Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu sử Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9452)
Tiểu sử Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV


Vào lúc vị Đạt-lai Lạt-ma thứ III sắp viên tịch, những người Mông Cổ được Ngài hóa độ đã cầu khẩn Ngài nán ở lại thêm một thời gian nữa vì sự lãnh đạo về tôn giáo của Ngài thật sự hết sức cần thiết đối với họ. Ngài đồng ý sự thỉnh cầu ấy bằng cách hứa sẽ tái sinhMông Cổ. Một thời gian ngắn sau đó, vào năm 1589, một cậu bé đã ra đời trong Hoàng gia Altan Khan (cháu nội lớn của Altan khan), và đã biểu hiện một số dấu hiệu như nhìn thấy được nhiều vị thần, nhận ra được những vật dụng cá nhân của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III, biểu lộ rằng cậu ta chính là tái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III… Một ủy ban tìm kiếmTây Tạng đã được cử đến đó để kiểm tra và chứng thực về những dấu hiệu này. Một phái đoàn rất đông ở trung tâm Tây Tạng bao gồm cả những nhân viên cư sĩ cao cấp và các đại diện của ba chùa chính của phái Gelugpa và vị thủ quỹ của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III đã đến Mông Cổ, nhưng họ đã bị thất bại trong việc thuyết phục cha mẹ cậu bé cho phép cậu ta trở về Tây Tạng với họ. Sau đó, Ngài được đào tạo cơ bản về tôn giáo tại Mông Cổ do một số Tăng sĩ Tây Tạng được gởi sang để dạy kèm cho Ngài và Ngài đã được đăng quang ở đó vào năm 1591. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV được đặt tên là Yonten Gyatso (Biển Đức Hạnh), sau này được biết đến như Tutob Yonten Gyatso (Nhà tinh thông Yonten Gyatso), vì Ngài đã chứng tỏ được sức mạnh tâm linh vĩ đại của mình từ khi còn ở độ tuổi niên thiếu. Sự xuất hiện của Ngài ở Mông Cổ là để thực hiện tiến trình củng cố và đưa người Mông Cổ tiếp cận với tôn giáo của Tây Tạng mà không khiến cho họ cảm thấy bị phụ thuộc vào Tây Tạng. Điều này đã đưa đến mối quan hệ tinh thần chặt chẽ giữa Mông CổTây Tạng. Truyền thống Gelugpa cũng trở nên có ưu thếMông Cổ, vượt trội hơn tất cả những uy thế của truyền thống Sakya trước kia.

Vào năm 1601, Yonten Gyatso cùng với phái đoàn Tây Tạng và đoàn hộ tống Mông Cổ đã rời khỏi Mông Cổ để đảm nhận nhiệm vụ của Ngài ở trung tâm Tây Tạng. Họ đã du hành dọc theo Vạn L‎ý Trường Thành của Trung quốc đến vùng Kokonor và Ngài đã thuyết pháp tại đó. Họ cũng dừng chân ở Tongkhor – nơi mà đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III đã thiết lập một trạm ngoại giao ở đó. Khi đến Lhasa - Tây Tạng, Ngài lại được đăng quang một lần nữa và được tiếp đãi với nhiều buổi tiệc, hội hè. Ngài đã nhanh chóng được bố trí ở Drepung và được thế phát tại đây, sau đó trở thành học trò của vị học giả viện trưởng của Tashi Lhunpo - Lama Lobsang Chokyi Gyaltsen. Vị Lama lỗi lạc này đã dạy cho đức Đạt-lai Lạt-ma trẻ về kinh điểnmật chú. Sau đó, Ngài được chính thức thọ Cụ túc giới vào năm 1614, lúc Ngài 25 tuổi, có phần trễ hơn so với dự kiến

Yonten Gyatso tỏ rathiên hướng là một học giả, mặc dù các tác phẩm của Ngài không đáng kể lắm nhưng Ngài đã dành hầu hết thời gian cho việc nghiên cứu, tu tập và giảng dạy. Ngài dường như trưởng thành một cách chậm chạp, có vẻ tự mãn và sinh lực hơi kém. Khi suy xét ra thì mới biết đó là do tình hình khá bình yên kể từ khi Ngài đến Tây Tạng. Tuy nhiên, Ngài cũng đảm đương hết những trách nhiệm của mình bao gồm cả việc ban phước lành cho các quan chức cao cấp của Mông CổTây Tạng, đáp ứng lại nhiều lời mời đi thỉnh giảng, và chủ trì Đại Lễ Hội Cầu Nguyện hàng năm… Vào 1615, Hoàng đế Trung Quốc cũng mời Ngài sang viếng thăm với mục đích cầu an ban phước cho một ngôi chùa ở Nanking, nhưng Ngài đã từ chối vì sức ép của trách nhiệm.

Nhân dân Mông Cổ đã rất buồn khi nhìn thấy đức Đạt-lai Lạt-ma của nước họ phải ra đi, tuy nhiên, nỗi đau buồn ấy cũng đã được xoa dịu phần nào khi Ngài phái người đại diện sang Mông Cổ. Đó là tái sinh của một bậc cao tăng được xem là hiện thân của đức Phật vị lai Di-lặc. Ngài đã được trao tặng tước hiệu là Maidari Hutuhtu. Vị hiền giả mới này được đưa đến cư ngụ ở Urga dưới sự bảo trợ của những người Mông Cổ thuộc bộ tộc Khalkha. Một cuộc tranh cãi đã nổi lên khi vị trí tinh thần của vị hiền giả này liên quan đến số phận của bậc cao tăng chùa Mông Cổ ở Gahdan, khiến cho vị thủ lĩnh Bộ tộc của họ dường như đang kề cận bên bờ vực chiến tranh.1 Vị lãnh tụ người Mông Cổ thuộc bộ tộc Celeuth - một đảng đối lập khác - đã hòa giải thành công những rắc rối ấy, do sự giúp đỡ đó, nên vị này đã được Hoàng đế Trung Quốc ban tặng tước hiệu Phật giáo: “Ta Kausri” và đã đóng một vai trò nổi bật trong thành phần lãnh đạo của Tây Tạng.

Phái Karmapa Mũ đỏ ở Tây Tạng - những người được vua Karma Tensung Wangpo bảo trợ - đã không hài lòng khi thấy phái Gelugpa trở nên có ưu thế kể từ lúc đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV quang lâm và đăng quangTây Tạng. Họ đã gởi các tin nhắn và làm thơ phú đến đức Đạt-lai Lạt-ma, điều này bị các thuộc hạ của đức Đạt-lai Lạt-ma cho rằng đó là thái độ cục bộ do sự thiếu hiểu biết, thái độ kẻ cả và còn là một sự lăng nhục đối với Ngài. Vì thế, những kỵ binh của Đạt-lai Lạt-ma đã tấn công vào các trại ngựa và nhà cửa của những người thuộc phái Karmapa Mũ đỏ. Để trả đũa, vua Karma Tensung Wangpo đã xâm chiếm Lhasa vào năm 1605, trục xuất những người lính gác Mông Cổ. Và trong cuộc đấu tranh giành quyền lực sau đó, một số huyện thuộc trung tâm Tây Tạng đã bị chiếm đóng.

Năm 1607, Đạt-lai Lạt-ma viếng thăm miền Nam Tây Tạng và qua năm sau Ngài đến Tsang nơi mà Ngài được thỉnh cầu đảm trách chức vụ lãnh đạo chùa Tashi Lhunpo. Khi là viện chủ của Drepung, Ngài đã nhận được tước hiệu danh dự, sau đó tiếp tục những chuyến thuyết giảng ở các chùa thuộc phái Gelugpa. Karma Tensung Wangpo - vua của xứ Tsang - không ủng hộ và cũng không cản trở các hoạt động này của Ngài. Trên đường trở về trung tâm Tây Tạng, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV đã dừng lại ở chùa Gongkhor. Những thông tin liên lạc giữa Ngài và Lama Karmapa Mũ đỏ - người cũng đang cư ngụ gần đó - cho thấy rằng có thể có một cuộc gặp gỡ để trao đổi về vấn đề hòa giải giữa hai phái. Tuy nhiên, các thuộc hạ của cả hai vị Lama này đều không mong muốn như thế. Vì vậy, đức Đạt-lai Lạt-ma buộc phải rời khỏi Drepung, dập tắt mọi hy vọng của sự giải hòa.

Vào năm 1610, dòng dõi Phagmotru những người bảo trợ của phái Gelugpa trở nên phấn chấn và phục hồi sự hưng thịnh của họ nhờ sự thành công của phái Gelugpa kết hợp với sự hiện diện của đức Đạt-lai Lạt-ma. Họ đã tấn công vào Tsang và làm chủ toàn bộ lưu vực Lhasa. Sau đó, vua xứ Tsang đã trả đũa, chiếm lại toàn bộ quyền kiểm soát trung tâm Tây Tạng và do đó đã chính thức cai quản Tây Tạng. Tuy nhiên, vị tân Vương - Karma Phutsok Namgyal - vẫn cho phép phái Gelugpa hoạt động như những người đại diện của ông ở Lhasa. Khi ông yêu cầu được tiếp kiến đức Đạt-lai Lạt-ma, ông đã bị những người hầu cận của đức Đạt-lai Lạt-ma từ chối vì lý‎ do rằng ông chính là địch thủ của phái Gelugpa. Điều ấy đã khiến cho vị tân Vương này cảm thấy bị xúc phạm. Shakabpa2 nói rằng, dân chúng đều đồng cảm với nhà vua bởi vì vua có thể thắng cuộc một cách thanh thản thay vì ông phải trở về Shigatse một cách hết sức thất vọng.

Vào năm 1616, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV bị bệnh thấp khớp, phải đi đến những suối nước nóng để chữa trị. Đầu năm 1617, Ngài viên tịch ở Drepung khi vừa tròn 28 tuổi. Vài kết quả nghiên cứu cho thấy rằng Ngài bị nhiễm độc. Lễ hỏa táng của Ngài do Lobsang Chokyi Gyaltsen chủ trì. Hài cốt của Ngài được phân bố giữa chùa Drepung, thân phụ của Ngài là một trong những nhà bảo trợ người Mông Cổ.

Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực. Những vấn đề về chính trị đều do các thuộc hạ của Ngài điều khiển với sự thành công không đáng kể; đúng hơn là họ đã góp phần tạo nên những áp lực căng thẳng trong nội bộ của Tây Tạng. Mối liên kết mạnh mẽ với Mông Cổ do đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III khởi xướng và được củng cố thêm bởi sự tái sinh của Ngài là đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV - đã bị đổ vỡ ở Tây Tạng vì sự quan tâm của người Mông Cổ đối với nguồn gốc tinh thần của họ.3 Trung quốc đã bị chiếm đóng do chính những cuộc xung đột trong nội bộ, điều đó cho thấy trong tình hình này chỉ còn mối quan tâm ngoại vi duy nhấtTây Tạng.4 Giai đoạn này như đang chuẩn bị cho sự ra đời của một trong những nhà chính trị năng động nhất, nhân vật tâm linh vĩ đại nhất từ trước đến nay - sẽ xuất hiện ở Châu Á.

Phỏng dịch theo phần: “A History of Dalai Lamas within the Context of Their Times” của tác giả Ardy Verhaegen.

Chú thích:

1. Sở dĩ điều này xảy ra là do vào thời ấy ở Mông Cổ nếu nhân vật nào trở nên nổi tiếng hơn thì thường có ưu thế hơn về quyền lực chính trị - lời người dịch.

2. Người giữ chức vụ Bộ trưởng bộ Tài chánh của Tây Tạng

3. Người Mông Cổ cho rằng đức Đạt-lai Lạt-ma là người của đất nước họ, là nguồn gốc tâm linh của họ, nhưng vì người Tây Tạng nên họ không giữ được Ngài lại Mông Cổ, vì thế, mối thiện cảm giữa hai quốc gia dần dần bị rạn nứt - lời người dịch.

4. Tây Tạng lúc này dường như trở thành miếng mồi duy nhất của Mông Cổ.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 24


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17658)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24492)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26007)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13772)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13178)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22054)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19073)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10004)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11911)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13043)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15190)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10538)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21823)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10126)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9848)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9750)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10193)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27411)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17843)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13196)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25152)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34657)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26760)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19069)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9005)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13087)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9007)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9136)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11796)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18523)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8781)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10666)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10958)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28000)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17877)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16364)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13206)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15532)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7600)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17048)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8392)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30720)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant