Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại đức Đề Bà Đạt Đa

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 18297)
Đại đức Đề Bà Đạt Đa

MƯỜI VỊ ĐỆ TỬ LỚN CỦA PHẬT 
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư - Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
biên soạn phần Phụ Lục - Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Chùa Liên Hoa, Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County xuất bản 2005

PHỤ LỤC
(Do cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn thêm)

Đại đức ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA

(Devadatta)
(Vị đệ tử phản nghịch nguy hiểm nhất của Phật)

 

Thân vương Bạch Phạn (Suklodana - Sukkodana) là bào đệ của vua Tịnh Phạn (Suddhodana), vương quốc Thích Ca. Ông có hai con trai, trưởng là Đề Bà Đạt Đa và thứ là A Nan Đà (gọi tắt là A Nan) (1). Như vậy, Đề Bà Đạt Đa là em con chú của Phật.

Thuở còn đi học, Đề Bà Đạt Đa (gọi tắt là Đề Bà) đã học cùng lớp với thái tử Tất Đạt Đa, và đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, các môn học về văn cũng như võ đều xuất sắc, hơn tất cả chúng bạn, chỉ chịu đứng dưới mỗi một mình thái tử mà thôi. Tuy vậy, tính tình hai người rất khác nhau. Trong khi thái tử Tất Đạt Đa điềm đạm, khiêm cung, thì vương tử Đề Bà hay tranh giành, tự phụ.

Đề Bà rất thân với thái tử, nhưng cũng thường hay ganh tị với thái tử. Hồi Đề Bà mới có tám tuổi (nhỏ hơn Tất Đạt Đa một tuổi), đã xảy ra chuyện giành nhau với thái tử một con ngỗng trời. Sự việc chẳng quan trọng gì, vậy mà đã phải đem ra trước phiên họp của triều đình phân xử. Kết quả là thái tử thắng cuộc; và Đề Bà rất uất ức vì thua cuộc. Lúc lớn lên, trong một cuộc thi võ nghệ do triều đình tổ chức, Đề Bà chỉ đứng hạng nhì; còn thái tử thì đã thắng tất cả các môn thi (bắn cung, đánh kiếm, cưỡi ngựa v.v...) đứng hạng nhất, và được trao giải thưởng là một con bạch tượng quí báu. Ngưòi được cử thay mặt ban tổ chức đem giải thưởng trao cho thái tử chính là công chúa Da Du Đà La, con vua Thiện Giác (Suprabuddha - Suppabuddha) và hoàng hậu Cam Lộ (Amita, em gái vua Tịnh Phạn) ở vương quốc Câu Lị (Koliya). Đề Bà thấy thế thì bực tức lắm, liền tiến tới, đấm cho con bạch tượng một đấm với tất cả sức mạnh của mình, khiến cho con bạch tượng phải ngã quị. Ấy thế mà thái tử cũng chỉ trách nhẹ một câu: “Em làm vậy không tốt”.

Trong chuyến về thăm hoàng cung Ca Tì La Vệ lần đầu tiên của đức Phật sau ngày thành đạo, Đề Bà đã theo Phật xuất gia (cùng với các vị vương tử, vương tôn khác, trong đó có A Nan).

Trong mười hai năm đầu của đời sống xuất gia, tuy chưa chứng thánh quả, nhưng đại đức Đề Bà đã có một nếp tu tập chuyên cần, nghiêm tịnh, gương mẫu, đến nỗi tôn giả Xá Lợi Phất đã hết lòng ca ngợi trước mọi người, làm cho dân chúng khắp thành Vương Xá đều biết. Thế rồi về sau, vì bị danh lợi trần thế làm cho ám muội, đại đức đã hoàn toàn đổi tánh, ác độc, xấu xa, đồi trụy, lại ganh tị với đức Phật, và trở thành một phản đồ nguy hiểm của đức Phật.

Trước hết, vì để cầu lợi dưỡng, đại đức đã xin Phật dạy cho luyện thần thông, nhưng Phật không dạy. Đại đức liền xin học với hai tôn giả Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên, nhưng hai vị này cũng không dạy. Đại đức lại đến cầu học với tôn giả Thập Lục Ca Diếp (Dasabalakasyapa - Dasabalakassapa - tức Bà Sa, Vaspa - Vappa), và chứng được thần thông, bèn lấy làm tự đắc. Bắt đầu từ đó, đại đức nảy ra tham vọng thay thế Phật để lãnh đạo giáo đoàn. Đại đức chưa công khai chống đối Phật, nhưng đã dùng trí thông minh và tài hùng biện để thu hút người. Bởi vậy, số người theo đại đức rất đông đảo; giới xuất gia có khoảng năm trăm tì kheo, gồm phần lớn là những vị trẻ tuổi, công phu tu tập còn non yếu; giới tại gia thì gồm rất nhiều vị cưgiàu có, trong đóm người quan trọng nhất là thái tử A Xà Thế (Ajatasatru - Ajatasattu), con vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà. Thái tử đã tin kính và ủng hộ đại đức rất nhiệt thành, giống như nhà vua Tần Bà Sa La tin kính và ủng hộ đức Phật. Thái tử đã xây cất cho đại đức một ngôi tu viện to lớn, nguy nga trên núi Già Da (Gayasisa, tức núi Tượng Đầu); cứ ba bốn ngày một lần, thái tử lại cho chở các vật phẩm cần thiết đến thẳng tu viện để cúng dường đại đức. Bởi vậy, uy tín của đại đức càng lúc càng cao, và tính kiêu mạn của đại đức cũng ngày càng tăng trưởng. Đại đức thường nói với mọi người là bây giờ Phật đã lớn tuổi, không còn đủ sức để lãnh đạo giáo đoàn; vả lại, cách thức tu tập của Phật đã lỗi thời rồi, không còn phù hợp với thời đại mới.

Một hôm (vào năm Phật bảy mươi hai tuổi), Phật nói pháp tại tu viện Trúc Lâm, gần thành Vương Xá. Buổi pháp thoại đã có rất đông đảo người dự thính, kể cả vua Tần Bà Sa La. Khi pháp thoại vừa chấm dứt, Đề Bà Đạt Đa liền đứng lên, tiến tới trước Phật, đảnh lễ một cách cung kính, rồi bạch:

- Bạch Thế Tôn! Năm nay Thế Tôn tuổi đã cao, sức khỏe đã kém. Xin Thế Tôn hãy lui về tịnh xá nghỉ ngơi để đỡ bót mệt nhọc. Con sẽ xin thay Thế Tôn lãnh đạo giáo đoàn.

Khi đại đức thưa với Phật những lời ấy thì ở dưới thính chúng cũng có hơn ba trăm vị tì kheo đồng đứng đứng lên, chắp tay tỏ ý ủng hộ đại đức. Đức Phật nhìn thẳng vào mắt đại đứctrả lời:

- Xin cám ơn thầy đã lo lắng cho Như Lai. Như Lai vẫn còn đủ sức để lãnh đạo giáo đoàn. Vả lại, trong số các đệ tử lớn của Như Lai, vẫn còn có những vị xuất sắc và xứng đáng hơn thầy nhiều, mà Như Lai cũng chưa giao cho họ trách nhiệm lãnh đạo giáo đoàn, huống hồ là thầy. Thầy chưa đủ tư cách đâu.

Nghe thế, đại đức rất lấy làm xấu hổ, và căm giận đức Phật vô cùng, liền bỏ đi xuống, không nói thêm gì nữa. Sau đó Phật đã bảo cho tôn giả A Nan biết, sở dĩ Ngài phải nặng lời với Đề Bà là muốn cho nhà vua cùng mọi người hiểu rằng, Đề Bà không phải là nhân vật quan trọng trong giáo đoàn; những hành vi của Đề Bà sẽ do đại đức ấy hoàn toàn chịu trách nhiệm, không liên quan gì tới giáo đoàn.

Trong một buổi pháp thoại sau đó, cũng tại tu viện Trúc Lâm, đại đức Đề Bà Đạt Đa đã trình lên Phật pháp chế năm điểm, gọi là “thực hiện các nguyên tắc thiểu dục và tri túc”, để “chấn chỉnh nếp sống tăng đoàn”:

1) Tì kheo suốt đời ở trong rừng hoặc vườn cây, không được cư trú trong các thôn xóm hay thành phố.

2) Tì kheo suốt đời chỉ ngủ ở gốc cây, không được ngủ trong các phòng ốc.

3) Tì kheo suốt đời khất thực và chỉ ăn mỗi ngày một bữa, không được tới nhà thí chủ thọ cúng dường.

4) Tì kheo chỉ mặc y chằm vá bằng những miếng giẻ rách hay vải vụn lượm ở các đống rác hay các bãi tha ma, không được nhận y do thí chủ cúng dường.

5) Tì kheo tuyệt đối ăn chay, không được đụng tới thịt cá.

Đức Phật đã bác bỏ hoàn toàn năm điểm ấy. Ngài tuyên bố rằng, đối với năm điều do Đề Bà đề nghị kia, các đệ tử của Ngài, ai muốn áp dụng hay không cũng được. Giáo ppáp của Ngài là giáo pháp trung đạo, không bắt buộc phải theo một hình thức cực đoan nào cả. Đề Bà cũng biết trướcđức Phật không khi nào chấp nhận năm điều ấy, nhưng đại đức đã cố tình đưa ra thỉnh nguyện là để cho đức Phật từ chối, để có cớ mà thực hiện âm mưa của mình. Âm mưu của đại đức lớn lắm, có liên quan đến cả lĩnh vực chính trị lẫn tình hình giáo đoàn.

Về lĩnh vực chính trị, đại đức đã xúi giục thái tử A Xà Thế giết vua cha Tần Bà Sa La để sớm lên ngôi vua. Làm như thế là vừa có lợi cho A Xà Thế, mà cũng vừa có lợi cho đại đức.

Về phía giáo đoàn thì đại đức đang âm mưu chia rẽ tăng chúng trước. Sau đó, chờ khi thái tử A Xà Thế giết vua cha xong, lên ngôi vững vàng, đại đức sẽ nhờ vào thế lực của vua A Xà Thếđoạt lấy địa vị lãnh đạo toàn thể giáo đoàn. Bởi vậy, lấy cớ đức Phật từ chối lời thỉnh cầu của mình, đại đức đã nói xấu đức Phật để lung lạc số tì kheo kém hiểu biết, và kéo họ về phe mình. Đại đức kêu gọi:

- Này quí thầy! Năm điểm yêu cầu của tôi và những lời của đức Thế Tôn, cái nào cao thượng hơn? Ai muốn thoát mọi khổ não và sớm chứng niết bàn, xin hãy theo tôi!

Lúc ấy một số tì kheo mới xuất gia, giáo pháp còn kém cõi, nghe những đề nghị của đại đức thì cho là hợp lí, nên đi theo ngay. Đại đức dẫn tất cả những người theo mình về tu viện riêng ở núi Già Da. Tại đây, đại đức đã thành lập một giáo đoàn độc lập. tự gọi mình là giáo chủ. Sinh hoạt riêng biệt, cắt đứt mọi quan hệ với giáo đoàn của Phật.

Với sự cố vấn của đại đức, thái tử A Xà Thế đã soán ngôi, rồi bắt vua cha giam vào ngục và bỏ đói cho đến chết. Về phần đại đức, theo như kế hoạch mà hai người đã đồng ý, đại đức sẽ sát hại đức Phật khi thuận tiện.

Một đêm nọ trên núi Linh Thứu (Grdhrakuta - Gijihakuta) (2), đang ngồi thiềnngoài trời trước cửa tịnh thất, đức Phật thấy có một người đang lấp ló trong bụi cây trước mặt với một thanh gươm sáng loáng. Ngài lên tiếng gọi người ấy đến, hỏi ra mới biết anh ta là một quân nhân, được lệnh chủ tướng lên đây giết Ngài, nhưng khi thấy Ngài thì lại không dám hành động. Ngài liền an ủihóa độ cho. Trong khi đó thì hai tôn giả Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên, thừa ý chỉ của Phật, cùng đi sang núi Già Da. Hai vị ở với đại đức Đề Bàgiáo đoàn mới, nhưng mục đích là để giảng nói giáo pháp, giúp cho các vị tì kheo đã vì non yếu mà lầm đường lạc lối. Một tháng sau, hai vị tôn giả đã về lại tu viện Trúc Lâm, dẫn theo ngót bốn trăm vị tì kheo đã hồi tâm chuyển ý, nguyện quay về với đức Phật. Sau đó mấy ngày, một số quí vị khác từ núi Già Da cũng lục tục kéo về tu viện Trúc Lâm, vì tất cả đều nhận rõ chỉ có Phật mới là bậc đạo sư chính đáng nhất mà thôi. Sự việc này xảy ra, đã làm cho đại đức Đề Bà Đạt Đa tức giận điên người, cho nên lại rắp tâm trả thù.

Một buổi chiều, lúc Phật đang đứng bên sườn núi Linh Thứu, nơi có nhiều mô đá nhấp nhô. Đại đức Đề Bà đã trèo lên trên đỉnh cao, xô một tảng đá thật lớn cho lăn xuống ngay chỗ Ngài đang đứng. May thay, khi lăn xuống gần tới chỗ đức Phật thì tảng đá bị chận lại bởi những mô đá khác. Tảng đá đứng lại, nhưng sức va chạm mạnh tới các mô đá khác làm cho nó bể một phần, văng ra vài mảnh nhỏ; và một mảnh đã văng trúng vào chân trái của Phật, làm Ngài bị thương, máu chảy nhiều, phải nhờ y sĩ Kì Bà (Jivaka) (3) chữa trị.

Rồi một buổi sáng nọ - lúc này, vua Tần Bà Sa La đã băng - khi Phật và chư tăng đang đi khất thực trong thành Vương Xá, thì một con voi to lớn từ trong chuồng voi của hoàng cung, điên cuồng chạy về phía đức Phật. Con voi này có tiếng là hung dữ nhất nước, ai ai cũng biết, được hoàng cung nuôi và canh giữ cẩn thận. Nó mà xổng ra khỏi chuồng thì nhất định sẽ có hàng trăm người chết vì nó, nhưng sao tự nhiên hôm nay nó lại xổng ra một cách quá nguy hiểm như thế? Khi thấy nó, từ tôn giả A Nan, các vị tì kheo, cho đến dân chúng hai bên đường phố đều hoảng sợ, nhưng đức Phật đã đứng lại một cách rất trầm tĩnh. Khi con voi chạy tới còn cách Phật mươi bước thì bị Phật chế ngự. Nó bỗng đứng khựng lại, rồi quì mọp xuống trước đức Phật, vòi tai, đuôi đều cụp lại hết. Ngài tiến đến sò đầu nó và bảo nó đứng lên. Rồi Ngài đích thân dắt nó đem trả về lại cho chuồng voi hoàng cung.

Sau sự việc này, đại đức Đề Bà mất hết uy tín. Dư luận quần chúng đã phân biệt rõ đâu là chính, đâu là tà. Họ công khai chống đối đại đức. Số tì kheo sau cùng trong giáo đoàn của đại đức, trừ sáu vị còn ở lại với đại đức, tất cả những vị khác cũng bỏ tu viện Già Da để quay về Trúc Lâm. Vua A Xà Thế, sau cái chết đau thương của vua cha do mình chủ tâm sát hại, cũng bắt đầu hối hận, và qui y theo Phật. Vì nhận rõ đâu là con đường chính và đâu là con đường tà, nhà vua đã bỏ rơi, không tiếp tục ủng hộ đại đức Đề Bà nữa. Đại đức đã hoàn toàn bị cô lập. Sau đó đại đức đã lâm trọng bệnh liên tiếp nhiều năm, chỉ ở yên một chỗ, không đi đâu được. Những người từng nhiệt thành ủng hộ đại đức trước kia, không một ai đến thăm đại đức.

Vào năm Phật bảy mươi chín tuổi, sau mùa an cư tại tu viện Kì Viên ở thành Xá Vệ, Ngài về trở lại núi Linh Thứu ở thành Vương Xá. Một buổi chiều nọ, có hai vị tì kheo khiêng đại đức Đề Bà Đạt Đa lên núi Linh Thứu. Theo lời hai vị này thì trong thời gian bị bệnh mấy năm qua, đại đức đã có nhiều thời giờ chiêm nghiệm về những được thua, thành bại, và suy xét lại những hành động của mình trong những năm trước đây. Đại đức đã thành khẩn ăn năn, và muốn được yết kiến Phật trước khi lìa đời. Lúc đó đại đức đã yếu lắm rồi, thấy Phật đứng trước mặt mà không ngồi dậy được, chỉ biết nhìn Phật chăm chú với cặp mắt khẩn cầu tha thứ. Cuối cùng, cố gắng lắm đại đức mới bật nói được vỏn vẹn một câu: “Đệ tử qui y Phật". Phật để tay lên trán đại đức để an ủichấp nhận sự sám hối của đại đức.

Chiều hôm đó đại đức qua đời.

CHÚ THÍCH

(1) Có sách nói Đề Bà Đạt ĐaA Nan là con của thân vương Hộc Phạn (Dronodana), người em thứ hai của vua Tịnh Phạn. Lại có sách nói Đề Bà là con của vua Thiện Giác và hoàng hậu Cam Lộ, trị vì vương quốc Câu Lị. Trong trường hợp này, Đề Bà là em của công chúa Da Du Đà La; cho nên ông vừa là em vợ, cũng vừa là em cô cậu của thái tử Tất Tạt Đa - vì hoàng hậu Cam Lộ là em gái của vua Tịnh Phạn.

(2) Núi Linh Thứu tức núi Kì Xà Quật. “Kì Xà Quật” là dịch âm từ tiếng Phạn; “Linh Thứu” là dịch ý. Núi này nằm ở phía Đông Bắc, và là ngọn núi lớn nhất trong năm ngọn núi bao quanh thành Vương Xá. Chóp núi trông giống như đầu chim thứu (tức chim kênh kênh, thích ăn xác chết), nên núi có tên là Linh Thứu. Lại nữa, trên núi này có rất nhiều chim thứu ở, nên núi được gọi là Linh Thứu. Cảnh trí trên núi rất đẹp đẽ, có khe suối chứa nhiều nước trong lành, có nhiều hang động kín đáo rất thuận tiện cho sự tu tập của tăng chúng. Tu viện Trúc Lâm vẫn là đạo tràng chính ở thành Vương Xá, nhưng khoảng mười lăm năm sau ngày thành đạo, mỗi khi trở về đây hoằng hóa, đức Phật thường ngự trên nú Linh Thứu. Từ đó, núi này trở thành một đạo tràng nổi tiếng của đức Phật. Trên đỉnh núi có đàn nói pháp, có tịnh thất của Phật và của các vị đệ tử lớn của Ngài. Vua Tần Bà Sa La đã cho xây mấy trăm bậc cấp bằng đá suốt từ chân lên đến đỉnh núi. Các thung lũng nhỏ được san bằng. Các khe suối thì vua cho bắc cầu để đi qua. Đứng trên đỉnh núi có thể nhìn thấy khắp thành Vương Xá. Các bậc cấp dẫn lên núi ngày nay vẫn còn. Các di tích khác từ thời Phật nền đá của đàn nói pháp, các thạch thất của Phật và của các vị đệ tử, nơi Phật bị mảnh đá văng (do Đề Bà Đạt Đa từ trên cao xô xuống để hại Phật) làm chảy máu chân v.v... hiện nay vẫn còn.

(3) Kì Bà là một trong những đệ tử tại gia thân cận nhất của Phật. Ông là một hoàng tử, con của vua Tần Bà Sa La và bà phi tần Am Bà Bà Lị (Amrapali - Ambapali), tức là cùng cha khác mẹ với thái tử A Xà Thế. Ông học ngành y từ năm mười bốn tuổi, đến hai mươi ba tuổi thì tốt nghiệp, và trở thành một vị lương y nổi tiếng, vì đã từng chữa lành cho nhiều người bị bệnh hiểm nghèo. Ông gặp Phật lần đầu tiên năm ông mười lăm tuổi. Từ đó ông kính mến Phật, và tự hứa là sau khi học thành tài, sẽ về ở gần Phật để học tập chánh pháp. Bởi vậy, về sau ông đã mua một khu vườn xoài rất rộng ở gần núi Linh Thứu, cất một tịnh xá trong đó để ở. Ông cũng cất sẵn một tịnh thất nhỏ trong vườn để thỉnh thoảng Phật ghé nghỉ ngơi sau những chuyến du hành vất vả. Những lúc đó, chính ông tự tay săn sóc mọi việc cho Phật, từ com nước đến thốc thang. Về sau, ông cũng xây cất một giảng đường thật lớn, có thể chứa cả ngàn người, để thỉnh thoảng Phật nói pháp. Ông vừa là ngự y của vua Tần Bà Sa La, mà cũng vừa là y sĩ thường trực của Phật và tăng đoàn. Chính ông cũng đã tạo ra truyền thống dâng y hàng năm cho Phật và tăng chúng. Khi xảy ra vụ đại đức Đề Bà Đạt Đa âm mưu với thái tử A Xà Thế, một đằng giết cha, một bên chia rẽ tăng chúnggiết Phật, ông đã rất lo lắng sự an nguy của Phật cũng như tiếng tăm của giáo đoàn. Ông đã theo sát mọi hành động của đại đức Đề Bà cũng như của thái tử để báo cáo lên Phật đề phòng. Vua A Xà Thế, sau khi giết cha là cua Tần Bà Sa La, đã hết sức hối hận. Nhân đó, Kì Bà khuyên nhà vua nên đến yết kiến Phật. Sau phút ngần ngừ, nhà vua chịu đi gặp Phật. Kì Bà đã thỉnh Phật xuống vườn của ông, rồi đích thân ông đưa nhà vua đến đó. Sau buổi đàm đạo với Phật, nhà vua thấy lòng cởi mở nhẹ nhàng, liền xin qui y làm đệ tử tại gia của Phật. Sau đó, Kì Bà đã xin Phật cho xuất gia. Phật hoan hỉ chấp thuận.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17651)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24484)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25986)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13770)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13174)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19068)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11906)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13039)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15181)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10536)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21815)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10119)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9844)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9744)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10189)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27382)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17831)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25140)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34643)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26749)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19061)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9001)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9132)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11793)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18517)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8775)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10664)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10951)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27995)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17875)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16360)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14689)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7594)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17035)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8385)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30709)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant