Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Một đoạn nhân duyên giữa tôi và Bồ Tát Quảng Khâm

27 Tháng Hai 201100:00(Xem: 5457)
4. Một đoạn nhân duyên giữa tôi và Bồ Tát Quảng Khâm

LƯỢC THUẬT HÀNH TRẠNG HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM
Dịch giả: Ni chúng Tự Viện Vĩnh Minh Lâm Đồng
Hiệu đính: Giáo sư Phạm Phú Thành & Đại Đức Thích Giải Hiền

MỘT ĐOẠN NHÂN DUYÊN GIỮ TÔI
BỒ TÁT QUẢNG KHÂM
 Chu Tuyên Đức

Hoà thượng Quảng Khâm suốt cả cuộc đời 95 năm niệm Phật, độ chúng chưa từng gián đoạn, nay xả báo thân vãng sanh Cực Lạc! Ngưỡng mong Ngài quay Thuyền Từ, trở lại tiếp tục tiền duyên!

Người ngừơi xưng tụng Đại Lão Hoà thượng là bậc cao tăng, Ngài không ăn thức ăn nấu chín như ngừơi thế gian, đêm không ngã lưng nằm nghỉ, nhất tâm niệm Phật, mấy mươi năm ròng trước sau như một; do vậy mà đắc thần thông diệu dụng, hoá độ vô số chúng sanh. Nhân duyên giữa tôi với Ngài rất sâu thâm. Tôi được biết về cuộc đời của Ngài cũng khá nhiều, nhưng vì thời gian trình bày có hạn, chỉ xin chọn kể ra đây ba mẫu chuyện thực điển hình, đồng thời hồi tưởng lại “sáu đề cương trong đời tu hành” của Ngài để chứng minh rằng Ngài là vị Bồ Táthạnh nguyệntrở lại độ chúng sanh.

1. Siêu độ vong linhhộ trì chùa được bình yên

Vào năm 1950 tôi ở ký túc xá Đài Đừơng nằm trên đại lộ Vạn Hoa Côn Minh, ĐÀI BẮC. Tôi thừơng đến chùa Pháp Hoa gần đấy lễ phật nên có quen một vị trai cô ở chùa. Trai cô cho biết cô là đại diện của tín chúng chùa này. Sau khi vị trụ trì ngừơi Nhật về nước, cô được giao cho tiếp quản chùa. Trai cô mời tôi mỗi chủ nhật đến dự pháp hội, giảng kinh cho tín chúng, và dùng cơm trưa với chùa. Cô nói chùa này tối đến không có ai dám ở lại, vì đêm khuya có ma tự mở cửa phòng, mở cửa sổ, lại còn bật đèn điện …., làm nhiều động tác khuấy nhiễu khiến ai cũng hoảng sợ, đêm ngủ không yên. Ngày ngày vào khoảng 7 giờ tối sau lúc mặt trời lặn, ai nấy đều phải ra khỏi chùa đến nơi khác ở. Tôi nghe câu chuyện ma quỷ lộng hành gây họa như vậy nghĩ rằng phải có cách gì trừ, trong lòng cứ lo lắng buồn bực. Một buổi chiều nọ, tình cờ tôi gặp một Hoà thượng già, vóc dáng không cao, đi trên đường Nam Tây Ninh, thong thả hướng về phía nam, cách chùa Pháp Hoa không xa. Tôi vội bứơc đến trứơc người, chấp tay làm lễ và kính hỏi đạo hiệu. Ngừơi đáp: “Tôi là Quảng Khâm". Tôi hỏi Hoà thượng ở đâu, người trả lời “Không nhất định là ở đâu”.

Nhìn dáng đi thanh thoát và đôi mắt rất sáng của người, dừơng như đây là bậc đạo hạnh, tôi mời ngừơi về chùa Pháp Hoa an nghỉ. Về đến chùa, trứơc tiên ngừơi lạy Phật, kế đó đi đến chỗ sàn gỗ mé tây, bên trái bàn thờ Phật, ngồi kiết già. Khi ấy trai cô định dọn cơm chiều cho ngừơi dùng, người bảo : “ Tôi không ăn cơm, chỉ ăn trái cây ”. Nghe thế tôi liền ra ngoài chùa mua một ít quả chuối vào, đặt lên chiếc bàn nhỏ để người tuy nghi thọ dụng. Đến khi trời sắp hoàng hôn tôi ngầm ra dấu cho các trai cô rời khỏi chùa, chỉ để ngừơi ở lại một mình, xem thử ngừơi ứng phó ma quái quấy nhiễu như thế nào. 

Sáng sớm hôm sau chúng tôi đến chùa, Hoà thượng Quảng Khâm lấy tay chỉ phòng khách phía bên phải Đại Điện nói : “ Ở đó có hai hồn ma Nhật Bản, các vị hãy đến giở tấm ta-ta-mi (chiếu Nhật) lên, lấy hài cốt của họ ra để tôi siêu độ cho họ”. Quả nhiên đúng như lời ngừơi nói, các trai cô tìm thấy hai bộ xương người. Hoà thượng bảo : “ Các cô đem xương cốt bỏ vào cái lư dùng để thiêu giấy tiền vàng mã trước chùa đốt cho tiêu hết đi ”.

Hoà thượng niệm Phật, lại như vừa niệm chú vãng sanh, sau đó trở vào Đại Điện nói : “ Đã siêu độ cho họ rồi ”. Nhưng chiều hôm đó các trai cô cũng không ai dám ở lại trong chùa. Sáng sớm ngày thứ ba, Hoà thựơng vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, người lại nói phòng phía sau, bên phải Đại Điện cũng có một hồn ma, bảo các trai cô giở tấm ta-ta-mi lên như hôm trứơc, lại phát hiện một bộ hài cốt, và cũng bỏ vào lư thiêu. Hoà thượng niệm Phật, trì chú xong nó: “ Hồn ma này cũng đi rồi ! ”

Sáng ngày thứ tư tôi cũng lại đến chùa Pháp Hoa, trai cô nói với tôi : “ Sư phụ bảo chúng tôi tối nay có thể vào chùa ở lại trong liêu phương trượng”. Từ đó trai cô yên tâm mời thêm mấy tín đồ dạn dĩ vào chùa ở, quả nhiên bình an vô sự, tất cả thanh tịnh. Do vậy, tôi nói với các cô : “ Quý cô nên thỉnh Hoà thượng làm trụ trì chùa này, mời ngừơi ở lại thừơng trú, nhất định sẽ đảm bảo an ninh ”.

 Phần mình, hầu như mỗi chiều khi xong công việc tôi đều đến chùa Pháp Hoa xin được ngừơi chỉ dạy về quá trình tu tập. Tôi mới được rõ Ngừơi từ thuở ban đầu tu nơi sơn động ở Tuyền Châu cho đến khi sang Đài Loan đã thực hiện rất nhiều kỳ tích; chắc hẳn có nhiều người biết và ghi chép lại, tôi xin khỏi từơng thuật ra đây. Tuy trong kiếp này người chẳng đọc nhiều kinh điển, chỉ bằng khổ hạnhniệm Phậtchứng ngộ, ắt là do người đã trải qua nhiều kiếp tu hành nên mới có đựơc thần thông như vậy.

2. Ngày đêm niệm Phật nhất tâm bất loạn 

Ban đầu được gần gũi bên Hoà thựơng, tôi vẫn có điều thắc mắc : ngừơi không nghiên cứu về Phật điển làm sao lại đựơc thần thông như vậy ? Nhiều lần tôi xin người dạy cho phương pháp tu hành, người chỉ trả lời: “ Anh chỉ cần tịnh tâm niệm Phật, lâu dài về sau sẽ đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn, tự nhiêncảm ứng ”. Nhưng tôi chưa nghe người “niệm” bao giờ nên không hình dung nổi sự cao sâu của pháp môn này, do đó tôi đặc biệt dành một buổi chiều ngày nghỉ cuối tuần đến chùa bái kiến. Người đang ngồi “xếp bằng” trên một chiếc bàn tròn thấp kiểu Nhật trong chánh điện. Tôi bước đến ngồi lên chiếc ghế đặt gần đấy bên cạnh người. Trời tối, tôi đến bậc đèn rồi chú tâm hầu đợi người. Cứ độ nửa giờ hoặc 40, 50 phút tôi đi nhè nhẹ đến bên cạnh ngừơi hỏi nhỏ: “Thầy đang làm gì vậy?” Người đáp:

- Niệm Phật

- Niệm Phật nào?

- Phật A-Di-Đà.

 Tôi hỏi bảy tám lần như thế, ngừơi đều trả lời như thế .

Suốt đêm ấy tôi không ngủ được. Đến sáng hôm sau tôi lại hỏi :

- Thầy nói Thầy đang niệm Phật, nhưng sao con không nghe tiếng.

 Vậy thì niệm Phật như thế nào?

- Niệm Phật quan trọng là “tâm niệm”, “chuyên tinh”, ngày đêm không gián đoạn, không tán tâm. Tuy nhiên, nếu các anh biết miệng niệm, tai nghe, tâm tưởg , vậy cũng là “ hạ thủ công phu ”, dần dần tự nhiên có thể niệm mà không còn phân biệt ngày hay đêm; niệm Phật nhất tâm bất loạn. Do niệm Phật mà đắc định, đắc tuệ, chắc chắn sẽ thành tựu .

3. Dự báo sự việc sẽ xảy ra 

 Vị Thầy mà tôi quy yHoà thượng Trí Quang - gặp giáo sư Lý Hạnh Thôn thuộc trừơng Đại học Đông Ngô đến Hoa Nghiêm Liên Xã hỏi Thầy về vấn đề Phật họctâm lý học. Thầy tôi không nói với ông ta nhiều, chỉ viết trên một danh thiếp giới thiệu ông đến nhà tôi để trao đổi. Sau khi đàm luận, tôi nhận thấy ông cũng có thiện căn, bèn giới thiệu đến thỉnh giáo Hoà thượng Quảng Khâm.

Mới gặp Hoà thượng lần đầu, giáo sư Lý Hạnh Thôn liền được cảm hoá bởi đạo hạnh của người, ông tự nguyện xin quy y Tam Bảo. Ông có ký hợp đồng với Đại học Hạ Uy Di bên Mỹ, sẽ được mời sang làm giáo sư; hơn nữa, vị chủ nhiệm Khoa ngừơi Mỹ sẽ đến Đài Loan gặp ông, trực tiếp trao thư mời. Do đó, giáo sư thỉnh ý Hoà thượng:

- Việc con sang Mỹ có thành không? – Hoà thượng nói :

- Lúc này thì không được

Vài ngày sau lại có một giáo sư tên Thang Chi Bình thuộc Viện Đại học Nông nghiệp Trung Hưng cũng được Hoà thượng Trí Quang giới thiệu đến tôi để nói chuyện Phật pháp. Theo lời anh ta kể thì gia đình đang gặp nhiều khó khăn và phiền muộn, rất mong sớm giải quyết được vấn đề kinh tế. Anh hỏi đạo Phật có giúp được gì chăng? Tôi cũng giới thiệu anh đến Hoà thựơng Quảng Khâm. Thang tới xin gặp Hoà thượng và thỉnh ý: “Con có quá nhiều khó khăn và lo lắng, làm sao giải quyết nổi?” – Hoà thượng nói: “Anh có thể ra nước ngoài làm việc kiếm tiền, cuộc sống sẽ được ổn định”.

 Sau đó hai ngừơi hẹn nhau cùng đến nhà tôi. Lý phát biểu trứơc rằng ông ta quyết định đi ra nước ngoài nhưng Hoà thượng bảo: “đi không được”. Thang thì nói: “Tôi chẳng có ý định đi ra nứơc ngoài mà Hoà thượng lại bảo “có thể đi được”. Cả hai ngừơi đều cho rằng lời Hoà thượng rất khó làm cho ngừơi ta tin. Tôi nói : “Hoà thượng có thần thông, biết trước việc tương lai của ngừơi khác”. Rồi tôi đề nghị Thang thử tìm cơ hội ra nước ngoài xem sao; còn Lý thì hãy đợi xem kết quả ông chủ nhiệm Khoa đến Đài Loan như thế nào.

 Chưa đầy một tháng, khi ông Lý gặp chủ nhiệm Khoa ngừơi Mỹ, ông này cho biết là phải trở về Hạ-Uy-Di bàn với Hiệu trưởng xong mới gởi thư mời; từ đó Lý không được tin tức gì nữa. Còn anh Thang thì trở về trường, đọc trong báo Nông nghiệp CANADA bỗng gặp mục quảng cáo tuyển ngừơi có kỹ năng nông nghiệp, Thang liền gởi đơn xin ứng tuyển. Quả nhiên được Nông trừơng Vancouver gởi thư mời và vé máy bay đến Đài Loan cho anh ta và cả gia đình cùng sang CANADA nhận việc. Từ ấy cuộc sống của gia đình Thang hoàn toàn thay đổi, khá hẳn lên .

4. Sáu đề cương lớn cho người tu hành

 Trên đây chỉ là thông linh biết trước tương lai ngừơi khác của Hoà thượng, còn nhiều kỳ tích nữa, tôi không thể kể hết .

 Về sự tu hành của Hoà thượng, tôi dựa vào phương pháp quan sát và quy nạp có thể nêu giản lược 6 đề cương như sau :

1. Tâm tưởng niệm đức Phật A-Di-Đà
2. Nói ra lời gì đều phải có ích cho ngừơi.
3. Cử chỉ và hành động luôn ở trong định và tuệ.
4. Trì giới nghiêm cẩn vượt xa người thường.
5. Xem danh lợi là rỗng không.
6. Độ hết thảy sinh linh giải thoát.

Từ các sự thật nói trên, có thể chứng minh:

Hoà thượng Quảng Khâm là vị bồ-Tát tái sinh theo thệ nguyện!

Tôi nhận được điện thoại của bạn Huệ Cự từ Đài Loan gọi đến nói:

Bồ–Tát Quảng Khâm báo cho biết, vào ngày mồng 8 tháng 2 năm nay Ngài sẽ đoạn tận nhân duyên, thoát ly thế gian này. Nhân vì đại chúng tha thiết thỉnh cầu Ngài lưu lại, Ngài từ bi hứa sẽ chậm lại 5 ngày. Chiều ngày 13 tháng 2, quả nhiên trong Đại Hùng Bảo Điện chùa Diệu Thông, giữa âm thanh tiếng niệm Phật của đại chúng bao quanh, Ngài an toạ siêu hoá – Vào năm Ngài thọ 95 tuổi .
Đại chúng nghị bàn dự định đến ngày mồng 6 tháng 3 làm “lễ Trà–tỳ”.

Nghe tin ấy, tôi không cầm được nước mắt thương tiếc, và đau xót cho bao chúng sinh phứơc bạc đã mất đi một đấng Tôn Sư!

Đúng vào dịp này, ngày 23 tháng 2 chùa Pháp Ấn bên Mỹ khánh thành, đồng thời có tổ chức ngày niệm Phật. Ngài trụ trìPháp sư Ấn Hảichỉ định tôi làm chủ xướng. Nhân dịp này, tôi báo cáo sơ lược với mọi người về tin buồn, và nguyện cầu Bồ-Tát Quảng Khâm tạm về cõi Tịnh Độ bên cạnh đức Phật A-Di-Đà, sau đó trở lại thế gian ô trược để hoá độ chúng sanh cùng về Lạc Quốc, đồng thành Phật đạo.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24499)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13775)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13180)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22062)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19078)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11916)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13045)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15195)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10542)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10136)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9850)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27435)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17845)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25167)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34676)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19071)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9008)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13090)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9011)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9455)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9142)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11798)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18526)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8786)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10670)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10959)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28005)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17880)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14414)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13208)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15540)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17053)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30723)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant