Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngài Thần Tú, một nhân cách vĩ đại

11 Tháng Hai 201100:00(Xem: 18990)
Ngài Thần Tú, một nhân cách vĩ đại

Ngài Thần Tú là một trong những vị đệ tử lớn của ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Từ trước đến nay, khi nhắc đến ngài Thần Tú thì người ta thường nghĩ rằng, Ngài là một vị thiếu năng lực, không ra gì, không xứng đáng để được truyền tổ vị. Sự thực thì không hẳn như thế. Là người có lý trí, chúng ta nên tìm hiểuvấn đề rồi mới đưa ra lời nhận định. Nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu trong các sử liệu và chịu khó suy ngẫm thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng, tuy ngài Thần Tú không được truyền tổ vị nhưng Ngài vẫn là một người rất vĩ đại. Ngài có rất nhiều điểm để cho hậu thế chúng ta học hỏi và rất đáng để chúng ta khát ngưỡng, kính phục.

Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ. Trong đồ chúng tại Huỳnh Mai thời bấy giờ, ngài Thần Tú rất được mọi người kính nể. Chúng ta hãy đọc lại những dòng tâm sự của đồ chúng khi nghe Ngũ tổ bảo mọi người làm kệ để trình lên Ngài: “Tất cả chúng ta không cần phải lắng lòng dụng ý làm kệ để trình Hòa thượng, đâu có lợi ích gì? Thượng tọa Thần Tú, hiện làm Giáo thọ sư, ắt là người được. Chúng ta về sau y chỉ Thượng tọa Thần Tú, nhọc gì phải làm kệ”. Như thế là tất cả mọi người đều đặt niềm tin vào ngài Thần Tú và muốn được nương vào Ngài để tu học. Ngài Thần Tú phải là một người rất có năng lực, lại có đạo hạnh nên mới được đại chúng kính nể như thế.

Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy đọc lại những suy nghĩ của ngài Thần Tú đối với việc trình kệ: “Các người đều không trình kệ vì ta là Giáo thọ sư của họ, ta cần phải làm kệ trình lên Hòa thượng; nếu không trình kệ thì Hòa thượng đâu biết được kiến giải trong tâm ta cạn hay sâu? Ý ta trình kệ, cầu pháp thân thì tốt, cầu làm Tổ thì xấu; vì đồng với tâm của kẻ phàm, muốn cướp được ngôi vị Thánh không khác, nếu chẳng trình kệ thì trọn không được pháp. Rất khó! Rất khó!”. Ngài Thần Tú đã đắn đo suy nghĩ rất nhiều về việc trình kệ. Và Ngài đã trình kệ với tâm cầu pháp chứ không phải là để cầu tổ vị. Khi bài kệ của Ngài được Ngũ tổ truyền bảo đại chúng tụng đọc và nương theo đó mà tu tập để vượt thoát luân hồi sinh tử, Ngài cũng không vì thế mà sinh lòng tự kiêu. Lúc Ngũ tổ gọi Ngài đến hỏi: “Bài kệ viết trên vách có phải là của ông không?” Ngài thưa rằng: “Thật là con làm, chẳng dám vọng cầu Tổ vị, chỉ mong Hòa thượng từ bi xem đệ tử có chút ít trí tuệ chăng?” Ngài thật là khiêm tốn làm sao! Khi được Ngũ tổ chỉ điểm thì Ngài cung kính vâng lời và không hề có ý oán trách ai, chỉ tự hổ thẹn với lòng mình nên trong lòng hoảng hốt, bất an. Đấy là tâm niệm của một người đệ tử, một người học đạo. Rất đáng để cho hậu thế chúng ta noi theo. Ngày nay, mấy ai có được lòng khiêm tốn và tự trách lấy mình, tự hổ thẹn với chính mình như thế?

Về sau, khi Ngài biết ngài Huệ Năng đã được Ngũ tổ truyền trao y báttrở thành vị tổ thứ sáu của thiền tông Trung Hoa, Ngài vẫn không có tâm đố kỵ, ngược lại còn kính trọng và bội phục Ngài Huệ Năng. Đến khi cả hai Ngài đều ra hoằng hóa, mỗi Ngài nổi tiếng ở một phương, người đời gọi là Nam Năng, Bắc Tú. Về phía đồ đệ của ngài Thần Tú thì họ không cam lòng, họ chê ngài Huệ Năng là người thất học, không biết chữ, không có năng lực. Ngài Thần Tú khuyên rằng: “Kia (Tổ Huệ Năng) được trí vô sư, thâm ngộ được pháp thượng thừa, tôi không bằng vậy. Vả lại Thầy tôi là Ngũ Tổ, chính Ngài truyền y pháp, há lại suông ư? Tôi hận không thể đi xa để thân cận, luống thọ ân Quốc vương, vậy những người các ông không nên kẹt ở đây, nên đến Tào Khê tham hỏi.” Ngài Thần Tú quả thật là cao thượng! Ngài không hề có một mảy may đố kỵ với ngài Huệ Năng, Ngài thật lòng kính phục ngài Huệ Năng và rất tin tưởng vào sự sáng suốt của Thầy mình. Ngài tự biết khả năng của mình, tự biết điểm yếu kém của mình và luôn có tâm cầu học. Chỉ có những bậc thánh hiền mới có được tâm lượng như vậy. Và càng đáng để chúng ta kính phục hơn là sau đó Ngài đã bảo với đệ tử tên Chí Thành rằng: “Ông thông minh nhiều trí, nên vì ta mà đến Tào Khê nghe pháp, nếu nghe được điều gì, hết lòng ghi lấy, trở về nói lại cho ta nghe.” Một người chưa chứng ngộ mà có tâm lượng như thế thì thật là hết lời để tán dương. Ngài đã làm một việc mà rất hiếm người làm Thầy nào có thể làm được. Ngài chẳng những không sợ mất thể diện mà còn vô cùng khiêm hạ. Mà thực ra Ngài làm thế thì mọi người càng kính phục Ngài bội phần.

Ngày nay, thật là ít có được những bậc thầy có tâm khiêm hạ, hoan hỷ cho học trò của mình đến cầu học với người khác để rồi có thể về chỉ bày lại cho mình. Phần lớn mọi người đều mang lòng tự cao và muốn giữ thể diện của mình, lúc nào cũng tự khen mình, chê người; chưa thoát ra được lòng bỉ ngã, chưa gạt được thói thường tình: “Kiến tha thắng sự, tâm sanh tật đố” (thấy sự thành tựu của người thì sanh lòng đố kỵ). Những điều đó còn chưa thoát ra được thì làm gì có chuyện hoan hỷ cho đệ tử của mình đến cầu học với người khác, huống nữa là cho học trò đi học với người khác rồi về chỉ bày lại cho mình.

một lần, ngài Thần Tú được vua Trung Tông đời nhà Đường thỉnh vào cung để cúng dường và để vua có thể hỏi đạo những khi vua rảnh việc. Ngài Thần Tú đã khiêm nhượng bảo với vua rằng: “Nam phương có ngài Huệ Năng là người mật thọ y pháp của Tổ Sư Hoằng Nhẫn, truyền tâm ấn của Phật, hoàng thượng nên thỉnh Ngài mà hỏi”. Trước một vị vua có uy quyền, trước bao vinh hoa phú quí và sự cung phụng tột bậc như thế mà ngài Thần Tú đã khiêm nhượng, lại còn hết lời ca ngợi và tiến cử ngài Huệ Năng với vua, điều đó cho chúng ta thấy được tâm lượng của Ngài. Ngài quả thật rất cao thượng, cao thượng vô cùng. Giả như đặt chúng ta vào trường hơp của ngài Thần Tú thì điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắnchúng ta tự khen mình, tự nói tốt cho mình chứ không bao giờ có ý khiêm nhượng với người khác, dù cho người đó là ai.

Mặc dù ngài Thần Tú không có sự chứng đắc như ngài Huệ Năng, cũng không được kế thừa tổ vị, nhưng xét về phương diện nhân cách thì Ngài quả thật không kém gì ngài Huệ Năng. Ngài được vua quan cùng dân chúng thời bấy giờ kính phục và nương theo Ngài để tu tập. Tâm lượng và cung cách ứng xử của Ngài rất đáng để cho hậu thế chúng ta học tập. Chính vì lẽ đó mà chúng ta cũng không lấy làm lạ là mặc dù sức chứng ngộ của Ngài không được như ngài Huệ Năng, nhưng đạo tràng của Ngài không kém gì ngài Huệ Năng.

Tài liệu tham khảo:
1) Kinh Pháp bảo đàn giảng giải - HT. Thích Thanh Từ dịch - 1992.
2) Ngài Huệ Năng - Hòa Thượng Trí Quang.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 21


Ý kiến bạn đọc
02 Tháng Mười Một 201907:22
Khách
Ngài Thần Tú và Ngài Huệ Năng đều là 2 bậc thầy vĩ đại, các Ngài đã thị hiện 2 Pháp tu tưởng là khác nhau nhưng thực ra vẫn là 1 Pháp, chỉ là 2 giai đoạn, 2 giai đoạn này cũng không phân cao thấp mà đan xen vào nhau. Nếu không có sự Miên mật thực hành thì nếu có ngộ chắc cũng chỉ là ngộ được một chút, một góc, thoảng qua...
Namo Phật
Namo Pháp
Namo Tăng
08 Tháng Mười Hai 201615:31
Khách
Nam Mô A Di Đà PHẬT.......
07 Tháng Chín 201500:34
Khách
Cảm ơn bài viết này và tác giả nhiều lắm. Mặc dù tôi tu thiền của lục tổ huệ năng, nhưng tôi cũng thấy rõ ngài Thần tú là người vĩ đại rất đáng thán phục.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17597)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24397)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25902)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13729)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13148)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 21934)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19020)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9973)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11879)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13006)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15139)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10507)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21728)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10087)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9825)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9730)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10170)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27242)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17792)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13154)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25012)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34545)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26695)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 8980)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13038)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8968)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9428)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9109)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11763)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18479)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8747)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10634)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10909)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27935)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17842)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14381)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16332)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13172)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15432)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14652)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7552)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 16939)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8347)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30625)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant