Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu sử của đức Đạt-lai Lạt-ma đầu tiên

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 18520)
Tiểu sử của đức Đạt-lai Lạt-ma đầu tiên


blankĐức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên chính là Gendun Truppa (còn gọi là Gendun Drub, Gendun Druppa và Gedun Drupa) (1391 - 1475). Ngài được sinh ra trong một gia đình thuộc thành phần chăn nuôi du mục. Họ đã di cư từ miền Đông Tây Tạng đến những cao nguyên mênh mông nằm tận phía Tây của Tổ quốc. Họ tạm định cư trên một cánh đồng nhỏ ở Shabtod, nằm trong thung lũng Srad gần Shigatse và cách chùa Sakya không xa lắm. Theo sử ký‎ Tây Tạng thì cậu bé được sinh ra trong chuồng bò, nơi mà gia đình họ đang ẩn náu ở đó để tránh khỏi sự tấn công của bọn thổ phỉ. Cả gia đình đều bỏ trốn, để lại hài nhi được giấu sau những tảng đá và quấn trong tấm chăn ấm áp. Sáng hôm sau những người chăn cừu quay trở lại, họ vô cùng kinh ngạc khi thấy hài nhi được bình yên vô sự và một con quạ thật to đang canh gác cho cậu bé khỏi sự đe dọa của những bầy quạ, kên kên và những con chó hoang dã khác. Các nhà tiên tri sau này cho rằng con quạ ấy chính là hiện thân của Mahakala, một dạng thần Hộ Pháp phẫn nộ của đức Quan Thế Âm - đức Phật của lòng Từ, và vị thần Mahakala đã theo hộ trì cho cậu bé ấy suốt đời.

Khi còn là một đứa trẻ, cậu bé đã thể hiện khả năng về tôn giáo của mình qua nghệ thuật chạm khắc những câu mật chú và những lời cầu nguyện trên các tảng đá trong lúc đang chăn giữ gia súc. Lúc vừa mới năm tuổi, cậu bé đã nói rằng cậu làm như thế là “để mang lại sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh, mỗi người trong số họ đã từng là cha mẹ của tôi trong những kiếp quá khứ”.

Năm lên bảy, lúc cha Ngài qua đời, người mẹ đã đưa Ngài đến Nartang, một ngôi chùa của phái Kadampa để làm thị giảhọc hành dưới sự giám hộ của người cậu tên là Geshe Chosey. Ngài được đặt tên mới là Padme Dorje (hoa sen sấm sét), và được học hành với một số vị cao Tăng. Để thể hiện lời hứa của mình, vị Viện trưởng - Drubpa Sherab - một Đạo sư nổi tiếng đã nhanh chóng tạo mọi cơ hội cho Ngài được học hành, dìu dắt, chở che và truyền trao nhiều giáo lý‎ và những lễ Quán đảnh quan trọng cho Ngài. Ngài được xuất gia, thọ giới Sa-di và Tỳ-kheo với Pháp danh là Gendun Drub, thậm chí còn được thọ nhận những sự giúp đỡ về mặt vật chấtgia đình Ngài rất nghèo. Trước năm hai mươi lăm tuổi, Ngài đã hoàn tất việc thọ giớitrở thành một vị Tăng thực thụ với Pháp hiệu Gendun Drup hay Gendun Truppa (sự hoàn hảo của đức hạnh) và được học hành dưới sự hướng dẫn từ bốn mươi đến năm mươi vị Lama. Ngài đã được đánh giá rất cao về những tác phẩm và sự học vấn uyên bác của mình.

Sau đó, Gedun Truppa đã rời khỏi Nartang và đến trung tâm Tây Tạng để theo đuổi việc học hành cao hơn ở một số trường Đại học Phật giáo khác. Trong số hơn sáu mươi vị thầy mà Ngài đã từng được học hỏithọ giáo, có ba vị đặc biệt trở thành trợ duyên tột đỉnh trong sự phát triển tâm linh của Ngài. Thứ nhứt là Viện trưởng Drubpa Sherab, kế đến là Ngài Tsongkhapa và cuối cùng là nhà hiền triết Sherab Sengge. Trong lần Ngài diện kiến với Tsongkhapa vào năm 1415, bậc thầy lãnh đạo tinh thần vĩ đại ấy đã xé một mảnh y ca-sa của mình đưa cho Ngài và tiên đoán tương lai thành công của Ngài trong công cuộc thiết lậpgìn giữ “sự thanh khiết của truyền thống Tây Tạng trong Tăng đoàn hay cộng đồng Phật giáo”. Từ Tsongkhapa và đệ tử sau này của ông là Khadrub, Ngài đã được thọ nhận sự đào tạo cao cấp trong dòng dõi Kadam của bậc đạo sư Atisha và trở thành một trong những vị trưởng tử của đạo sư. Trong suốt mười hai năm ở trung tâm Tây Tạng, Gedun Truppa đã nhập thất, thiền địnhhọc hỏi không ngừng, cuối cùng đạt được chức vụ Viện trưởng ở Ganden và do đó - đã đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của phái Gelupa.

Trong thời gian học tại chùa Padme Choling, Gedun Truppa đã được nhận tước vị khả kính là “Tamche Khyenpa” hay “Bậc Toàn Trí”. Mullin (một học giả nổi tiếng) đã viết rằng tước hiệu này đã gắn liền với tất cả các đức Đạt-lai-lạt-ma kế tiếp sau này và có lẽ được sử dụng rất phù hợp trong phạm vi người Tây Tạng hơn là danh hiệu “Dalai”, danh hiệu “Dalai” chỉ được sử dụng bởi người ngoại quốc mà thôi. Điều này cũng hợp lý, bởi lẽ tước vị “Dalai” đầu tiên được trao tặng bởi người ngoại quốc. Một trong những tiểu sử của Tây Tạng về ngài Gedun Truppa đã chép rằng Ngài đã đặc biệt nổi tiếng nhờ vào sự duy trì cả ba cấp độ của giới luật, đó là Tỳ-kheo giới (Pratimoksha) theo truyền thống nguyên thuỷ, Bồ-tát giới (Bodhisattva) theo truyền thống Đại thừaKim Cang giới (Vajrayana) theo Kim Cang thừa. Ngài cũng thọ trìtinh thông về các dòng Mật Tông của Tara và Kalachakra. Cũng theo Mullin thì mỗi một vị Đạt-lai-lạt-ma đã “cống hiến những năng lực siêu phàm” cho sự duy trì và phát triển của những dòng truyền thừa này. Nói chung, Ngài đã thể hiện chính mình là một Tăng sĩ mẫu mực: trước hết là học hành, nghiên cứu bằng quá trình văn - tư - tu của mình để đạt được sự giác ngộ và sau đó là cống hiến cả cuộc đời mình cho sự truyền bá đạo pháp, để lại những tác phẩm giá trịxây dựng các trung tâm tâm linh cho hậu thế.

Như một người thầy, Gedun Truppa đã trở thành bậc Đạo sưnăng lực cao nhất. Là một nhà tinh thông về biện chứng, Ngài có khả năng sử dụng sự thông thạo của mình về các chủ đề để tìm ra những sai lầm trong những luận cứ mà đối phương đã đặt ra cho mình, đồng thời cũng trình bày một cách hết sức sinh động về những luận điểm của chính mình bằng cách sử dụng những phương pháp thẩm vấn và phân tích hoàn toàn logic. Những phẩm tính này đã toát ra từ Ngài một cách hết sức tự nhiên trong quá trình truyền bá giảng dạy, chứ không hề có tính cách tuyên bố bác bỏ các quan điểm khác. Ngài được xem là một người có sự gắn bó mãnh liệt đối với sự quan tâm lo lắng cho thế gian, cũng như có Bồ-đề tâm, khát vọng đối với sự giác ngộ giải thoátquan điểm trung đạo của Tánh không. Ngài được xem là một bậc Đại đạo sư, người có khả năng hướng dẫn đệ tử của mình hiểu biếtnhận thức đúng đắn.

Gedun Truppa đã để lại cho hậu thế vô số các tác phẩm của mình. Trong đó bao gồm bảy tập lớn với hàng trăm đề tài. Có một số tác phẩm như những chú giải của Ngài về Giới và Luận dài đến hơn cả nghìn trang. Thêm vào đó là nhiều sáng tác về thơ văn - một trong những chủ đề hệ trọng của Tây Tạng, và nhiều tiểu luận Ngài viết về “những phương pháp trực tiếp cho sự luyện Tâm” của Ngài Atisha; hay phương pháp “lojong” cho sự rèn luyện tâm linh - đã trở thành một trong những di sản lớn nhất của Ngài. Phương pháp này thực sự quan trọng đối với tất cả các tông phái của Phật giáo Tây Tạng, và nó còn lan rộng đến mức hầu hết các trường phái Phật giáo của trung tâm châu Á đều đón nhận. Do sự nổi tiếng của Ngài và trên thực tế Ngài là một Tăng sĩ Kadampa nên những tác phẩm và sự truyền bá của Ngài đã có ảnh hưởng hết sức sâu rộng. Thể loại văn viết của Ngài rất cụ thể, cặn kẽhết sức rõ ràng trong việc biểu đạt những ý nghĩa cơ bản, tuy nhiên văn phong lại hết sức khiêm nhường.

Gedun Truppa như một nhà xây dựng rất nổi tiếng nhờ công trình xây dựng Tashi Lhunpo - ngôi chùa được mệnh danh là “đỉnh núi của sự phúc lành” ở Tsang gần Shigatse, như một tượng đài kỷ niệm đối với vị thầy đã quá cố của Ngài - Khasgrub. Ngôi chùa ấy đã trở thành một trong những trụ sở đồ sộ nhất của phái Gelupa và là tổ ấm cuối cùng của Panchen Lama - người duy nhất có uy thế toàn diện đứng thứ hai sau đức Đạt-lai-lạt-ma. Bắt đầu từ năm 1447, Ngài đã đích thân giám sát toàn bộ công trình xây cất chùa Tashi Lhunpo, sau đó trở thành vị Viện chủ đầu tiên của ngôi chùa ấy và duy trì vị trí chủ chốt này cho đến cuối đời. Ngài cũng đã nỗ lực quyên góp vật chất, tài chính và tìm kiếm những người thợ khéo léo lành nghề. Ngài là người của thời kỳ Phục hưng, thời kỳ làm sống lại nghệ thuật và văn học dựa trên những hình thức cổ điển. Thậm chí Ngài còn tự mình điêu khắc một số hình tượng trong các ngôi chùa. Dường như Ngài luôn góp sức vào các công trình xây dựng của các chùa chiền khác và thậm chí được tín nhiệmgiao phó cho quyền hành về công trình xây cất chùa Drepung.

Gedun Truppa dường như vô cùng hoàn hảo về sức mạnh tuyệt đối của ý chí, nhân cách và lòng quyết tâm. Tiếng chuông như ám chỉ Ngài đã trở thành một bậc tâm linh siêu phàm ngay từ thời còn thơ ấu, thực hiện những phương châm của chính mình, không cần quan tâm đến những gì thiên hạ bàn tán về mình. Tiểu sử bằng tiếng Tây Tạng đã nhấn mạnh về Ngài với những phẩm chất của một tâm hồn bình thản, cách xử sự điềm đạm, khiêm nhường, và hoàn toàn không có tâm ganh tỵ hay tranh đua, không hề tự khen mình hay chê người.

Gedun Truppa viên tịch vào năm 1475 trong tư thế mà Ngài đã chọn. Với độ tuổi 84 và thỉnh thoảng sức khoẻ không được tốt, Ngài đã nói với các đệ tử là Ngài sắp sửa “ra đi” và đã truyền cho họ những lời huấn thị sau cùng. Sau khi căn dặn họ phải luôn luôn ghi nhớ và thiền định về giáo lý Phật đà, Ngài đã nhập vào mật định bằng phương pháp “Yoga trong giai đoạn hoàn tất” với kỹ thuật điều khiển phong đại và các chất tinh dịch trong các kinh mạch năng lượng của cơ thể đã được chuyển hóa của hành giả Du-già. Thân thể của Ngài bắt đầu chuyển dạng từ một người già nua trở nên trẻ trung và phát hào quang rực rỡ. Ngài giữ nguyên trạng thái như thế trong vòng 49 ngày, không thở và nhịp tim cũng không đập, Ngài ngồi trong tư thế tukdam, một trạng thái huyền bí giữa sống và chết, ý thức dần dần rời khỏi tim và cơ thể được duy trì nguyên vẹn nhờ năng lực của thiền định.

Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực, luôn hướng đến việc thực hiện lý tưởng Bồ-tát đạo đã được ấp ủ trong sự kính trọng cao tột. Các tác phẩm phi thường của Ngài đã đề ra một tiêu chuẩn cho những vị Đạt-lai-lạt-ma kế tiếp noi theo để thực hiện công việc của Ngài như một người thầy. Ngài đặc biệt nổi tiếng về sự nỗ lực để duy trì đức hạnhgiới luật thiền môn. Bằng cách ấy, Ngài đã củng cố và làm nổi bật lên hoạt động của phái Gelupa.

*Sự tái sinh của các Đạt-lai-lạt-ma

Theo tiểu sử được viết do ngài Yangpa Chojey và cũng là thông tin thu thập được của đức Đạt-lai-lạt-ma thứ hai khi còn bé, rằng Gedun Truppa đã dự án cho tâm thức của mình, sau khi qua đời sẽ đến cõi Tịnh Độ Tushita. Ở đó, Ngài hội ý với đức Phật Di-lặc (Vị lai Phật), ngài Atisha và ngài Tsongkhapa về vấn đề Ngài nên tái sinh tại đâu. Ngài Tsongkhapa đã quăng một cành hoa sen trắng và hai cục mưa đá xuống quả đất và nói rằng Ngài nên xuất hiện ở nơi mà vật ấy rơi xuống. Những ghi chép về huyền bí Tây Tạng đã giải thích điều này ngụ ý rằng có ba hiện thân của Gedun Truppa, hiện thân của bông hoa sẽ thực sự trở thành đức Đạt-lai-lạt-ma mới, còn hai vị giấu lai lịch kia sẽ tiếp tục mục đích của đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên.

Mullin đã suy xét rằng Gendun Drup, vị Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên của dòng truyền thừa tái sanh, có thể là vị Đạt-lai-lạt-ma quan trọng nhất, vì cuộc đời của Ngài đã đặt ra một giai đoạn cho sự thành công của những vị tái sanh kế tiếp. Vai trò chủ đạo của sự truyền thừa tái sanh này đầu tiên được sử dụngtruyền thừa bởi ngài Karmapa (có biệt hiệu là “Mũ Đen”), đặt ra như một phương tiện cho sự truyền thừa liên tục của một bậc lãnh đạo tinh thần tuyệt đỉnh siêu phàm. Phái Gelupa cũng theo đuổi mục đích ấy và cũng đã noi theo phương pháp điển hình này. Theo một số chuyên gia phương Tây thì hệ thống này đã xuất hiện và thực sự được thực hiện sau khi ngài Gendun Drub qua đời khoảng vài năm. Các tác giả Tây Tạng đã khẳng định rằng đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã chọn sự tái sinh của mình phù hợp với lời tiên đoán của Tsongkhapa rằng Gendun Drub sẽ tái sinh trong các hiện thân hết sức thành công.

Một trong những tài liệu đáng tin cậy của Thubten Jigme Norbu - người anh trai của đức Đạt-lai-lạt-ma hiện nay, và chính Ngài cũng là một vị tái sinh - trong cuốn sách của Ngài: “Tây Tạng” viết cộng tác với Colin Tumbull, theo quan điểm Ngài, vì Gendun Drub tiếp tục công việc của Tsongkhapa một cách rất thành công nên phái Gelupa đã trở thành mối đe dọa cho những ai mưu toan về quyền thế. Dòng dõi Phagmotru đã bị tan rã vì sự đấu tranh trong nội bộ với một trong những lãnh đạo của họ, người đã thống trị vùng Shigatse và thiết lập nên triều đại Tsangpa chống lại phái Gelupa. Vì sự đối lập này nên phái Gelupa cần phải duy trì quyền kế vị lãnh đạo một cách thống nhất và đảm bảo. Sự kế vị di truyền (cha truyền con nối) như truyền thống Sakya không thể duy trì được trong lối sống nghiêm khắc không lập gia đình của truyền thống Gelupa. Cũng không thể như phương pháp của truyền thống Kargyupa chỉ có sự trao truyền giáo pháp bí mật từ sư phụ cho người đệ tử thích hợp, vì giáo lý của Gelupa không hề có sự bí mật nào cả. Để đáp ứng sự truyền thừa thích hợp chỉ có hình thức “tái sinh”, điều này không phải là một khái niệm mới trong thế giới Phật giáo hay Tây Tạng, nơi mà hệ thống này đã từng được sử dụng. Sự kế vị của Gendun Drup do Gendun Gyatso là ở mức độ hoàn toàn con người; ở đó, Gendun Gyatso đã trở lại để tiếp tục công việc của tiền thân của mình như một người thầy, một bậc đạo sư. Sự hiện thân mới như thế là phù hợp với lòng trung thành, tận tụy cống hiến đã được Gendun Drub thể hiện, và truyền thống Gelupa đã duy trì một cách thống nhất.

Tại điểm này dường như thích hợp để thảo luận về sự kiện quan trọng rằng, mỗi vị Đạt-lai-lạt-ma chính là hiện thân của vị thần hộ mệnh Chenrezig của Tây Tạng hay Avalokite’svara (đức Quán Thế Âm Bồ-tát), vị Bồ-tát của lòng Từ. Hầu hết các nghiên cứu đều gán cho rằng đức Đạt-lai-lạt-ma thứ V chính là những khởi đầu của sự liên tưởng này, điều mà Mullin đã xem là một sai lầm do Waddell khởi xướng và tiếp theo là những tác giả sau này cũng thế. Ý kiến phổ biến đã cho rằng đức Đạt-lai-lạt-ma thứ V đã nắm lợi thế về đức tin cổ truyền của người Tây Tạng đối với đức Quán Thế Âm trong nhiều thế kỷ, nên đã tuyên bố rằng Ngài và, những vị Đạt-lai-lạt-ma trước đó chính là những hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Về cơ bản, lời tuyên bố này không hề được biết đến trước đó, chỉ được tìm thấy trong văn bản có tựa đề là “Terma” (kho báu) trong truyền thống phái Nyingma. Văn bản này tiết lộ lời tiên tri về sự tái sinh này của dòng dõi Đạt-lai-lạt-ma. Mullin phát biểu rằng đức Đạt-lai-lạt-ma thứ V không hề hư cấu nên câu chuyện huyền thoại này, đúng hơn là Ngài chỉ thừa kế nó mà thôi. Căn cứ theo văn sử của đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên thì ngài Atisha luôn luôn ám chỉ vị đệ tử của Ngài - Lama Drom (Dromton) - như một hiện thân của đức Quán Thế Âm. Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên được xem là hiện thân của Lama Drom. Kể từ đó, sự thừa kế về thần thoại như thế lại được nối tiếp bởi dòng dõi Đạt-lai-lạt-ma. Đức Quán Thế Âm Bồ-tát được xem là tổ tiên của dân tộc Tây Tạng, Ngài hiện thân làm những bậc đại vương của họ như vua Songtsen Gampo, vua Trisong Detsun - người đã mang Phật giáo đến xứ sở Tây Tạng, và kế đến là Lama Drom - người đã hoàn tất công việc của ngài Atisha để bảo vệcủng cố giáo phápTây Tạng. Như vậy, không có gì đáng phải ngạc nhiên về sự hiện thân của Ngài là dòng dõi Đạt-lai-lạt-ma để làm tăng thêm uy thế bao la của dòng truyền thừa này.

■ Biển Xanh

Phỏng dịch theo phần: “A History of Dalai Lamas within the Context of Their Times” của tác giả Ardy Verhaegen.

Ý kiến bạn đọc
25 Tháng Tư 201608:04
Khách
Tuyệt vời quá! Tôi mong được chạm tới nền văn hoá Tây Tạng,muốn biết nhiều hơn về các vị truyền thừa!các vị Đại Lai Lạt Ma
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8006)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35529)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19662)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11685)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23170)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13342)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5841)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10609)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10351)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10045)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20852)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6201)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6846)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8886)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6009)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18146)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6345)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6723)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6549)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12992)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5862)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7881)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10196)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7864)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9859)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9071)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5980)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24536)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36369)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7714)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11543)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10032)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5227)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5417)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9993)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7877)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9354)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8649)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46500)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6894)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12295)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5795)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14489)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14552)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12414)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10949)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9627)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16685)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8467)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5955)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9947)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6373)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11345)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7040)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46691)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13492)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8384)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6855)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9170)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6179)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6896)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17834)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18162)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15786)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6942)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31224)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9570)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7683)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21617)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34167)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33292)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14233)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35637)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13004)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15768)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13679)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33026)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26348)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41406)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40344)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20036)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33693)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29677)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33723)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18863)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22688)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22413)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48989)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11963)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11157)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22507)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17994)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15113)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22677)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15996)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13109)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19718)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12061)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant