật Ba (Stan-pa-rgya-ras-pa) khai sáng phái Lộ Kiết (Hbrug-pa), dùng chùa Long Độc (Klun-rdol) làm đạo tràng chính.

7/ Đại Kiết Long Đàn (Stag-lun-dam-pa) khai sáng phái Đại Long (Stag-lun-bkah-brgyud-pa), kiến lập tịnh xá Đại Long; phái này vẫn còn được truyền cho đến ngày nay.

8/ Đạt Nhĩ Mã Đằng (Dharma-bdan-phyug) khai sáng phái Bột Long Ca (Hbad-ronbkah-brgyud-pa).

9/ Lâm Phổ Khởi Trá (Rin-po-cne-rgya-tsha) khai sáng phái Đỗ Phổ (Khro-phu-bkah brgyud-pa). Đây là chi phái được khai sáng cuối cùng.

Về sau, phái Bát Kiết Mộc Cửu Ba và Ca Nhĩ Mã được hai triều Nguyên và Minh sắc phong, tiếp nối nhau nắm giữ chính quyền địa phương. Sau này, phái Bát Kiết Mộc Cửu Ba lại chia thành các phái như Chi Cống, Chủ Ba, Diệp Ba, v.v... Từ lúc phái Cách Lỗ của Hoàng giáoưu thế thì phái Ca Nhĩ Cư chỉ còn bốn chi phái vẫn giữ được thế lực như phái Chi Cống, Ca Nhĩ Mã, Đại Long, Chủ Ba.

Theo người Tây Tạng thì phân nửa tăng chúng thường tu khổ hạnh vì noi gương ngài Mật Lặc Nhật Ba. Từ phân nửa số người tu khổ hạnh lại xuất sanh ra các bậc thánh giả. Đa phần, tăng chúng của phái này, một khi vào tu hành trong tự viện, thì phải thực hành pháp tu khổ hạnh

Về phương diện Hiển giáo thì sự tu học của phái này không khác biệt gì mấy với các tông phái khác. Song, về phương diện Mật Thừa, thì phái này đặc biệt sùng bái tôn thờ Kim Cang Du Già Mẫu. Do việc này, nên các học giả ngày nay cho rằng phái này thuộc về phái Cựu Hồng giáo (tức phái Ninh Mã). 

Chùa chiền chủ yếu của phái này có chùa Chỉ Cống ở Hắc Trúc Công Khải, chùa Bát Bang ở Tây Khang Đức Cách. 

Ngoài ra, phái Cát Nhĩ Cư còn có chi phái Hương Ba Ca Nhĩ Cư, do ngài Quỳnh Ba Nam Giao lập ở chùa Hương Địa. Vị này truyền pháp cho hơn 80.000 đồ đệ. Những vị Giáo Thọ Sư của phái này đều từ Ấn Độ sang Tây Tạng truyền pháp, nên thành lập một phái riêng biệt. Phái này cùng với phái Đạt Bố La Ca Nhĩ Cư vốn có sự truyền thừa rộng lớn. Phái này chịu sự ảnh hưởng về giáo nghĩa của phái Ca Đương và Tác Ca, dung hợp Hiển-Mật giáo để thành lập giáo đoàngiáo hóa tín đồ. Phái này y theo học thuyết Trung Quán của ngài Nguyệt Xưng và pháp Đại Thủ Ấn. Lại nữa, phái này chẳng chú trọng văn tự, chỉ đặc biệt xem trọng về sự tu chứng, thông đạt Đại Thủ Ấn. Phái này cho rằng nhờ sự tu chứnghành giả mới có thể phát huy được giáo nghĩa căn bản của Phật pháp. Thế nên, phái này lấy sự giác ngộ làm mục đích cứu cánh.

C. Phái Tát Ca (Sakyapa; hay phái Đa Sắc) 

Bàn về cội nguồn, đại thần Cống Ba Lặc Bảo Kỳ (Khonpalboche) của vua Xích Tùng Đức Thán (755-797) có người con tên là Cống Lỗ Xích Vượng Bố Tùng (Kluvi dbang po srung), vốn là một trong bảy vị tăng Tây Tạng đầu tiên của chùa Tam Diệp (Samye). Từ đó, trải qua mười đời, gia thất họ Cống sanh ra những vị Lạt Ma trứ danh của phái Hồng giáo (hay Ninh Mã, Nyingma).

Đến đời thứ mười hai, Cống Khương Sở Khắc Trát Lặc Bố (Khonton Konchog Gyalbo, 1033-1102) vốn tinh thông Hiển giáoMật giáo, được người anh khuyến khích sang nước Mạc Cổ (Mugu), yết kiến và theo ngài Trát Di Thích Ca Trí (Drogmi Shakya Yeshe, 992-1074) tu học Mật Thừa.

Tu học thành tựu xong, Cống Khương Sở Khắc Trát Lặc Bố trở về Tây Tạng, đến vùng Tát Ca (1) lập chùa viện, vân tập đồ chúng, giảng kinh thuyết pháp, nên được xưng là phái Tát Ca. 

Dân Tây Tạng cũng thường gọi phái Tát Ca là phái Đa Sắc vì trên vách tường của chùa Tát Ca thường có giăng các tấm lụa ba màu như hồng, xanh da trời, trắng; những tấm vải lụa màu này biểu thị cho ba vị Bồ TátVăn Thù Sư Lợi, Kim Cang Tát Đỏa, Quán Thế Âm.

Tại Tây Tạng, trừ phái Ca Đương chỉ chuyên sự giáo hóa, còn những phái khác thường cấu kết với hào tộc, giao thiệp với chính trị, phát sanh sự lạm dụng thế lực. Phái Tát Ca đã từng nắm chính quyền của Tây Tạng. Sự quan hệ giữa chính trị và phái Tát Ca rất thâm sâu. Phái này lấy vợ con làm người kế thừa pháp tự. Con của người khai sáng phái này là Cống Ca Ninh Bảo (Kunga Nyingpo, 1092-1158) học vấn rất uyên thâm, và là vị đại thành tựu, được ban truyền tất cả Hiển giáoMật giáo của ngài Long Mãnh (tức Long Thọ). Phái Tát Ca được phát triển và xiển dương rộng rãi phần lớn nhờ công lao của vị này, nên tín đồ của phái này tôn xưng ông ta là Tát Khâm (Sa chen), cũng là vị tổ thứ nhất của phái Tát Ca (Đa Sắc).

Người con thứ hai của vị này là Tác Nam Tư Ma (Sonam Tsemo, 1142-1182) kế thừa ngôi pháp vị, chủ trì chùa Tát Ca, làm vị tổ thứ hai. Về sau, người em của Tác Nam Tư Ma là Thát Ba Kiên Tán (Drapa Gyaltshan, 1147-1216) kế thừa ngôi pháp vị, làm vị tổ thứ ba. Cháu nội của Cống Ca Ninh Bảo là Tát Ban Bán Trạch Đa (2) là vị tổ thứ tư, và cũng là người gieo mối quan hệ đầu tiên giữa Tây Tạng và vương thất nhà Nguyên. Vào năm hai mươi ba tuổi, ngài Tát Ban Bán Trạch Đa thọ giới tỳ kheo. Do đã từng sang Ấn Độ, Ni Bạc Nhĩ, Ca Thấp Di La tu học Hiển-Mật pháp, y thuật, thiên văn học, luận lý học, nhân minh học, v.v..., ngài Tát Ban Bán Trạch Đa trở thành tỳ kheo bác học đa văn, nên được tôn xưng là vị Ban Trí Đạt. Về sau, ngài Tát Ban Bán Trạch Đa được vua Nguyên thỉnh mời sang Mông Cổ hoằng pháp, và được tôn xưng là Văn Thù Pháp Vương

Năm 1205, Thành Cát Tư Hãn xâm chiếm nước Hạ Vương (Tangood, Đường Ngột). Từ đó, Tây Tạng thần phục Mông Cổ. Về sau, Hốt Tất Liệt cung thỉnh Bát Tư Ba (3) vào kinh đô, làm lễ quán đảnh, rồi tôn xưng vị này là Đế Sư, hiệu là Đại Bảo Pháp Vương. Tại hoàng cung Bát Tư Ba đã từng thắng trong các cuộc tranh luận với các đạo sĩ người Tàu và người Tây Phương trong hoàng cung. Hốt Tất Liệt lại cung thỉnh Bát Tư Ba soạn viết mẫu tự Mông Cổ. Loại mẫu tự này dựa vào mẫu tự của Phạn văn và Tây Tạng văn mà chế thành; tuy loại mẫu tự này chưa được phổ biến, nhưng mẫu tự hiện tại của Mông Cổ vốn y cứ vào mẫu tự do Bát Tư Ba chế ra. Hốt Tất Liệt thấy tài trí của Bát Tư Ba như thế, bèn giao quyền thống trị Tây Tạng cho Bát Tư Ba, và bắt tất cả thần dân Tây Tạng đều tín phụng theo phái Tát Ca. Thế nên, Bát Tư Ba là vị Lạt Ma đầu tiên nắm quyền chánh trịtôn giáoTây Tạng. Lúc Bát Tư Ba mất, ông được triều Nguyên ban hiệu: Hoàng Thiên Chi Hạ, Nhất Nhất Chi Thượng (4), Nghị Văn Phụ Chánh, Đại Thánh Chí Đức, Phổ Giác Chân Trí, Hữu Quốc Như Ý Đại Bảo Pháp Vương Tây Thiên Phật Tử, Đại Nguyên Đế Sư.

Sau khi Bát Tư Ba tịch, người em lên kế vị; tổng cộng, phái Tát Ca trị vì Tây Tạng hơn một trăm năm. Phái Tát Ca thường dùng phương thức truyền pháp cho vợ con, nên rất gần với thế tục

Về phương diện Mật giáo, phái này lại chia ra làm ba chi phái. Phái thứ nhất là Nga Nhĩ (Ngor), do Nga Nhĩ Khâm Cống Cát Tang Ba (Ngorchen Vajradhara Kungah Zangpo 1382-1457) sáng lập vào năm 1429; vị này cũng đã từng xây chùa Vượng Mục Sở Đơn (Ewan Chodan), và là bậc học giả của Mật giáo. Phái thứ hai là Cống Cát (Gong dkar) do Cống Cát Nam Kiết (Kungah Namgyal, 1432-1469) sáng lập; vị này đã từng xây chùa Cang Tạp Đa Kiết Đơn (Gangpah Doredan) tại vùng Cống Cát, nên người sau gọi ngôi chùa đó là Cống Cát. Phái thứ ba là Trát Nhĩ (Tshar), do Trát Nhĩ Khâm La Sai Gia Thác (Tshachen Losel Gyamtsho, 1494-1566) sáng lập.

Học thuyết của phái này dùng tư tưởng của Trung Quán thuộc hệ ngài Thanh Biện, để giải thích về giáo nghĩa căn bản của Mật Thừa. Phái này lại dùng năm địa vị của Bồ Tát (5) và bốn bộ Mật Thừa (Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ, Vô Thượng Du Già Bộ), đối chiếu hợp nhất mà tu trì; dùng noãn, đảnh, nhẫn, tam muội da trong bốn gia hạnh để đoạn sở thủ hoặc; dùng thế đệ nhất tam muội da để đoạn năng thủ hoặc. Đồng thời, dùng bản tánh trí huệ sáng soi của Bồ Tát mà nhập vào định đại lạc, tức là đạt đến cảnh giới Hiển-Mật dung thông. Học thuyết này không xuất phát từ Ấn Độ mà thuộc về tư tưởng của hệ phái Ban Thiền (Pan-c'en, nghĩa là Học Sư) Thích Ca Sư Lợi ở nước Ca Thấp Di La.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24497)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13773)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13179)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22059)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19076)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11913)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13044)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15193)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10541)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10130)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9849)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27427)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17844)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25161)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34662)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19070)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9006)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9008)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9453)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9139)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11796)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18524)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8784)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10667)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10958)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28004)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17879)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14410)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13207)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15537)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7601)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17051)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8396)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30722)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant