Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Suy Nghĩ Về Ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ

03 Tháng Bảy 202007:31(Xem: 2961)
Suy Nghĩ Về Ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ

Suy Nghĩ Về Ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ

Nguyên Giác

Bài viết này để bổ túc cho một băng video chủ đề Tuệ Trung Thượng Sỹ trên YouTube (1) do nhóm Wisdom Today thực hiện, trong đó Tiến sĩ Phật học Nguyễn Thúy Loan đã phỏng vấn Hòa Thượng Thích Phước Tịnh và bản thân người viết là Cư sĩ Nguyên Giác. Lý do bổ túc vì lời nói của người viết vốn vụng về, không có khả năng diễn ý minh bạch như chữ viết.

Câu hỏi gửi qua email trước khi trực tiếp phỏng vấn là (thơ sẽ viết xuôi một dòng cho dễ đọc trong tầm mắt):

Mọi người đều biết anh Nguyên Giác nghiên cứu và viết nhiều về Thiền Tông, một trong những bản dịch của anh là Tuệ Trung Thượng Sĩ (TTTS) và Trần Nhân Tông. Xin anh cho biết:

1/ Những điểm nổi bật Thiền của Tuệ Trung Thượng Sĩ;

2/ Bài Thơ của Trần Nhân Tông nói về Thiền của  TTTSĩ trong bài Tán Tuệ Trung Thượng Sĩ:

‘Vọng chí di cao / Toàn chi di kiên / Hốt nhiên tại hậu / Chiêm chi tại tiền / Phu thị chi vị / Thượng sĩ chi thiền.’

Bản dịch của Lý Việt Dũng như sau, một trong bản dịch theo Laura là gần và dễ hiểu:

‘Càng nhắm càng cao / Càng dùi càng cứng / Bỗng nhiên vừa phía hậu / Nhìn lại đã mặt tiền / Ôi đó mới thật là / Thiền của Thượng sĩ!’

Xin anh cho biết ý của anh về Thiền của ngài TTTS trong bài thơ diễn tả của Trần Nhân Tông.

Rất cám ơn anh,

Thúy Loan.” (Hết câu hỏi)

Trước tiên, xin phép nói rằng tôi chỉ là một người học Thiền, không phải chuyên gia về sử học hay Phật học. Cổ ngữ lại kém, do vậy vốn học không sâu. Ngay cả khi dịch các tài liệu về Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230-1291) và Trần Nhân Tông (1258–1308) sang tiếng Anh, bản thân tự biết cũng sẽ có nhiều bất toàn; y hệt như một anh Tây Ba Lô sang Việt Nam sống 20 năm hay 30 năm, rồi viết tiếng Việt thì sẽ lộ ra văn phong tiếng Việt không giống ai. Tôi viết tiếng Anh cũng bất toàn như thế, chủ yếu chỉ dùng phần mềm văn phạm miễn phí trên mạng để kiểm tra tiếng Anh, chớ không đưa cho các book editor sửa văn, phần vì sợ tốn tiền, phần vì muốn giữ văn phong kiểu đường phố giang hồ để thế hệ trẻ sẽ thấy rằng có một ông già viết tiếng Anh nhà quê lắm, nhưng cũng ráng viết về Thiền Tông VN, vì có điều muốn nói… Cũng xin nhấn mạnh, những gì tôi nói và viết đều không có thẩm quyền nào hết. Xin sám hối trước như thế.

Trước tiên, tôi sống với Thiền Tông nói chung, với tác phẩm Tuệ Trung Thượng Sỹ nói riêng, hầu hết bằng “tâm không biết” – nghĩa là, bằng một tâm rất đơn sơ như trẻ em, nghĩa là tôi sống với từng khoảnh khắc trong đời bằng trực diện với cái hiện tiền, cái bây giờ và ở đây, cái trôi chảy trước mắt và bên tai, sống với cái chưa từng được biết, còn gọi là “sơ tâm” hay tâm người mới học, rất mực rỗng rang, hay là vô tâm, bởi vì các Thiền sư ngày xưa dạy như thế, thì mình sống như thế. Nếu phải sống theo phương pháp nào hay kỹ thuật nào, các cụ nói như thế là sống với tâm quá khứ, là hỏng, là mất cái hiện tiền trôi chảy vô thường. Với tâm như thế, tôi tiếp cận với ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ.

Bạn hỏi về những điểm nổi bật về Thiền của Tuệ Trung Thượng Sỹ, thì xin trả lời rằng rất là mênh mông, đọc hoài về ngài vẫn chưa hết ý. Cứ mỗi bài thơ của ngài là mình có thể nói chuyện cả ngày. Cũng không thể viết kiểu thống kê gạch đầu dòng rồi viết, rồi xuống hàng… Bởi vì học ngài theo kiểu với “tâm không biết” thì mỗi lần đọc lại, là mỗi lần thấy mới ra. Bởi vì khi thân tâm tỉnh thức thọ nhận dòng chảy vô thường, tức là sống cái hiện tiền, là cái “the unknown” --- và cái đó là cái không tên, cái không hình tướng, cái chưa từng được biết, dù có gọi là cái không hay cái vô tướng cũng chỉ là miễn cưỡng gọi --- hiển nhiênvô lượng, không dò hết được, hễ ngó tới là thấy lại xuất hiện như mới. Do vậy, nơi đây chỉ nói vài điểm cụ thể, có thể dùng làm pháp hành.

Một lần, Trần Nhân Tông hỏi làm sao để chúng sanh hết tội báo, Tuệ Trung Thượng Sỹ đọc hai bài kệ như sau, bản dịch của HT Thích Thanh Từ:

Vô thường các pháp hạnh / Tâm nghi tội liền sanh / Xưa nay không một vật / Chẳng giống cũng chẳng mầm.

Ngày ngày khi đối cảnh / Cảnh cảnh từ tâm sanh / Tâm cảnh xưa nay không / Chốn chốn ba-la-mật.” (2)

Trong dòng chảy vô thường này, hễ ai sống được tận lực với dòng chảy xiết đó trên toàn thân tâm, sẽ thấy rằng không hề có gì nắm giữ được. Tức là tâm nào cũng là “bất khả đắc” vì hễ nghĩ  tới hay mở miệng là tức khắc tâm đó biến mất liền. Nhưng hễ khởi tâm nghi, tức tâm dao động về có/không, lành/dữ, đẹp/xấu, ưa/ghét… thì chúng ta mất liền cái hiện tiền, mất cái khoảnh khắc “ở đây và bây giờ” và như thế là tác ý đưa nghiệp dấy lên. Khi nhìn thân tâm chảy xiết vô thường như thế, sẽ thấy toàn bộ thân tâm vốn thực là không, vì là không nên mới chảy xiết như thế. Trong tâm rỗng rang như thế, những gì hiện lên cũng chảy xiết và thực tánh chỉ là vô tự tánh. Gọi là vật này, vật kia chỉ là tạm gọi, nhưng trong dòng sông vô thường, khi vật hiện lên trước mắt và bên tai, lúc đó là hiển lộ trong gương tâm sẽ thấy tưởng như có vật hay có tướng, nhưng thực ra không hề có vật hay có tướng nào. Thực tướng chính là vô tướng. Trong gương tâm, không hề có giống hay có mầm nào hết, vì chẳng gì lưu ảnh được.

Như thế, cảnh hiện ra là trong tâm, và không gọi được là có (hiện hữu) hay không (hiện hữu) vì ngay trong khoảnh khắc vừa sinh là biến diệt liền. Do vậy, hễ thấy như thế là thấy tâm và cảnh trước giờ là không. Và ngay khi đó, nơi nào cũng là giải thoát, cũng là ba la mật, cũng là qua bờ kia. Nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời (3) có Kinh Sn 5.14 (Các Câu Hỏi Của Posala), Đức Phật nói rằng ai thấy cả trong và ngoài đều là không thì sẽ giải thoát. Trong và ngoài, tức là tâm và cảnh. Hễ thấy cảnh tức thấy tâm, và nhận ra tâm cảnh đều là không, còn gọi là Thấy Tánh. Vì thực tánh chính là vô tự tánh, và thực tướng chính là vô tướng. Từ đó trở về sau, chỉ cần giữ cái nhìn này. Thấy như thế, còn được Đức Phật giải thích trong Kinh SN 35.246, rằng tiếng đàn được một nhạc sĩ tài năng trình tấu rất tuyệt vời, nhưng chẻ cây đàn làm trăm mảnh hay ngàn mảnh cũng chẳng thể dò ra tiếng đàn – đó là cái nhìn trực nhận pháp ấn vô ngã, và như thế là giải thoát.

Như thế, là không có cửa vào, tức là cửa không cửa, hay Vô Môn Quan. Bởi vì cửa Không lúc nào cũng khó. Dĩ nhiên là rất khó.

Ngài Trần Nhân Tông mới viết tiếp (theo bản dịch của Hòa Thượng Thích Thanh Từ), trích:

"Một hôm tôi xin hỏi Ngài về “bổn phận tông chỉ”, Thượng Sĩ đáp:

“Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.) Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy." (ngưng trích)   

Như thế, Tuệ Trung Thượng Sỹ sau khi nói về pháp môn không cửa vào, liền nói tiếp tới pháp thiền tự quán sát mình, có thể hiểu câu “soi sáng lại chính mình” chính là Niệm Thân hay NIệm Tâm trong Tứ Niệm Xứ. Cũng có thể hiểu bao gồm cả Niệm Thọ, và cả Niệm Pháp. Mình chỉ đoán thôi, vì bốn chữ “phản quan tự kỷ” rộng nghĩa, có thể hiểu là bao gồm cả thân và tâm.

Tuy nhiên, hầu hết các lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sỹ là Thiền Đốn Ngộ, tức là không mượn phương tiện nào hết, dù là chỉ hay quán, dù là niệm hay định hay tuệ. Cho nên mới thấy Thiền nhà Trần rất khó truyền dạy, rất khó vào cửa.

Thí dụ, như đoạn đối thoại trong phần Đối Cơ 4, bản dịch HT Thanh Từ trích như sau.

Hỏi: “Không thể dùng trí biết, không thể dùng thức hiểu” thì thế nào? Thượng Sĩ đáp: “Người gỗ vào biển hát vô sanh, gái đá xuyên mây thổi tất lật.” [Kèn của một giống dân xưa, thổi nghe rất buồn.]” 

Trí và thức là những gì chúng ta suy nghĩ biện biệt. Tương tự với mắt và cái được thấy, với tai và cái được nghe… trí và thức cũng như thế. Nếu chưa thấy Tánh Không của các pháp, thì trí và thức (cũng như mắt và cái được thấy, cũng như tai và cái được nghe…) sẽ buộc mình vào sinh tử luân hồi; nhưng khi đã trực nhận Tánh Không thấu đáo, trí và thức trở thành công cụ để mình ứng phó trong đời mà không bị ràng buộc. Do vậy, nói rằng cốt tủy của Thiền, tức là trải qua trực nhận kinh nghiệm về Tánh Không, thì trí và thức tự thân đã rỗng rang, không từ đâu tới và không đi về đâu --- khó chỉ là nhận ra Tánh Không đó. Dùng tư lường biện biệt có thể giải ngộ được phần nào, nhưng kinh nghiệm trực tiếp để sống rỗng rang giải thoát thì sẽ còn xa. Vậy thì, cách nào để vào cửa, khi trí và thức còn gây rối?

Tuệ Trung Thượng Sỹ trả lời rằng, hãy sống như người gỗ vào biển sinh tử, thì đó là hát điệu vô sanh (vô sanh là: giải thoát). Người gỗ là người sống tuyệt đối với Nhẫn Ba La Mật, không khởi tâm gì hết, cũng gọi là vô tâm, tức là không sanh tâm lành/dữ, có/không, ưa/ghét gì hết. Còn như cô gái đá, nghĩa là cô này tuyệt nòi giống rồi, không để lưu lại những gì từ thân tâm của cô, chỉ như thế mới xuyên mây để vào cõi không. Cô gái đá còn có nghĩa là Bố Thí Ba La Mật, buông xả hoàn toàn rồi, không sinh con đẻ cháu, hiểu là không sinh tâm khởi nghiệp gì nữa; tương tự hình ảnh Bồ Tát bố thí cả ba mẹ (ba là vô minh; mẹ là tham ái), bố thí cả vợ con (vợ là cái của tôi; con là hiện thân hình ảnh tôi xây dựng), cũng được giải thích bố thí là cắt đứt chuỗi dây duyên khởi (hữu ái), cũng có nghĩa là buông bỏ cả ba thời (ba mẹ là quá khứ, vợ là hiện tại, con là tương lai) --- nghĩa là, không hề nắm gì trong tâm. Lúc đó hiển lộ trước mắt và bên tai chính là các pháp ấn vô thường, vô ngãniết bàn, sẽ không còn thấy có ta hay có người nữa. Tỉnh thức với tâm rỗng rang, thấy tâm không có chút gì để nắm giữ thì một phút tu là một phút an lạc, một giờ tu là một giờ an lạc, cũng gọi là bố thí sạch hết trong tâm.

Thi dụ nữa, một đoạn khác, được Thầy Thanh Từ dịch trong sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải, trích như sau:

Hỏi: “Thấy sắc liền biết tâm, ý chỉ thế nào?” 

Thượng Sĩ đáp: “Vào nước lõa thể nên cởi khố, chớ học Hàm Đan quên ngọc đào.” Hàm Đan là kinh đô nước Triệu, người dân ở đây đi bộ rất tài. Những người tuổi trẻ ở nước Yên muốn học đi bộ phải qua Hàm Đan học. Nhiều người nước Yên qua Hàm Đan học đi bộ chưa giỏi, mà đã quên nước Yên nên nói quên ngọc đào.” (ngưng trích) 

Đoạn đối thoại vừa dẫn cũng nói là hãy trở về gốc của tâm mà tu. Thấy sắc liền biết tâm? Thấy gió mát, liền nhận ra tâm, vì nếu không có tâm sẽ không có chuyện mát hay nóng. Thấy hoa vàng ngoài hiên, cũng nhận ra tâm, vì nhận ra hình dáng hoa và màu sắc hoa, và cũng nhận ra khoảng cách không gian ngoài hiên; tất cả đều hiển lộ trong tâm. Đức Phật nói rằng tất cả thế giới này là 12 xứ gồm 6 nội xứ và 6 ngoại xứ (Kinh Iti 1.7 – The All Sutta), như vậy thế giới chính là cái được thấy, cái được nghe, vân vân.

Như thế, giải thoát ở đâu? Giải thoát nằm nơi đâu trong lộ trình tâm?

Giải thoát nằm nơi “cởi khố, chớ quên ngọc đào”… Ngọc đào nơi đây là nước Yên, là quê cũ (bản tâm), rằng chớ lạc mãi ở xứ Hàm Đan. Và “cởi khố” có nghĩa là sống trong thế giới này, hãy “giữ tâm trần trụi” để tiếp cận và đó là giải thoát. Nói “cởi khố” có nghĩa là buông bỏ tất cả ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), buông bỏ cả ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai), buông bỏ cả 12 xứ (6 nội xứ, 6 ngoại xứ), buông bỏ cả toàn thể 18 giới (6 căn, 6 trần, 6 thức)… 

Hễ tâm buông bỏ được như thế, tức là giải thoát, vì lúc đó, như Kinh DN 11 nói, khi thức sẽ không có đặc tướng (consciousness without feature) và không dính gì vào tứ đại (đất, nước, gió, lửa), tức là vô sở trụ (không chỗ trụ), và lúc đó danh-sắc sẽ kết thúc: "Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận.” (4)

Điều khó chỉ là “cởi khố” vì chúng ta ai cũng mang theo gánh nặng quá khứ nhiều triệu kiếp của tham sân si… Nói buông bỏ thân tâm thì dễ, nhưng thực hiện được là chặng đường phải mất nhiều năm. Duy có điều hạnh phúc là, bước vào đường đạo là những ngày hạnh phúc tột cùng, một giờ tu là một giờ an lạc, một phút tu là một phút an lạc… 

Nói cởi khố, hay giữ tâm trần trụi, cũng là ý chỉ của Kinh Bahiya, khi nghe chỉ hiển lộ cái được nghe, khi thấy chỉ hiển lộ cái được… và lúc đó sẽ nhận ra không có ai đang nghe hay đang thấy, lúc đó pháp ấn vô ngã hiển lộ trước mắt và bên tai, và ngay đó là không có chỗ cho tham sân si và ngay đó là giải thoát

Cũng như khi mình nghe nhạc, hãy giữ hạnh nghe đơn giản trong thực tướng, hãy thấy nhạc chỉ là âm thanh như các tiếng động khác trong đời, như tiếng xe máy nổ, như tiếng chiên xào trong bếp hay như tiếng người ngủ mớ, thì lúc đó mình biết tất cả, nghe tất cả, phân biệt được tất cả, nhưng không rơi vào sinh tử luân hồi vì tất cả âm thanh sẽ trôi tuột đi tức khắc ngay trong từng khoảnh khắc. Nhưng cũng nên giữ các tương tác hữu vi trong đời, vì nếu mình nói rằng các cô ca sĩ hát nghe như tiếng chiên xào trong bếp thì họ sẽ giận và mình sẽ mất cơ duyên hoằng pháp.

Lời dạy "cởi khố" của Tuệ Trung Thượng Sỹ cũng được dạy trong Kinh SN 22.53 (Upaya Sutta), trích bản dịch của HT Thích Minh Châu:

“…Không có chỗ y chỉ ấy, thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát. Do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn.” (5)

Bản dịch Bhikkhu BodhiWhen that consciousness is unestablished, not coming to growth, nongenerative, it is liberated. By being liberated, it is steady; by being steady, it is content; by being content, he is not agitated. Being unagitated, he personally attains Nibbāna.)

Nói ngắn gọn, khi tâm vô sở trụ, tức là thức không có chỗ y chỉ, không có chỗ bám víu… tức là Niết Bàn hiển lộ ngay trước mắt, ngay trong cõi này.

Nhắc lại, ý chỉ ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ là dạy pháp Thiền Đốn Ngộ, chủ yếu không sử dụng phương pháp nào hết, cũng không bận tâm chuyện tập thiền hay tu định với tu huệ. Bởi vì, ý ngài nói rằng, trước mắt và bên tai đã là giải thoát rồi, vì Niết bàn không lìa ba cõi, trích từ Đối Cơ 10:

“- Bồ-đề, phiền não đồng khác thế nào?

 Thầy đáp:  Vị muối trong nước,  Trong sắc màu keo.” (ngưng trích)

Vấn đề khó chỉ là, làm sao nhận ra Niết Bàn trong cõi phiền não này. Tức là, nói Niết Bànphiền não cũng có phần đúng, nói không phải phiền não cũng có phần đúng. 

Tuệ Trung Thượng Sỹ nhấn mạnh rằng không cần tu định hay tu huệ (hiểu là: Thấy Tánh, hay nhận ra tánh vô tự tánh, thì tự khắc thấy tâm vốn đã có sẵn định và huệ, vì mài gạch không thể làm ra gương). Cũng trích từ Đối Cơ 10:

Lại hỏi: Ngài Dật-đa (Di-lặc) không tu định tuệ, vì sao thành Phật không nghi?

 Thầy đáp: Đào đỏ trên cây đúng thời tiết / Cúc vàng bên dậu nào phải xuân.

 Lại hỏi: Tọa thiền tập định thì thế nào?

 Thầy đáp: Vua chúa xuống xe chọi ếch nhái.” (ngưng trích)

Khi nhận ra bản tâm vốn đã giải thoát, mà còn tu này hay tập nọ, cũng y hệt ông vua xuống xe chơi trò nhà quê ếch nhái. Vì khi đã thấy cái rỗng rang tỉnh thức của gương tâm, thì lấy gì mà tu nữa, chỉ còn giữ mỗi việc chớ để con trâu bước chệch đạp nhằm lúa mạ. 

Chỗ này Đức Phật cũng nói trong Kinh SN 35.191 (Kotthita Sutta), bản Anh dịch của Thanissaro là, trích:

The eye is not the fetter of forms, nor are forms the fetter of the eye. Whatever desire & passion arises in dependence on the two of them: That is the fetter there. The ear is not the fetter of sounds... The nose is not the fetter of aromas... The tongue is not the fetter of flavors... The body is not the fetter of tactile sensations... The intellect is not the fetter of ideas, nor are ideas the fetter of the intellect. Whatever desire & passion arises in dependence on the two of them: That is the fetter there.” (6)

Xin dịch như sau: “Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó (mắt và cái được thấy): chính xiềng xích là đó. Tai không phải xiềng xích của âm thanh… Mũi không phải là xiềng xíchh của mùi hương… Lưỡi không phải xiềng xích của vị nếm… Thân không phải xiềng xích của cảm thọ sờ chạm… Ý không phải xiềng xích của niệm, và niệm cũng không phải xiềng xích của ý. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó: Đó chính là xiềng xích đó.” 

Nghĩa rất là đơn giản, như đầu bài này đã nói: thấy tâm và cảnh đều không, tức là giải thoát. Tự thân, cõi trước mắt và bên tai chính là Niết bàn, mà không cần tu gì hết. Chỉ khi tâm tham luyến khởi lên là hỏng. Tự thân đã không bị xiềng xích, nếu bị xiềng xích chính là tự mình khởi tâm buộc mình thôi.

Trong Bài Ca Tâm Phật, Tuệ Trung Thượng Sỹ nói rất minh bạch, trích:

Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên tự rỗng lặng.
Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông
Phiền não Bồ-đề đối địch rỗng.

Đặc biệt, có thể dùng chú giải cho lời thơ Tuệ Trung Thượng Sỹ là Kinh SN 22.64, là chớ nên suy tưởng gì với sắc thọ tưởng hành thức, thì tức khắc là Niết Bản. Trích bản dịch  HT Thích Minh Châu là:

“— Ai suy tưởng, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.” (7)

Nghĩa là, “không suy tưởng” còn hiểu là vô tâm hay vô niệm, còn có nghĩa là khi mình hồn nhiên sống với tâm “không biết” tỉnh thức ngay ở nơi đây và bây giờ, là tức khắc sống được cái Đức Phật thường gọi là “Dhamma is visible in the here-&-now, timeless…” (Pháp thấy được ngay ở đây và bây giờ, vượt thời gian…) Đó cũng là ngôn ngữ của Tuệ Trung, của Trần Nhân Tông. Nghĩa là, trong cái vô thường (trước mắt và bên tai) đã có sẵn cái vượt thời gian, dùng theo ngôn ngữ luận sư Bắc Tông là cái thường lạc ngã tịnh (nhưng, nếu nhầm cái vô thường là thường thì sẽ hỏng). 

Cái thường lạc ngã tịnh đó – tức là cái “pháp thấy [trực nhận] được ở đây và bây giờ, phi thời gian” dịch theo Thanissaro Bhikkhu là “Dhamma visible here-&-now, timeless...” dịch theo Bhikkhu Sujato là “the teaching is visible in this very life, immediately effective...”  dịch theo Horner là “this Dhamma is self-realised, timeless...”

Cũng phải ghi nhận rằng mặc dù Trần Nhân Tông chủ trương tu gần như khổ hạnh và tận lực tinh tấn tới mức gian nan, Tuệ Trung Thượng Sỹ cho rằng mài gạch làm gương là sai, là không cần thiết, vì có khi tu học say mê với thiền, với định lại là chướng ngại, không giải thoát nổi --- nghĩa là, khởi tâm chấp là hỏng.

Chỗ này chúng ta có thể dẫn ra Kinh Trung A Hàm MA 75, trích bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ:

Này A-nan, Tỳ-kheo nào hành như vầy, ‘Không có ta, không có sở hữu của ta; ta sẽ không tồn tại, sở hữu của ta sẽ không tồn tại; những gì có trước kia,’ hoàn toàn xả ly như vậy. Nhưng này A-nan, nếu Tỳ-kheo ấy vui thích với sự xả ấy, đắm trước nơi sự xả ấy, an trú nơi xả ấy, Tỳ-kheo như thế chắc chắn không chứng đắc Niết-bàn...

... “Này A-nan, Tỳ-kheo nào hành như vầy, ‘Không có ta, không có sở hữu của ta; ta sẽ không tồn tại, sở hữu của ta sẽ không tồn tại; những gì có trước kia,’ hoàn toàn xả ly như vậy. Và này A-nan, nếu Tỳ-kheo ấy không ưa thích với xả ấy, không đắm trước xả ấy, không an trú nơi xả ấy, thì này A-nan, Tỳ-kheo thực hành như thế, chắc chắn chứng đắc Niết-bàn...” (8)

Cần ghi nhận, pháp yếu giải thoát theo Tuệ Trung là:

Tâm cảnh xưa nay không / Chốn chốn ba-la-mật.

Hay theo Trần Nhân Tông là: 

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền...

Vậy thì tại sao các ngài nhà Trần nghiên cứu rất uyên bác, như ngài Trần Thái Tông viết nhiều chú giải về Khóa Hư Lục, Pháp Hoa, Bát Nhã, Kim Cang, Sám Hối, Niêm Tụng Kệ (43 Công Án), Niệm Phật, Tọa Thiền, Phát Bồ Đề Tâm, vân vân. Học nhiều thành ra có vẻ dư thừa... Thực ra, không phải thế. Nếu quý ngài thuần túy ngồi góc rừng, thì giữ tâm lìa tham sân si là đủ, không cần nghiên cứu cho mệt. Nhưng lý luận Đại Thừa cần thiết khi phải dung hóa các tín ngưỡng khác, thí dụ như khi gặp đồng bào say mê Đạo Mẫu, các thế hệ nhà sư đầu tiên tại VN phải nghĩ ra bốn vị Đại Bồ Tát: Vân - Vũ - Lôi - Điện (mây, mưa, sấm, chớp), gọi là Tứ Pháp. Cũng như phải nghĩ ra truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương để ông bà tổ tiên mình nghe tích mà ngộ lý. Tương tự, trong thế kỷ 20 và 21, các sư mà kém lý luận thì sẽ bị tà thuyết ngoại giáo chiêu dụ hay đè bẹp. Do vậy, khi vào đời, cần lý luận, nghĩa là phải uyên bác.

Còn câu hỏi số 2, về bài thơ của Trần Nhân Tông nói về Thiền của  Tuệ Trung Thượng Sỹ trong bài Tán Tuệ Trung Thượng Sỹ:

Vọng chí di cao / Toàn chi di kiên / Hốt nhiên tại hậu /Chiêm chi tại tiền /Phu thị chi vị / Thượng sĩ chi thiền.”

Bản dịch của Lý Việt Dũng:  “Càng nhắm càng cao / Càng dùi càng cứng / Bỗng nhiên vừa phía hậu / Nhìn lại đã mặt tiền / Ôi đó mới thật là / Thiền của Thượng sĩ!”

Đó là bài thơ ca ngợi ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ. Chúng ta không có nhiều tài liệu để biết hoạt động thường ngày của các vị trong thời kỳ chỉ huy quân Việt ba đợt ra trận đánh bại quân phương Bắc xâm lăng. Tuệ Trung và Trần Nhân Tông đều là võ tướng, hiển nhiên hàng ngày là luyện quân, phải thể dục, chạy nhảy, phi ngựa, lội sông, vân vân. Nhưng bài ca ngợi này có lẽ chỉ nói về Thiền, không nói chuyện khác.

Nội dung bài ca ngợi là càng ngó tới, càng thấy ngài Tuệ Trung ở vị trí rất cao. Càng đọc và ngẫm nghĩ, càng thấy lời dạy của Tuệ Trung tinh vi, kiên cố, như tường đồng vách sắt. Hậu (phía sau lưng mình) là quá khứ, tiền (phía trước) là tương lai. Nghĩ rằng Tuệ Trung là chuyện quá khứ rồi, tưởng rằng mình (Trần Nhân Tông) đã học xong hết, đã học đầy đủ rồi, nhưng càng nghĩ cho kỹ, càng tu cho sâu thì mới thấy rằng Tuệ Trung vẫn còn là kho tàng để mình (Trần Nhân Tông) cần phải học thêm nữa trong tương lai.

Trong Kinh Xuất Diệu có câu: "Xả tiền, xả hậu, xả gian việt hữu, nhất thiết tận xả, bất thọ sanh lão." Nghĩa là, "Buông xả quá khứ, vị lai, hiện tại, buông xả tất cả hoàn toàn, sẽ không sinh già nữa.” (Thực ra, cũng gốc từ nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời, với Kinh Sn 4.10 và Kinh Sn 4.15: đừng dính mắc gì tới quá, hiện, vị lai.)

Như thế, chữ tiền trong Kinh Xuất Diệu là quá khứ, là chuyện đã xảy ra, và hậu là vị lai chưa xảy ra. Ngược lại, chữ tiền trong bài ca ngợi Tuệ Trung là không gian trước mặt, là chỉ cho tương lai, và hậu là không gian sau lưng, là chuyện đã xảy ra. Quý ngài Thiền sư có tự điển riêng của họ, nên dựa vào ngữ cảnh mà hiểu. Ngắn gọn bốn câu ca ngợi: ngài Trần Nhân Tông tự nhận được vây phủ bởi ảnh hưởng Tuệ Trung Thượng Sỹ.

Xin nhắc rằng, những ý kiến của người viết không có thẩm quyền gì hết. Xin viết cho rõ ý để mọi người tham khảo thôi. Cảm ơn các bạn Wisdom Today, cảm ơn Tiến sĩ Phật học Nguyễn Thúy Loan.

GHI CHÚ:

(1) Video song ngữ Tuệ Trung Thượng Sỹ: https://youtu.be/L0i6h_8zifM

(2) Tuệ Trung Thượng Sỹ Ngữ Lục Giảng Giải: https://thuvienhoasen.org/images/file/OlR9p51G0QgQAFN1/tuetrungthuongsi.pdf

(3)  Kinh Nhật Tụng Sơ Thời: https://thuvienhoasen.org/a30590/kinh-nhat-tung-so-thoi

(4)  Kinh DN 11: https://suttacentral.net/dn11/vi/minh_chau

(5) Kinh SN 22.53: https://suttacentral.net/sn22.53/vi/minh_chau

(6) Kinh SN 35.191: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn35/sn35.191.than.html

(7) Kinh SN 22.64: https://suttacentral.net/sn22.64/vi/minh_chau

(8) Kinh MA 75: https://suttacentral.net/ma75/vi/tue_sy

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 35335)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19528)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23058)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13265)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5806)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10556)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10289)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 9955)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20755)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6174)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6818)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8841)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 5977)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18106)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6313)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6698)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6521)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12933)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5832)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7842)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10131)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7826)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9811)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9032)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5919)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24479)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36270)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7665)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11471)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 9978)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5202)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5396)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9936)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7831)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9324)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8578)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46363)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6869)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12165)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5759)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14400)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12909)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12345)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14406)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12318)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10918)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9585)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16609)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8432)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5927)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9890)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6344)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11281)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7001)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46564)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13457)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8326)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6833)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9129)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6160)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6868)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17741)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18051)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15685)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6911)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31101)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9542)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7654)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21511)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34081)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33184)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14178)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35546)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 12976)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15738)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13633)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 32913)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41300)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40233)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19998)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33617)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29642)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33697)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18791)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22572)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48911)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11935)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11138)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22403)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17930)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15066)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22615)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15966)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13081)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19654)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12037)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
(Xem: 17597)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant