Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 13087)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI


Sự viên tịch của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V và sự ra đời của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã được Sangye Gyatso giữ bí mật suốt mười lăm năm. Tin tức được loan đi rằng đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ nhập thất thiền định vô kỳ hạn. Thông báo này chỉ được quần chúng và các công chức chính phủ thừa nhận về mặt hình thức mà thôi. Để giữ kín bí mật này, Sangye Gyatso, viên quan nhiếp chính đã phải thực hiện những việc bất bình thường. Việc này chỉ có các thị giả riêng của đức Đạt-lai Lạt-ma, vị Tăng sĩ giả dạng đức Đạt-lai Lạt-ma và viên quan nhiếp chính biết mà thôi. Sự mạo dạng này là yêu cầu bắt buộc không thể tránh được khi các Hoàng tử Mông Cổ và các nhân vật tầm cỡ khác muốn thỉnh cầu được tiếp kiến riêng với đức Đạt-lai Lạt-ma. Khi khoác lên mình chiếc y và mũ lễ phục, đeo kính râm vào, vị Tăng sĩ giả dạng đức Đạt-lai Lạt-ma đã có thể gạt được các viên chức cao cấp, những người dường như trước đó chưa từng nhìn thấy đức Đạt-lai Lạt-ma bao giờ.

Một số tài liệu cho rằng, chính đức Đạt-lai Lạt-ma trước khi viên tịch đã chỉ thị mưu kế này để giúp cho công trình xây cất cung điện Potala có thể được hoàn tất mà không bị bất cứ trở ngại nào và cũng để ngăn ngừa dân Mãn Châu gieo rắc mầm mống chia rẽ những người dân Mông Cổ thuộc vùng Kokonor.

Một số học giả cho rằng có lẽ Sangye Gyatso đã bày ra mưu kế này hoặc vì lý do an ninh quốc gia, hoặc vì muốn chính mình tiếp tục duy trì việc điều hành quốc sự của Tây Tạng. Thậm chí có học giả còn xác nhận rằng, bí mật này thật ra nhiều người dân Tây Tạng đã biết. Tuy nhiên, không ai phủ nhận khả năng điều hành quốc sự một cách đáng khâm phục của Sangye Gyatso. Malik còn đi xa hơn nữa khi phát biểu rằng: “Sangye đã bảo vệ tổ quốc thoát khỏi sự can thiệp của ngoại bang nhờ không giải bày cho quần chúng biết về tâm sự bí mật của riêng mình và những tình hình bất ổn trong nội bộ cũng như sự bất an của quốc gia”.

Năm 1695, cung điện Potala được hoàn tất. Năm sau đó (1696) tin tức về “đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V đã viên tịchtái sinh của Ngài đã được phát hiện ra trước đó rất lâu” đã được loan báo và thông báo chính thức với triều đình Trung Quốc.

Vào năm 1683, một bé trai chào đời ở huyện Monyul thuộc miền Nam Tây Tạng (ngày nay là huyện Tawang thuộc tiểu bang Arunachal, Ấn Độ). Cha của cậu bé là Ridgzin Tashi, một Lama Mật tông nổi tiếng của truyền thống Nyingmapa, đồng thời cũng là một Terton - người đã phát hiện ra bảo vật trong dòng truyền thừa của Padmaglingpa. Mẹ cậu bé là Tsewang Lhamo, một Phật tử thuần thành.

Theo truyền thuyết địa phương, vài hiện tượng kỳ diệu được cho là do cậu bé thực hiện. Những điều này bao gồm những vết chân cậu bé đã để lại, dấu vết xương đầu được in khi đặt cậu bé nằm và những chữ thần bí được viết bằng ngón tay trên tảng đá cứng. Tất cả những dấu tích này cho đến tận bây giờ vẫn còn có thể nhìn thấy được. Một trường hợp ngẫu nhiên khác được xem là kỳ diệu về việc cậu bé trồng ba cây gỗ đàn hương. Cậu ta nói rằng ba cây này sẽ phát triển và khi nào chúng cao bằng nhau thì cậu ta sẽ trở lại. Điều này đã được ghi nhận rằng vào năm 1959 những cây này đều có chiều cao, kích cỡ và hình dáng như nhau. Sau đó không lâu, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV đã đi ngang qua Tawang trong cuộc hành trình lưu vong đến xứ Ấn. Ngài thấy chúng còn để lại dấu tích bị xém lửa vào thời điểm hỗn loạn nhất do sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Tây Tạng.

Viên quan nhiếp chính Sangye Gyatso đã bí mật nghiên cứu những chỉ dẫn về thân tái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Với sự hướng dẫn của các nhà tiên tri, vào năm 1685, phái đoàn tìm kiếm đã báo cáo về sự ra đời của một cậu bé khác thường. Sau hai chuyến viếng thăm liên tiếp của các phụ tá tin cậy và những cuộc hội ý cặn kẽ với các nhà tiên tri, cậu bé đã được xác nhậntái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma. Năm lên sáu tuổi, đức Đạt-lai Lạt-ma tí hon và mẹ của Ngài được đưa đến ở gần chùa Tsona và được bảo vệ an ninh chặt chẽ cho đến năm 1697. Vào thời điểm đó, Ngài được đưa đến Nakartse gần Lhasa để sư phụ của Ngài – đức Panchen Lama Lobsang Yeshe truyền lễ xuất gia, đặt Pháp danh Tsanyang Gyatso và giảng pháp cho Ngài. Tại đó, trước sự chứng kiến của đông đảo Tăng chúng bao gồm cả các Viện chủ của các Tu viện Drepung, Sera và Ganden, Sangye Gyatso đã trình bày chi tiết về những lời di huấn của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Sau đó, Tsanyang Gyatso được đăng quang thành đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI và ngự tại cung điện Potala trước sự tụ họp của các cư sĩ quí tộc, những nhân vật quan trọng trong giáo hội và các viên chức nước ngoài. Đức Đạt-lai Lạt-ma trẻ đã nhận được sự truyền dạy về tâm linh dưới sự chăm sóc và giám hộ của Sangye Gyatso và đức Panchen Lama thứ II. Tuy nhiên, Tsanyang Gyatso thích dành thời gian cho việc tập bắn cung tên và vui thú với bạn bè bên ngoài hơn là sự sợ sệt đối với viên quan nhiếp chính. Với cá tính mộc mạc, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã giản hóa những nghi lễ và cũng không cần người phục vụ hầu hạ. Ngài tự pha trà cho chính mình và sẵn sàng chia sẻ với bất cứ ai đến tiếp kiếnthỉnh cầu sự ban phúc của Ngài. Mặc dù ngài ít chú tâm vào sự học hỏi, huấn luyện ở chốn Thiền môn, thế nhưng Ngài lại nổi tiếng là một người thông minh, sâu sắc và đã sáng tác được nhiều luận thuyết uyên bác. Ngài cũng là một nhà kiến trúc khéo léo, đã trang trí cho cung điện Potala và xây dựng cung điện Lu Khang (Toà nhà Rắn) phía dưới cung điện Potala. Như một vũ công, Tsanyang Gyatso đã cống hiến cho sự phát triển của Cham - một nền nghệ thuật nhạc kịch trong các tu viện Tây Tạng.

Năm hai mươi tuổi, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đến Tashi Lhunpo, dự định sẽ thọ Đại giới với sư phụ của mình là đức Panchen Lama, nhưng Ngài đã trì hoãn việc đó trong suốt thời gian rất dài. Sau đó, bất chấp sự nài nỉ khẩn cầu của các viên chức lãnh đạo như Thanyang Khan – anh trai vua Qosot của Tây Tạng, Ngài Panchen Lama và các vị Viện trưởng của Drepung, Sera, Ganden – Tsanyang Gyatso xả giới và hoàn tục. Tuy Ngài không còn là bậc lãnh đạo tôn giáo của Tây Tạng nữa, nhưng vẫn có thể giữ địa vị của mình ở thế gian như một Đạt-lai Lạt-ma.

Từ đó, Tsanyang Gyatso thích giữ khoảng cách với Sangye Gyatso. Hơn nữa, trước sự sửng sốt của viên quan nhiếp chính và tất cả các nhân vật lãnh đạo quốc gia, đức Đạt-lai Lạt-ma có cách ăn ở được xem là không thích hợp với người Tăng sĩ. Lối ăn mặc như một cư sĩ với những bộ quần áo lụa xanh và gấm thêu kim tuyến, để tóc dài, thường đến các quán rượu ở Lhasa và Shol, một khu phố ngay dưới chân của cung điện Potala… Trong khi lối cư xử của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI bị xem như một nỗi kinh hoàng trong giới viên chức lãnh đạo cả lĩnh vực tôn giáo lẫn thế gian thì Ngài lại được quần chúng hết sức tôn sùng và niềm tôn kính ấy vẫn còn duy trì cho mãi đến ngày nay trong hầu hết người dân Tây Tạng. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã đặc biệt được mến mộ qua những tác phẩm thơ ca của Ngài. Bên cạnh nhiều bài thơ hàm chứa tính trào phúng sâu sắc đề cập đến sự bất công của xã hộiđạo đức giả của nhiều Tăng sĩ, còn có những bài thơ tình rất sáng sủa. Tuy nhiên, thơ ca của Ngài cũng đã thể hiện được những cảm xúc tôn giáo rất sâu sắc. Có những bài thơ được các học giả Tây Tạng đánh giá như những tác phẩm của một bậc Đạo sư Mật tông, hàm chứa những ẩn ýđộc giả thông thường không thể cảm nhận được. Sự đánh giá này được ủng hộ bởi các luận thuyết của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI. Có ý kiến cho rằng Ngài đã hành động với khả năng của một Đạo sư Mật tông – một bậc Thầy tinh thông – người đã dạy cho ta biết rằng: “Chính cuộc đời, dù nó xảy đến với chúng ta trong bất cứ hình thức nào, cũng đều là một trong những bậc Thầy vĩ đại nhất của chúng ta”.(1) Một l‎ý do khác được các tác giả nêu ra về cách cư xử của Tsanyang Gyatso là Ngài đã không nhận được sự dạy dỗ và giáo dục nghiêm ngặt về tôn giáo, điều mà các Đạt-lai Lạt-ma và các vị hóa thân cao quý khác phải trải qua ngay từ tuổi ấu thơ. Do những hoàn cảnh xung quanh cái chết của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V nên vị hóa thân trẻ thứ VI này được sống nhiều năm trong những mối quan hệ tự do. Tuổi trẻ của Ngài đã có thời gian tiêm nhiễm cái sở thích về những thú vui thế gian, cho thấy rằng những đặc điểm và các sở thích ấy không thể sẵn sàng gạt bỏ sang một bên được. Không lấy gì làm ngạc nhiên rằng, theo lối suy nghĩ ấy, vị Đạt-lai Lạt-ma trẻ vô tư ấy đã lẩn tránh cái gánh nặng của những trách nhiệm mới bị áp đặt này.

Đức Đạt-lai Lạt-ma hiện tại thì nêu lên một giả thuyết khác rằng có thể đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI cảm thấy sẽ tốt hơn nếu gián đoạn dòng hóa thân của Ngài bằng cách ủng hộ quyền kế vị theo dòng truyền thừa di truyền cha truyền con nối như truyền thống phái Sakya. Điều này sẽ loại trừ được sự vô nghĩa của quyền lực, điều mà chắc chắn sẽ tồn tại trong thời gian giữa cái chết của một vị Đạt-lai Lạt-ma cho đến khi vị tái sinh của Ngài đạt đến tuổi trưởng thành. Rắc rối chỉ có thể được giải quyết bởi cậu con trai của người lãnh đạo - khi đã được trang bị đầy đủ và chín muồi, sẵn sàng bước vào địa vị thừa kế của cha mình. Là một Tăng sĩ theo truyền thống Gelugpa, điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách xả giới, hoàn tục và sống cuộc đời như một người cư sĩ.

Lhazang Khan, thủ lĩnh của dân Qosot - người nắm giữ vương quyền của Tây Tạng bằng cách hạ độc anh trai của mình, vẫn giữ chức vị là vua của Tây Tạng. Lhazang và Sangye Gyatso càng ngày càng đối kháng lẫn nhau. Năm 1703, Sangye Gyatso bị buộc phải từ chức do một số bất bình của người Mông Cổ đối với ông ta. Trước khi từ chức, ông đã xây một lăng mộ bằng vàng trong cung điện Potala để bảo quản di thể của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Khi từ chức, ông đã đề cử con trai lớn của mình là Ngawang Rinchin làm quan nhiếp chính. Tuy nhiên, từ phía hậu trường ông vẫn duy trì việc điều hành chính trị một cách rất hiệu quả. Các cuộc tranh cãi về thực tiễn tôn giáo và sự thất bại của Sangye Gyatso đối với việc chỉnh sửa cách quản lý của đức Đạt-lai Lạt-ma đã làm tăng thêm tình hình căng thẳng với Lhazang Khan. Cuối cùng, Sangye Gyatso đã cố hạ độc Lhazang và một trong những thư ký của ông ta, nhưng Jamyang Shepa ở tu viện Drepung đã cứu được họ.

Ba vị viện chủ của ba tu viện chính của phái Gelupa là vị đại diện của Ngài Panchen Lama, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI và nhà tiên tri Lamo là những người đã nỗ lực đứng ra hòa giải mối xung đột này. Kết quả là Lhazang Khan, không thể từ chối được, phải tuân lệnh của nhà tiên tri Lamo chuyển đến xứ Kokonor. Tuy nhiên, đi chưa được bao xa thì Lhazang Khan xảo quyệt ấy lại tập hợp quân lính của mình và tiến đến Lhasa. Sự thương thuyết của Panchen Lama và các vị viện chủ đã không tạo được sự ngừng bắn. Theo những báo cáo của Dhondup thì Sangye Gyatso và quân đội Tây Tạng của ông đã nhanh chóng bị bại trận. Sau đó, vị cựu quan nhiếp chính này đã bỏ đi Gongkar nhưng đã bị chặn lại theo lệnh của vợ Lhazang Khan và đã bị hành quyết vào năm 1706. Sự việc này đã bị nhân dân Tây Tạng phản đối kịch liệt, bởi vì ngoài những khiếm khuyết của mình, Sangye Gyatso đã được xem như một người vô địch trong các mối quan tâm của người dân Tây Tạng. Lúc bấy giờ, Lhazang Khan đã hoàn toàn nắm giữ quyền điều hành chính sự.

cách sống của đức Đạt-lai Lạt-ma được lý giải dưới góc độ nào thì đó cũng là lý do chính để phe đối kháng buộc Ngài từ bỏ chức vụ của mình. Với lý do đó, Lhazang Khan đã khích động về việc cách chức đức Đạt-lai Lạt-ma. Ông đã ra sức lôi kéo sự ủng hộ của ba tu viện chính và Ngài Panchen Lama. Ông cũng tìm kiếm sự trợ giúp của hoàng đế K’ang His, người đã ban hành lệnh truy bắt đức Đạt-lai Lạt-ma đưa về Bắc Kinh. Lhazang Khan ra sức xúi giục những vị lãnh đạo truất phế đức Đạt-lai Lạt-ma trên với lý do không còn đủ tư cáchđịa vị đó nữa. Mặc dù họ không tiến hành xa như thế nhưng cũng đã ban hành một quyết định ám chỉ rằng: Tsanyang Gyatso dù còn là một vị Đạt-lai Lạt-ma hợp pháp nhưng tinh thần giác ngộ đã không còn trong con người của Ngài nữa. Với cái cớ ấy, Lhazang Khan đã ra lệnh đưa đức Đạt-lai Lạt-ma đến doanh trại quân đội của người Mông Cổ ở Lhalu nằm bên ngoài Lhasa, và tất cả những tài sản riêng của Ngài phải chuyển đi khỏi cung điện Potala.

Vào ngày 27/06/1706, tin tức đức Đạt-lai Lạt-ma đã bị truất phế và sẽ bị đưa đi đày ải được loan truyền khắp nơi. Khi đoàn hộ tống Ngài đi đến Drepung thì có một đám đông người không có khí giới đã tấn công, sau đó đã bị đánh bật trở lui. Họ đưa được đức Đạt-lai Lạt-ma đến Drepung. Ngày hôm sau, vị Thần tiên tri Nechung được thỉnh cầu về để tham khảo ý kiến và Ngài đã công bố rằng Tsanyang Gyatso chính là hoá thân thật sự của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Nhận thấy rằng một cuộc thảm sát có thể sẽ xảy ra nên đức Đạt-lai Lạt-ma khăng khăng đòi ra đi cho dù bạn bè của Ngài đã bị giết sạch trong cuộc tấn công để bảo vệ Ngài thoát khỏi tay của quân lính Mông Cổ. Tuy thế, Lhazang Khan, trong cơn tức giận, đã tấn công và cướp phá chùa trước khi sang Trung Quốc cùng với vị Đạt-lai Lạt-ma đã bị truất phế. Tháng 11/1706, tại một hồ nhỏ tên là Gunganor ngay miền Nam Kokonor, Tsanyang Gyatso, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã biến mất. Theo hồ sơ của Tây Tạng và chính quyền Trung Quốc thì Ngài đã từ trần do bệnh tật. Thi thể của Ngài không bao giờ được tìm thấy và theo sự suy xét thì Ngài đã bị giết.

Trong truyền thuyết dân gian và trong biên niên sử của Tây Tạng vẫn còn câu chuyện rằng, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI - đã sử dụng những năng lực huyền bí của mình - chỉ biến mất khỏi tay những người bắt giam Ngài. Trước tiên Ngài đến miền Đông Tây Tạng, sau cuộc du hành vạn dặm, Ngài đã đến Mông Cổ. Theo một số sử liệu của Mông Cổ thì tại đây, Ngài sống một cuộc đời tĩnh lặng trong sự thiền định và đã thu nhận nhiều đệ tử. Trong cuốn “Tiểu sử bí mật của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI” cũng nói rằng, “Ngài đã xây dựng nhiều chùa chiền và cuối cùng viên tịch vào năm 1746”. Trong một bản phóng tác khác chép rằng: sau khi biến mất khỏi những người bắt giam Ngài, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã vân du như một Tăng sĩ, thỉnh thoảngxuất hiện nhưng lại biến mất ngay lập tức mỗi khi Ngài bị người phát hiện ra. Cuối cùng, Ngài đã đến Mông Cổ và làm việc như một người chăn dê.

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó, thay vì chỉ thích sống một cuộc đời theo đuổi những thú vui - một cuộc sống mà đã được giải thích nhiều dưới ánh sáng của Mật tông là đã nâng những hành động của Ngài “vượt lên trên những việc làm bình thường của những con người bình thường ở thế gian”. Ngài là con người của dân tộc, đã thể hiện được chính mình qua những vần thơ kiệt tác. Mặc dù Ngài là nguồn hiềm khích của giới viên chức Tây Tạng nhưng Ngài đã được quần chúng Tây Tạng tôn kínhyêu quí vô cùng. Đối với họ, Ngài chính là một vị Thần có lòng từ bi vĩ đại, đã giáng hạ xuống để có những cảm xúc như một con người. Thậm chí Ngài đã hành động như một con người bình thường trong khi vẫn tiếp tục duy trì hóa thân của đức Quán Thế Âm, vị Bồ-tát của lòng từ, vị Hộ thần cao quý của miền đất tuyết.

Biển Xanh

Phỏng dịch theo phần: “A History of Dalai Lamas within the Context of Their Times” của tác giả Ardy Verhaegen.

(1) Trong “Tibet” của Norbu và Turnbull, tr. 284-293, hai tác giả này đã bàn về những nét nổi bật trong sự giảng dạy Mật tông của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI. Một vấn đề đáng chú ý trong mối quan hệ của Tsanyang Gyatso với nữ giới là Ngài đã khẳng định rằng không hề cho phép một giọt tinh dịch nào xuất ra trong tất cả các mối quan hệ với nữ giới. Điều này được xem là một sự thực hành Mật Tông tối thượng đưa đến sự tỉnh giác của tâm ở cấp độ cao. Những ý kiến tương tự cũng đã được bàn đến trong “Dalai Lama of Tibet” của Malik, tr. 34-35; “Initiates and Initiations in Tibet” của Alexandra David-Neel, tr.123.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 32


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8014)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35549)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19679)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11696)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23183)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13351)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5843)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10619)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10356)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10053)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20866)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6206)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6854)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8894)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6016)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18155)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6351)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6729)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6553)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13015)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5872)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7889)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10204)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7872)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9863)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9078)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5983)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24546)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36392)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7722)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11548)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10045)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5228)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5420)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10003)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7882)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9360)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8654)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46524)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6899)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12308)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5798)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14497)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12979)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12425)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14561)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12425)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10954)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9635)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16696)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8474)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5964)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9955)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6375)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11349)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7046)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46704)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13498)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8394)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6858)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9175)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6181)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6905)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17850)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18173)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15797)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6952)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31242)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9574)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7688)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21622)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34172)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33317)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14237)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35648)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13006)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15771)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13683)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33038)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26362)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41414)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40355)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20048)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33706)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29684)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33731)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18871)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22704)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22428)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49002)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11968)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11164)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22518)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18005)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15119)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22686)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16002)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13117)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19723)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12068)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant