Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu

29 Tháng Tám 201910:28(Xem: 3544)
Hành Trạng Và Sự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu
Bài Thuyết TrìnhHành TrạngSự Nghiệp của 
Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU
 Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN
nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy

Hành TrạngSự Nghiệp

HT Thich Don Hau

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni,

Kính thưa quý Phật tử,

 
I.  Hạnh Nguyện Vào Đời

Lịch sử Phật giáo Việt Nam đã có rất nhiều chư vị Thạch Trụ Tòng lâm, Thiền sư Thạc đức hóa thân làm Bồ Tát hạnh để giữ gìnngôi nhà Phật giáo lúc thăng, khitrầm theo dòng sử mệnh quê hương.  

Đại lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu là bậc xuất trần Thượng sĩ trên dòng lịch sử thời cận đại.  

Hòa Thượng Pháp danh là Trừng Nguyên, Hiệu là Thích Đôn Hậu.  Tính theo dòng kệ Thiền phái Liễu Quán thì thuộc vào đời thứ 8. Thế danh là Diệp Trương Thuần, sinh ngày 13 tháng Giêng năm Ất Tỵ, tức ngày 16 tháng 2 năm 1905 tại làng Xuân An, Xã An Đồn, Quận Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị.  

Hòa Thượng tuy sống trong gia đình Nho giáonhưng lại có túc duyên với Phật pháp.  Mặc dầu,thưở thiếu thời Hòa Thượng làu thông Tứ Thư, Ngũ Kinh…Nềnvăn học Nho Lão khôngđáp ứng được ước vọng tìm cầu cái khả tính giác ngộ, giải thoát hiện hữu trong tâm thức của Hòa Thượng.  Do vậy,tuy còn trong lứa tuổi ấu niên, tự thân Hòa Thượngđã luôn thể hiện tánh đức, dung nhan như một bậc xuất trần.  Quả thật “Hữu ư trung hình ư ngoại”.  

Khi tổ Tâm Tịnh gặp Hòa Thượng trong chuyến đi hoằng pháp nơi quê nhà, Tổ liền cảm nhận được chú bé này là pháp khí của nhàThiền trong tương lai.  Tổ lưutâm dạy dỗ, hướng dẫn học Giới Luật Thiền môn, oai nghi để làm chuẩn mực, kỷ cương cho con đường xuất gia sau này.  

Đúng với hạnh nguyệntúc duyên trong Phật pháp, năm 19 tuổi Hòa Thượng đến chùa Tây Thiên thành tâm đảnh lễ Tổ Tâm Tịnh xin được thế phát xuất gia vào ngày 19 tháng 6 năm Quý Hợi – 1923.  Vừa tròn 1 năm sau, Hòa Thượng thọ Tam đàn Cụ túc tại chùa Từ Hiếu.  Tổ Tâm Tịnh – Bổn sư làm Đàn đầu.  Nhưng mới chỉ được 2 năm thì Sư phụ–Tổ Tâm Tịnh viên tịch, năm 1926.  

Trước sự trống vắng  hình ảnh thân kínhcủa Bổn Sư, không nơi nương tựa, không người sách tấn trên con đường tu tập, Hòa Thượng đã đến chùa Hồng Khê y chỉ với sư huynh của mình là Tổ Giác Tiên, để từ đây Hòa Thượng đã tiến thân trên con đường tu học Phật pháp ngày càngtinh tấn hơn.  

Năm 22tuổi, Hòa Thượng được gần gũi với các bậc Tôn túc, danh Tăng thời bấy giờ, lại có được môi trường học hỏi Phật pháp để tiến thân xa hơn nữa, nên khi trường Phật Học Thập Pháp tại Bình Định thành lập và Tổ Phước Huệ làm Giáo thọ - bậc danh Tăng thời bấy giờ, Hòa Thượng bèn xin Tổ Giác Tiên để cùng các Pháp lữ lên đường vào Bình Định tham học.  

Con đường hoằng dương Phật pháp được mở rộng, Sơn mônTự viện được xương minh, Hội An Nam Phật Học ra đời năm 1932, đồng loạt các trường Trung học, Đại học Phật giáo được thành lập tại chùa Tây Thiên, Ban giám đốc đã cung thỉnh Tổ Phước Huệ từ Bình Định ra làm Giáo thọ.  Đây là cơ hội tốt nhất, Hòa Thượng đã tiếp tục theo đuổi đèn sách như chí nguyện xuất trần,biểu lộ qua nếp sống hàng ngày.  Khác hơn ai hết, như cái tên Ôn Nhu Phúc Hậu mà Thầy Tổ đã ban cho.  Hòa Thượng đã thể hiện trọn vẹn khi được thỉnh cử làm Thủ chúng, làm Giáo thọ cho Phật Học Đường Báo Quốc, Ni viện Diệu Đức – Huế.  Hòa Thượng giảng dạy tại Đại học Tây Thiên, làm Giảng Sư cho Hội An Nam Phật Học.  

Sau khi tốt nghiệp Đại học Phật giáo năm 1936, Hòa Thượng được cử làm thân Giáo Sư Phật Học Đường Báo Quốc, làm tuyên Luật Sư các Sơn mônĐạo tràng Thừa Thiên – Huế.  Chính trong thời điểm này, Hòa Thượng là một trong những bậc Sơn môn chấn hưng Phật giáo đắc lực nhất tại miền Trung.  Hình ảnh của Hòa Thượng trong các trường Phật học, đứng giảng Phật pháp cho học Tăng hay trong chốn thâm u của các Tự viện đã làm thành mẫu mực,kỷ cương cho đàn hậu học kế thừa trên dòng lịch sử nhà Thiền.  Hòa Thượng đã vân du hóa độ, giảng Luật dạy Kinh khắp các tỉnh miền Trung mà nhất là ở Đà Nẵng, Quảng Nam.  Hòa Thượng đã đem cái sở học của mình ân cần trao gởi lại cho Học Tăng, các Phật Học Viện, từ thân giáo đến khẩu giáo.  Đâu đâu hình bóng của Hòa Thượng cũng luôndẫn đầu trong chốn Tòng lâmPhạm vũ.  Oai nghi, tế hạnh, mẫu mực như là một thân Giáo sư khả kính uyên bác Kinh Luật để cho đàn hậu học noi theo.  

Vào những năm 1940, 1942 Hòa Thượng đã mở một chuyến hoằng pháp tại Vương Quốc Lào. Tại đây Hòa Thượng đã tiếp xúc với Vua Sãi cũng như tham dự nhiều cuộc lễ hội Phật giáo Lào bằng truyền thống văn hóa dân tộc.  Hòa Thượng đã thay thế vai trò của bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, chánh Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học – Thừa Thiên. Đồng lúc này Hòa Thượng được chư Sơn môn – Huế cung thỉnh giữ chức vụ Trútrì Quốc Tự Linh Mụ.  Một ngôi chùa lịch sử, thơ mộng tọa lạc bên bờ sông Hương mà bao nhiêu thi nhân mặc khách đã nhiều lần viếng thăm,để lại thơ văn, thi phú cho nền văn học nước nhà:

“ Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Thiên Mụ Canh gà Thọ Xương”

 

Ở nhà Như Lai, gìn giữ Tạng pháp của Như Lai để từ đó Hòa Thượng đã hóa thân đảm nhận nhiều trọng trách, Phật sự đáng kể.  Năm 1948 Hòa Thượng là Cố vấn Đạo hạnh Hội Phật Học Trung Phần, Tuyên LuậtSư Đại Giới Đàn Báo Quốc, giữ chức vụ Chánh Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Học Trung Phần, thay thế Cụ Chơn An – Lê Văn Định.  Năm 1951 làm đàn đầu Hòa Thượng giới đàn chùa Ấn Quang – Sài Gòn, làm Giám Luật cho sơn mônTăng Già Trung Phần,cho giáo Hội Tăng Già toàn quốc.  Năm 1956 Hòa Thượng làm chủ nhiệm Liên Hoa Tập rồi Liên Hoa Nguyệt San…v.v.

Qua hailĩnh vực, làm bậc mô phạm chốn nhà Thiền thì Hòa Thượng đã hiện thân đầy đủ phạm hạnh để tứ chúng đồng quyngưỡng, là mực thước cho Tăng chúng học theođời sống phạm hạnh ấy. Về lĩnh vực thế học, tri thức của đời thì Hòa Thượng là bậc thức giả, văn phong của thời ấy.  Đã bao nhiêu người quy ngưỡng bằng niềm tin vững chắc.  Chính vậy, mà hầu như Tăng tín đồ Phật giáo Huế đã an tâm, đặt trọn niềm tin nơi Hòa Thượng,bậc lãnh đạo tối cao.

Sơ lược vài nét về hạnh nguyện vào đời của Hòa Thượng để chúng ta có một bài học sống động của tự thân giữa cuộc đời thiên lưu, thiên biến này.  Ở bất cứ vai trò nào Hòa Thượng cũng chu toàn.  Có lẽ đây chính là túc duyên từ kiếp trước mà nhất là lãnh vực Phật pháp, Đạo học, Chơn thường.  

Năm 1977, Đại Hội Kỳ 7 của GHPGVNTN tại Ấn Quang đã suy  tônHòa Thượng lên ngôi vị Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống.  Cũng như sau khi Đức Đệ Nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên viên tịch, Hòa Thượng tiếp tục đảm nhiệm ngôi vị Xử Lý Viện Tăng Thống, và mãi cho đến ngày Đại Hội Khoáng Đại của GHPGVNTHHN tại Hoa Kỳ tổ chức tại chùa Cổ Lâm Seattle năm 2001, toàn thể Đại Hội Đồng suy tôn Hòa Thượng lên ngôi vị đệ Tam Tăng Thống.  Chỉ đương cử chừng ấy sự nghiệp không thôi cũng đủ cho chúng ta hôm nay học và học mãi đến mai sau.  Học để thấy mình còn thiếu sót, hụt hẫng quá nhiều giữa cuộc đời đầy phong ba bão tố. Học cái học của người xưa để làm gương cho cái làm của chúng ta bây giờ, để cùng pháp lữ ngồi lại với nhau mà kê vai gánh vác ngôi nhà Phật giáo Việt Nam nơi Hải Ngoại ngày một bền vữngtrang nghiêm hơn nữa.

 II.  Độ Đời Kham Nhẫn:

Đạo Phật đồng hành cùng với dân tộc suốt trongdòng lịch sử hơn 2000 năm qua.  Khi đất nướcđượcthái hòa thịnh trị, thì đạo Phật cũng được xương minh. Khi đất nướcnghèo đói suy vi thì đạo Phật cũng hòa mình chia sẻ. Điều này được chứng minh qua các triều đại Phật giáo Lê, Trần v.v….  

Bằng hạnh nguyện kham nhẫn, Hòa Thượng đã vận dụng phương tiện mà tùyduyên hóa độ, cũng như thi hành Phật sự của Giáo Hội nhằm thiết lập, dựng lại những gì đã suy vi, ngã đổsuốt trong thời gian qua vì biến cố của đất nước.  Trong Thông Điệp đề ngày 11 tháng 10 năm 1991, Hòa Thượng với cươngvị Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN đã đích thân gửi đến chư Tôn Hòa Hượng Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni và Đồng bào Phật tử Việt Nam ở Hải ngoại.  Nội dung Thông Điệp như sau: 

“Kính thưa quý vị, trước hết, thay lời chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng ni và đồng bào Phật tử trong nước, tôi trân trọng gửi đến chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng ni và đồng bào Phật tử Việt Nam ở Hải ngoại lời thăm hỏi ân cần trong đạo tình nồng nhiệt nhất”.  

Hòa Thượng nhắn nhủ tiếp:

“…nhưng tôi và quý vị trong hội đồng lưỡng viện của Giáo Hội vẫn giữ đúng truyền thống của Phật giáo Việt Nam trước sau như một.  Sự chịu đựng kiên trì ấy phải chăng đã làm sáng tỏ thêm đặc tính nổi bật của Phật giáo Việt Nam là luôn luôn gắn liền với vận mạng dân tộc.  Yếu tố căn bản để có được sự chịu đựng kiên trì như vậy, trước hết chính là tinh thần thống nhất, đoàn kết và Hòa hiệp của Tăng già”. 

Trong cươngvị Xử Lý Viện Tăng Thống, Hòa Thượng không yên tâm khi thấy Giáo Hội đối diệntrước ngưỡng cửa phân tâm, ly tán của lòng người, tiếp tục kêu gọi Tăng Ni, tín đồ Phật tử hãy ngồi lại với nhauphụng hành Phật sự, gìn giữ ngôi nhà Phật giáo Việt Nam bền vững.  Hòa Thượng đã chân thành khuyến thỉnh trong bức Thông Điệp gồm có 4 điều.  Nơi đây xin được trích điều thứ nhất: 

 

“Tất cả Chư Tăng nguyên trước đây từng là giáo phẩm, nhân sự Tăng sĩ thuộc GHPGVNTN, nay đang hành đạotu học tại nhiều quốc gia trên thế giới,nên có kế hoạch thành lập một Giáo Hội hợp nhất, lấy tên là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hải Ngoại”.  

Điều khuyến thỉnh thứ nhất này Chư Tôn đức Tăng ni và quý Phật tử đã thi hành nhiều thập niên về trước, mà mỗi quốc gia, châu lục đều có GHPGTN riêng, cũng như văn phòng Điều Hợp Liên Châu của GHTN ở Hải ngoại.

 Sau cùng Thông ĐiệpcủaHòa Thượng nói: 

“Trên đây là tất cả niềm thao thức của chúng tôi, những người đã và đang gắn chặt đời mình với sự thịnh suy của Đạo pháp, trong một hoàn cảnh hết sức phức tạp và khó khăn như hiện nay.  Vì danh dự của Giáo Hội, vì tiền đồ của Phật giáo Việt Nam và vì sự quang vinh của dân tộc kính mong quý liệt vị đặc biệt lưu tâm.” 

TM Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống ấn ký, Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu.

 

Điều mà ai cũng thấy, sau năm 1975 Giáo Hội đã đi vào một khúc quanh lịch sử bi thảm, nghiệt ngã, mọi Phật sự bị tê liệt.  Chư Tôn Túc trong Hội Đồng Lưỡng Viện bị bắt bớ, tù đày, biệt giam, câu lưu rồi chết trong ngục tùcộng sản.  Một số khác tìm đường vượt biên ra hải ngoại để hành hoạt, hóa đạo đến hôm nay.  Hòa Thượng đứng trước thảm cảnh của đất nước, ly tan nhân sự của Giáo Hội, lòng nghĩ chẳng yên, đã viết Tâm Thư gửi ra cho Chư Tôn đức Tăng Ni đang hành đạo ở hải ngoại vào ngày 10 tháng 9 năm 1991 như sau: 

“Đức Thế Tôn ra đời, chuyển vận bánh xe chánh pháp, đem lại trí tuệtình thương, hạnh phúcan lạc cho Chư Thiênloài người.  Hàng chúng Tăng đệ tử thế hệ này qua thế hệ khác tâm trong tâm, nguyện cùng nguyện đã từng hòa hợp với nhau để kế tục sự nghiệp cao cả ấy…”.

  

Hòa Thượng nhắn nhủ tiếp: 

“Trong lịch sử truyền bá Phật giáo Việt Nam cũng như thế giới, có lúc rất bi thảm đầy tủi nhục, nhưng có lúc vẻ vang cũng đáng tự hào.  Lúc bi thảm là lúc bản thể của Tăng Ni bị lu mờ, nội bộ của Tăng Ni bị phân tán, thành phần của Tăng Ni có nhiều điểm dị biệt, giới hạnh suy kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ phiến diện.  Trái lại, lúc vẻ vang là lúc nội bộ chúng Tăng hòa hiệp, biết gạt bỏ những quyền lợi riêng tư, những ngã chấp tầm thường để tiến xa trên con đường tịnh hạnh, lấy giác ngộ giải thoát làm cứu cảnh, lấy bản nguyện độ sanh làm sự nghiệp. Bài học lịch sử này, Tăng Ni Việt Nam đã và đang rút ra từ kinh nghiệm đầy quý báu trong cuộc sống thực tại”.  … “Tăng Ni Việt Nam đang tu họchành đạo ở hải ngoại, những người con của Giáo Hội, đang đem chuông đi đánh ở xứ người.” … “Năm nay tôi đã xấp xỉ cửu tuần, sự sống có thể ngừng lại bất cứ lúc nào và sự từ giã anh em trong trọng trách của mình cũng chưa kỳ hẹn được, nên tôi thiết tha kêu gọi quý vị hãy phát huy hơn nữa bản thể của Tăng già mà đoàn kết hòa hợp, hãy cùng nhau thể hiện tinh thần tương kính, tương thuận, tương giáo, tương sám như luật dạy.  Hãy vì sự tồn tại của Giáo Hội, vì sự quang vinh của Đạo pháp và dân tộc….  Tăng Ni Phật tử tại quê nhà đang gửi gắm rất nhiều niềm tin tưởng và đạo tình cao quý ở quý vị….”. 

 

 Đạo tình thắm thiết, bổn phận trách nhiệm gánh nặng trên đôi vai trước ngưỡng cửacủa lịch sử thời đại nếu không ý thức để vẹn toàn Phật sự, hộ trì Giáo Hội thì bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát tất cả những gì đang ở phía trước.  Đây là bài học lịch sửHòa Thượng đã đem hết tấm lòng của bậc lãnh đạo tối cao Giáo Hội để viết lên tâm thư thống thiết này.

 

Kính bạch Chư Tôn đức Tăng Ni,

Kính thưa quý Phật tử,

 

Cuối cùng là lời Di Huấn, Hòa Thượng nhắn nhủ cùng thất chúng đệ tử.  Lời Di Huấn gồm có 6 điều, nơi đây chỉ xin phép được trích điều thứ nhất: 

 

“Khi Thầy không còn nữa, anh em các con hãy biết thương quý nhau trong tinh thần hòa hợp.  Người đi trước phải có trách nhiệm giúp đỡ, dìu dắt kẻ đi sau, nhất là đối với việc nghiêm trì tịnh giới, tinh tấn tu hành để khỏi phải luống uổng chí nguyện của kẻ xuất gia”… “Các con hãy luôn luôn thức tỉnh, nhớ nghĩ đến cuộc đời vô thườngtinh tấn nhiều hơn.  Hãy nhớ lấy, mong lắm thay!

Linh Mụ, ngày 29 tháng 2 năm 1988.  Lão bệnh Tỳ Kheo Đôn Hậu.”

III.  Tánh Đức Tu Trì

Chúng ta đã lược qua Hành TrạngSự Nghiệp của Hòa Thượng, cũng đủ để làm kỷ cương, quy củ cho nhiều đời tu tập.  Từ lãnh vực tiếp Tăng độ chúng, đến những Phật sự trùng hưng Già lam, Phạm vũ.  Trách nhiệm đối với Giáo Hội, nói chung là sự trường tồn của Đạo phápHòa Thượng đã phân thân qua nhiều lãnh vực, như ở hai phần đầu đã nói.  Giờ thì chúng ta hãy trầm tư, lắng lòng thanh thản để nghe hương vị giải thoát được toát ra từ thân tâm của Hòa Thượng, đặt Giới Luật lên hàng đầu.  Thọ trì tịnh giới là việc cấp thiết không giải đãi, không xem thường, giữ Giới như giữ tròng con mắt.  Bảo hộ Giới như bảo hộ mạng sống.  Giới Luậtnăng lực thiết lập và tài bồi cho đoàn thể Tăng già hòa hiệp và thanh tịnh. Có hòa hiệp, có thanh tịnh mới mong thành đạt lý tưởng của người xuất gia.  Cũng trong Thông Điệp Phật Đản, Hòa Thượng viết: 

“Có sống hòa hợp mới mong làm tròn nhiệm vụ của người con Phật đối với đại sự mở bày Tri Kiến của Đức Từ Phụ, mới mong làm nên những sự nghiệp ích nước lợi dân.  Điều này có nghĩa rằng, sống hòa hiệp là điều kiện tất yếu cho sự tiến tu, và sự tiến tu chỉ có thể được thực hiện nếu có sống hòa hợp.”

Chúng ta đọc tiếp trong Lời Giới Thiệu “Luật Tứ Phần Tỳ Kheo Ni Sao”, Hòa Thượng đã ân cần sách tấn: “Những ai thường thao thức cho sự giải thoát của hính mình và sự tồn tại mãi mãi của đạo Phật ở thế gian, thì việc cần yếu nhất là phải luôn luôn tôn trọng và nghiêm trì tịnh giới.  Bằng ngược lại tức là chính chúng ta đã làm cho Chánh pháp bị lu mờbản thân chúng ta bị sa đọa chứ không phải do một thế lực nào có thể đầy đọa chúng ta hoặc bắt chúng ta phải bỏ đạo.”  

Ấy là đạo học tu trì của Hòa Thượng, chúng ta lắng nghe bài KệHòa Thượng đã cảm tác qua hương vị Giới Luật như sau:

“Hành thâm tỳ ni tạng

Giới thể tịnh trang nghiêm 

Định lực tồi ma đạo

Tuệ quang chiếu giác viên.”

 

Qua Yếu Chỉ bài Kệ trên, chúng ta có thể hiểu như là bài Kệ Sở Ngộ của Hòa Thượng, qua công phu trì Giới hành Luật. Cảm nhận được Bậc tâm sạch như băng, ý trong như tuyết, dẫu Thánh giả hay Nhơn thiên đều nghiêm thân khể thủ, mà Hòa Thượng Thích Trí Thủ đã đề tặng hai câu đối:

“Thánh giả thôn châm, thiên nhơn cũng thủ

Không sanh thuyết pháp, ngoạn thạch điểm đầu.”

 

Ôn Tuệ Sĩ cũng viết hai câu đối để nói lên tánh đức tu trì của Hòa Thượng như sau:

“Thiên chu mê vụ, cử trạo kích kinh đào, thanh đoạn cử thiên, trường xướng vô sanh vô ngã.

Kiều mộc tằng nham, phất vân huy hạo nguyệt, ảnh phù không giả, thùy vi tức vọng tức chơn.”

 

Một bậc Thầy ngàn đời khả kính, qua tánh đức tu trì, là cột trụ nhà Thiền mà dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam đã ghi tạc một cách đậm nét.

 Đôi dòng cảm nghĩ mà sưu tập tài liệu để ghi lại vài nét vềHành Trạng và Sự nghiệp của Đức Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN, kính dâng lên Chư Tôn đức Tăng Ni cùng gửi đến quý cư sĩ Phật tử, nhân ngày Đại Lễ Khánh Thành ngôi chùa mang tên Ngài là ĐÔN HẬU.  Tất nhiên, là không làm sao nói cho hết được công hạnh của một vị Bồ tát hóa thân vào đời ác năm trược vì bản hoàiđộ sinh, mà chúng con chỉ làm công việc thưa thỉnh đôi điều để tất cả chúng ta hôm nay lắng lòng thanh tịnh mà tưởng niệm Hành trạngSự nghiệp cao vời của một bậc Thạch Trụ Tùng lâm của Phật Giáo Việt Nam.

 

Thành kính đảnh lễ Chư Tôn đức Tăng Ni

Kính cảm ơn TT Thích Viên Giác Viện chủ, Trú trì chùa Đôn Hậu Na Uy.

Kính cảm ơn quý Thiện hữu Trí thức, quý vị cưPhật tửtoàn thể liệt quý vị.

 

Trân trọng,

San Diego, ngày 21 tháng 8 năm 2019

TK Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24488)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26002)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13771)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13175)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22045)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19070)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11908)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13041)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15182)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10537)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21819)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10120)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9844)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9747)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10191)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27392)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17832)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25145)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34648)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26754)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19062)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9133)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11793)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18518)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8776)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10664)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10954)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27998)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17876)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16364)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15524)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14693)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7596)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17040)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8386)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30716)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant