Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sư Nhà Tống Sang Học Thiền Nhà Trần

11 Tháng Hai 201908:00(Xem: 4560)
Sư Nhà Tống Sang Học Thiền Nhà Trần

Sư Nhà Tống Sang Học Thiền Nhà Trần

 

Nguyên Giác

 

Nơi đây, chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp. Về quân sự, đó là thời phá Tống bình Chiêm; về Phật pháp, đó là thời có một số nhà sư Trung Quốc snag Việt Nam du học. Hiện tượng các nhà sư quốc tế sang Việt Nam du hoc, xin học thiền từ thiền sư Việt Nam không phải chỉ trong thời này, mà đã có từ thời rất xưa. Nói “sư quốc tế” nơi đây là nói chuyện “sư Trung Quốc.” Kể lại chuyện này để cả nước bình tâm trong thời ai cũng lo sợ bị sáp nhập vào phía Bắc: chỉ cần dân tộc sống thuận theo Phật pháp, ra sức học ngũ minh, tất nhiên có đủ phước đứctrí tuệ để đất nước độc lập, tự cường.

Thiền Tông Việt Nam đã từng có thời kỳ được nhiều vị sư Trung Quốc ngưỡng mộ, tìm sang Việt Nam du học. Lúc đó, nước Đại Việt đã có ít nhất là ba Phật học viện, với nhiều ngàn tăng, ni, cư sĩ theo học. Hãy hình dung rằng vào thời rất xa xưa, của thế kỷ thứ 13, khi chưa có phi cơ, xe hơi hay xe lửa, bất kể khoảng cách nhiều ngàn dặm xa giữa Việt NamTrung Quốc, phương tiện đi lại chủ yếu là thuyền, ngựa và đi bộ, một số nhà sư Trung Quốc tìm sang Việt Nam để học Thiền Tông thời nhà Trần.

Chúng ta không có con số chính xác bao nhiêu vị sư Trung Quốc sang Việt Nam để học Thiền, vì không phải chuyện ngoài đời lúc nào cũng được ghi vào sử sách. May mắn, tác phẩm Thiền Tông Bản Hạnh viết bằng chữ Nôm của Thiền Sư Tuệ Đăng Chân Nguyên (1647-1726) đã kể lại, rằng có hai nhà sư Trung Quốc tìm sang Việt Nam vì nghe rằng Thiền Tông nhà Trần siêu xuất: một vị sang để khảo sát, một vị sang để xin học.

 

Theo Thiền Tông Bản Hạnh, vị Thiền sư Việt Nam nổi tiếng quốc tế vào thế kỷ thứ 13 là ngài Trần Thái Tông (1218-1277), vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần nước Đại Việt. Ngài Trần Thái Tông trong khi làm vua, vẫn thường xuyên tới tham học với các thiền sư Viên Chứng, Tức Lự, Ứng Thuận. Vua Trần Thái Tông nổi tếng văn võ song toàn, ở ngôi từ năm 1225 tới năm 1258, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời.

Ngài Trần Thái Tông nổi tiếng quốc tế về hai phương diện: chỉ huy quân đội Đại Việt trong những cuộc chiến lớn đối với nước ngoài, và là bậc thầy truyền dạy Thiền Tông.

Ngài có tài quân sự, thường được sử gia đời sau gọi là phá Tống bình Chiêm. Theo Wikipedia, vào năm 1252, Trần Thái Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, từ đó Chiêm Thành phải chính thức thần phục nhà Trần; sử Việt và thư từ ngoại giao giữa vua Trần với vua Mông Cổ đều xác định từ năm 1252 đến năm 1285, Chiêm Thành đã nhiều lần sai sứ sang triều cống.

Vào năm 1257, Tướng Mông Cổ Uriyangqatai dẫn gần 3 vạn quân tiến vào Đại Việt. Ngày 17 tháng 1 năm 1258, quân Mông Cô đến Bình Lệ Nguyên (nay là huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc), Trần Thái Tông đích thân đem sáu quân đi đánh, giao tranh thế yếu nên thu quân đến bến Lãnh Mỹ, sau đó xuống thuyền đi về Phù Lỗ, bị Tướng Mông Cổ Cacakdu truy sát. Hôm sau, ngày 18 tháng 1 năm 1258, vua Trần Thái Tông dàn quân chặn địch bên sông Cà Lồ ở Phù Lỗ. Quân Mông Cổ vượt sang sông Cà Lồ và đánh bại quân Đại Việt. Vua Trần lại chủ động rút quân về phía Thăng Long, rồi lui về sông Thiên Mạc (nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), ban lệnh khởi động cuộc chiến toàn dân.

Quân Mông Cổ chiếm được kinh thành Thăng Long, song gặp nhiều khó khăn do thiếu lương thực trầm trọng. Mông Cổ phải chia quân đi cướp bóc ở vùng ngoại vi và phụ cận, nhưng bị dân chúng chặn đánh quyết liệt. Ngày 28 tháng 1 năm 1258, vua Trần Thái Tông thúc quân phản kích vào bến Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ. Uriyangqatai phải rút quân khỏi Thăng Long và tháo chạy về Vân Nam.

 

Trần Thái Tông biết trước ngày viên tịch, để lại nhiều tác phẩm về Thiền Tông, trong đó nổi tiếng là: Khóa Hư Lục, Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, Kim Cương Tam Muội Chú Giải, Bình Đẳng Lễ Sám Văn…

Về chuyện các nhà sư nhà Tống sang Việt Nam tìm hiểu Thiền Tông sẽ dựa vào tác phẩm Thiền Tông Bản Hạnh của ngài Chân Nguyên, bản dịch từ Nôm sang chữ quốc ngữ của Hoàng Xuân Hãn, và được hiệu đínhgiảng giải bởi Thiền sư Thích Thanh Từ. Bài viết nơi đây, sẽ dựa vào sách Thiền Tông Bản Hạnh Giảng Giải (TTBHGG) của Thầy Thích Thanh Từ hiện lưu hành trên cả dạng sách giấy (NXB Thành Phố HCM, 1998), và có thể đọc trên mạng. (1)

 Các dòng thơ từ 326 tới 408 kể Trần Thái Tông được hai nhà sư Trung Quốc tìm tới để vấn Thiền. Chúng ta đoán rằng, có thể các trao đổi là qua chữ viết, vì không rõ có phải quý ngài hai nước nói với nhau trực tiếp qua một tiếng nói hay không. 

Trong đó Thiên Phong là một Thiền sư Trung Hoa nổi tiếng, muốn biết thực hư có đúng rằng Thiền Tông đang rực rỡ hoằng pháp ở Đại Việt hay không, nên sang khảo sát. Sau khi vấn Thiền, Thiên Phong khâm phục, đã ca ngợi Trần Nhân Tông là: Sư trưởngđại nhân duyên... (câu thơ 334).

Các câu thơ từ 326 tới 335 trong TTBHGG kể chuyện Thiền sư Thiên Phong sang VN khảo sát, như sau:

 

Thiên Phong là thầy nước người,

 Trí tuệ cao tài, kinh lịch chư bang.

 Tiếng đồn Việt quốc Đế Vương,

 Có Vua tu Đạo, người thường xảy qua.

330. Xưng rằng : “Lâm Tế tông xưa,

 Pháp phái diễn thừa, vân thủy A Nam.

 Hội thiện tri thức lại tham,

 Ích minh tôn chỉ càng thâm lòng Thiền.

 Sư trưởngđại nhân duyên,

335. Thiện hữu trợ giáo hộ quyền Nam Mô.”

 

Sách TTBHGG cũng kể rằng, lúc đó ngài Trần Nhân Tông đã mở ba trường dạy Thiền Tông.

Các câu thơ từ 336 tới 341 kể về tình hình ba Phật học viện do Trần Thái Tông mở ra, như sau:

 

 Thái Tông mở Phật trường đồ,

 Quỳnh Lâm, Tư phúc cùng chùa Hoa Yên.

 Trai Tăng ngũ bách dư viên,

 Thế phát thụ giáo thiên thiên vàn vàn.

 Thành thị cho đến lâm san,

 Tùy căn tu chứng, thanh nhàn yên cư.

 

Sách này, các dòng thơ từ 342 tới 345, kể rằng nhà sư Trung Hoa tìm sang xin học Thiền nhà Trần là Đức Thành, như sau:

 

 Thuở ấy ngoại quốc tông sư,

 Lại nghe Nam Việt có Vua tu hành.

 Tên người là Tống Đức Thành,

345. Trèo non lặn suối một mình tìm sang.

 

Trước tiênngờ vực. Các dòng thơ từ 346 tới 356 kể chuyện sư Đức Thành chất vấn Trần Thái Tông, rằng tại sao các Thiền sư cổ đức nói rằng Đức Phật đã độ được chúng sanh ngay từ khi chưa hạ sanh đã dạy pháp giải thoát rồi (vị xuất mẫu thai, độ nhân dĩ tất). Câu hỏi như thế là về pháp vô sanh, rằng khi trời đất chưa sanh, khi danh-sắc chưa hiện ra, khi niệm chưa khởi… Ngài Trần Thái Tông trả lời rằng, “Ngàn sông có nước thì ngàn sông có mặt trăng, muôn dặm không mây thì có muôn dặm trời.” Bản gốc Thiền Tông Bản Hạnh ghi đoạn đối thoại đó bằng chữ Hán, và sách TTBHGG của Thầy Thanh Từ diễn ra chữ Nôm.

Có thể hiểu rằng chỉ một mặt trăng (pháp tánh) nhưng hiện ra cả ngàn mặt trăng khi có duyên là ngàn sông (cứ ngỡ thế giới đầy sai biệt), và khi bầu trời vắng mây (xa lìa tham sân si) thì tất cả sai biệt chỉ là một hư không vắng lặng (muôn dặm trời). Các câu 346 tới 356 như sau:

 

 Vào chầu bái tạ thiên nhan, 

Thiền gia làm lễ, dám tham lời rằng:

 Đức Thành vấn viết:

 “Tích Thích Ca Thế Tôn 

350. Vị ly Đâu Suất,

Dĩ giáng Vương cung,

Vị xuất mẫu thai,

Độ nhân dĩ tất. Thì như hà?”

 Thái Tông Hoàng Đế đáp vân:

355. Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt,

 Vạn lý vô vân vạn lý thiên.”  

 

Sư Đức Thành hỏi thêm rằng, vừa hỏi là nhờ Trần Thái Tông dạy về khi Đức Phật chưa hạ sanh, bây giờ hỏi khi Đức Phật đã ra đời, thì là thế nào. Trần Thái Tông dạy rằng, mây sanh trên đỉnh núi và hoa lau trên núi hòa vào một màu trắng, nước khi tới sông Tiêu và sông Tương chỉ có một màu trong. Nghĩa là, Đức Phật ra đời, dạy rằng “sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc…” Các câu thơ 357 tới 362 viết như sau:

 

Đức Thành hựu vấn:

 “Vị ly vị xuất mông khai thị,

 Dĩ ly dĩ xuất sự nhược hà?”

360. Thái Tông đáp vân:

 “Vân sinh nhạc đỉnh đô lô bạch,

 Thủy đáo Tiêu Tương nhất dạng thanh.”

 

Rồi Trần Thái Tông dạy tiếp rằng từ trong cái Pháp thân vắng lặng tròn đầy (pháp vô sanh) mới có thể độ cho tất cả khổ ách (các pháp đã sinh khởi). Chữ nguồn Tào là nói rằng Thiền Tông từ Huệ Năng (Tào Khê). Khi đã ngộ ra pháp này (bản tâm vốn rỗng không và tịch lặng) sẽ thấy các niệm tham sân si đều tan vào biển Như Thị (tùy hình ứng vật tự như). Tiếp theo, Trần Thái Tông rầy sư Đức Thành, rằng sao không hiểu nghĩa Như Lai của Đức Phật. Các câu thơ 368 tới 374 như sau:

 

 “Mây lên núi bạc bằng lau,

 Nước xuống nguồn Tào vặc vặc lặng thanh.

370. Pháp thân trạm tịch viên minh,

 Tự tại tung hoành phổ mãn thái hư.

 Tùy hình ứng vật tự như,

 Hóa thiên bách ức độ chư mọi loài.

 Ứng hiện dưới đất trên trời,

370. Khắp hòa thế giới mọi nơi trong ngoài.

 Đã đặt hiệu là Như Lai,

 Sao còn hỏi xuất mẫu thai làm gì?

 Nguyệt luân biến chiếu quang huy,

 Thiên giang hữu thủy cũng thì bóng in.”

 

Rồi Đức Thành thắc mắc, do đâu Trần Thái Tông ngộ đạo. Trần Thái Tông trả lời rằng đó là ngộ từ Bát Nhã, rằng chư Phật ba đời đều từ Bát Nhã, rằng cả sư (Đức Thành) và ta (vua Trần Thái Tông) đều có sẵn một hạt minh châu, ngộ được thì sẽ thấy viên dung pháp giới không gần, không xa.

Lời dạy này gợi nhớ tới Kinh SN 35.23 - Sabba Sutta: The All (2), khi Đức Phật dạy rằng thế giới vũ trụ thực ra chỉ là sáu nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu ngoại xứ (cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được xúc chậm, cái được suy nghĩ tư lường). Thấy như thế, tức khắc xa lìa tham sân si. Các câu thơ 375 tới 408 viết như sau:  

 

375. Đức Thành lại hỏi căn nguyên: 

“Đế vương ngộ đạo nhân duyên như hà?” 

Này lời Thái Tông thưa ra:

 “Lưỡng mộc đồng hỏa, đôi ta khác gì.

Đương cơ đối đáp thị thùy,

380. Thật tính thi dụng cùng thì nhất ban.

 Phóng ra bọc hết càn khôn,

 Thu lại hoàn nhất mao đoan những là.

 Ma Ha Bát Nhã Ba La,

 Tam thế Chư Phật chứng đà nên công.

385. Thiên giang vạn thủy triều đông,

 Ngộ đáo giá lý thật cùng tày nhau.

 Phật tiền, Phật hậu trước sau,

 Bát Nhã huyền chỉ đạo mầu truyền cho.

 Ai ai đạt giả đồng đồ,

390. Mỗi người mỗi có minh chu (châu) trong nhà.

 Mùa xuân vạn thụ khai hoa,

 Cành cao cành thấp vậy hòa chứng nên.

 Vi nhất đại sự nhân duyên,

 Xuất hiện vu thế Tam Thiên Ta Bà.

395. Ngai rồng trút để bước ra,

 Thế phát ở già, niệm Bụt tụng kinh.

 Khác nào dược xuất kim bình,

 Há đi tu hành, cứu được vạn dân.

 Bản lai thanh tĩnh Pháp thân,

400. Viên dung pháp giới, đâu gần đâu xa.

 Có chữ Đầu Phật Xuất Gia,

 Vì vậy Trẫm phải bước chân ra ngoài.”

 Đức Thành tôn phục mọi lời,

 Thật quyền Hoàng Giác ra đời độ nhân!

405. Đức Thành bái tạ Thánh Quân,

Thượng hoằng Phật đạo, hạ cần Vương gia.

Đức Thành lễ bái trở ra,

Tống quốc khiêm nhượng nước ta Thánh Hiền.

 

Chỉ có thể nói ngắn gọn rằng Thiền Tông Việt Nam tuyệt vời. Các sư Thiên Phong và Đức Thành hiển nhiên đã ca ngợi như thế.

 

GHI CHÚ:

(1)  Thiền Tông Bản Hạnh Giảng Giải: https://thuvienhoasen.org/images/file/mMKHpp1G0QgQALNr/thientongbanhanh.pdf  

(2) Kinh SN 35.23: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn35/sn35.023.than.html

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24484)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25985)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13769)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13174)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19068)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11906)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13039)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15181)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10536)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21807)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10119)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9843)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9744)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10189)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27374)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17831)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25139)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34640)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26749)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19061)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9001)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9132)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11793)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18516)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8775)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10663)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10950)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27995)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17874)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14408)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16360)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14689)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7594)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17035)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8385)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30704)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant