Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

13. Tưởng niệm các bậc Thiện tri thức Cảm thán Hòa thượng Quảng Khâm Niết bàn

27 Tháng Hai 201100:00(Xem: 4863)
13. Tưởng niệm các bậc Thiện tri thức Cảm thán Hòa thượng Quảng Khâm Niết bàn

LƯỢC THUẬT HÀNH TRẠNG HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM
Dịch giả: Ni chúng Tự Viện Vĩnh Minh Lâm Đồng
Hiệu đính: Giáo sư Phạm Phú Thành & Đại Đức Thích Giải Hiền

Tưởng niệm các bậc Thiện tri thức
Cảm thân Hoà thượng QUẢNG KHÂM Niết bàn
Thích Khai Chứng
(Bài đăng trong Từ Ân Hội Tấn, ngày 01-03-1986) 

Hồi tưởng lại, vào năm Giáp Tý, Phân Hội Phật Giáo thành phố Cao Hùng tổ chức đoàn lễ bái tại chùa Phổ Hiền của Pháp sư Tinh Vân. Trong buổi họp tôi có phát biểu :
Phật giáo cần có những hạng người như sau:
Thứ nhất, phải có các bậc đại đức chân chính, vừa biết tu trì vừa có thể lấy thân mình làm pháp tắc, hiện thân hoá độ chúng sanh.
Thứ hai, phải có những vị cao tăng biết giảng kinh thuyết pháp, hoằng hoá lợi sanh.
Thứ ba là phải có những người biết hành động vì Đạo Pháp
Nếu như có người không đủ khả năng tu trì, cũng không biết giảng kinh thuyết pháp, nhưng tự nguyện hiến thân cúng Phật, vì Đạo mà hy sinh xuất tiền của và sức lực, đó cũng là công đức vô lượng.
Đáng sợ nhất là những con người ăn không ngồi rồi chẳng biết làm gì ngoài việc bàn chuyện thị phi; như vậy thật là đắc tội với chư Phật, có lỗi với chúng sanh, và lại còn phụ bạc chính mình ”.

Tôi thường nói với những vị sơ cơ mới vào chùa rằng “ không nên thắc mắc vì sao người không cung kính mình mà phải tự hỏi lại ‘chính mình’, xem có gì xứng đáng để được người ta kính trọng ? ” 

Tinh thần của Đại sư Từ Hànggương sáng mà tôi rất vui sướng noi gương. Vị Bồ-tát ấy đã dạy cho học tăng của Tu viện Di Lặc như vầy : “ Phải biết rằng mình là “tăng” chứ không phải là ‘bảo’”.

Ý Người nói chúng ta không đủ tư cách được tôn xưng là tăng bảo. Sau khi đọc được lời dạy này tôi tự cảm thấy làm quý vô cùng, nhờ đó tôi thường nhủ lòng làm sao biết cung kính người, chứ không dám mong người cung kính mình. Tôi cũng thường nói với đệ tử xuất gia: “ Đặc trưng của người xuất gia không nhất thiết ở chỗ học vấn cao hay thấp; dĩ nhiên học vấn là quan trọng, nhưng thật ra đối với thân phận người xuất gia, điều quan trọng nhất là có hay không có phẩm chất đạo đức của kẻ xuất gia, phong cách mẫu mực của nhà tu hành, và lòng từ bi hỷ xả

Bản thân tôi sống theo nguyện tắc : Người có ơn với mình mình phải báo ơn họ; người đáng cung kính, mình nhất định phải cung kính họ; người đáng tôn kính mình nhất định phải tôn trọng họ; và xưa nay tôi không dám xem thường ai. Tôi hằng mong sao Phật Giáo mãi mãi hưng thạnh, không lạc hậu so với các tôn giáo khác. Cho nên đối với những vị Đại pháp sư như các Ngài Tinh Vân, Thánh Ấn, Tịnh Tâm …. Tôi rất mực tôn trọng các Ngài, bởi lẽ các Ngài đã không ngừng nỗ lực cống hiến cho Đạo pháp. Đặc biệt Pháp sư Tinh Vân đã mở ra vận hội mới cho Phật giáo. Với phong cách duy tân Ngài đã làm cho tư tưởng linh hoạt của Phật giáo trở nên năng động, thích nghi với quan niệm sống của thời đại mới, điều ấy khiến cho tôi không thể không thán phục. Một sự kiện làm cho tôi cảm thấy rất phấn khởi là những năm gần đây có nhiều vị Bồ-Tát phát tâm hy sinh phụng sư ; số tăng sỹ trẻ trí thức ngày càng nhiều, làm cho Tăng đoàn dần dần phát triển mạnh, có thêm sức sống mới và niềm hy vọng mới; đó là điều đáng mừng cho Phật giáo vậy.

Bạch Thánh Đại Sư – vị Trưởng lão duy nhất mà tôi được gần gũi học và nghe Pháp – là người tôi mang ơn sâu nặng nhất trong các vị Pháp sư , Người là vị Thầy mà tôi phải tâm niệm báo ân, cho nên tôi thường chân thành bày tỏ niềm cùng kính sâu xa nhất trong lòng mình với Người, - dĩ nhiên chỉ có Đại Sư Bạch Thánh hiểu ! – người ngoài không thể biết được .
Ấn Thuận Đạo sư cũng là người tôi rất cung kính. Ngài thể lực suy nhược, nhưng vì Đạo pháp không hề tiếc thân; suốt đời nỗ lực trước tác, chủ biên hộ Thái Hư Đại sư toàn tập, soạn Diệu Vân tập . . . khai mở nguồn tri thức mới, bồi dưỡng trí tuệ và sức sống mới cho hàng phật tử hậu học.

Do lời bình luận của ông Hồ Thích: “ LỤC TỔ ĐÀN KINH không phải do tổ Huệ Năng nói ra ” đã gây nên dư luận xôn xao trong giới học thuật và giới Phật tử; không biết đâu là đúng đâu là sai, đặt biệt làm cho hệ thống Thiền tôngniềm tin bị dao động mạnh ! Trong lòng mọi người bàng hoàng bất an. May mắn thay, có Ngài Ấn Thuận Đạo Sư không quản thân thể suy nhược ( theo như tôi biết, lúc bấy giờ các ngón tay của Người không còn cử động linh hoạt ), trong một thời gian rất ngắn soạn xong cuốn Trung Quốc Phật Giáo Thiền Tông Sử làm cho “ lý luận cao sâu ” của Hồ Thích tiên sinh tan thành mây khói, và khiến cho cuộc tranh luận tức thời chấm dứt, giáo giới đó lấy lại sự bình tĩnh, đệ tử Phật thêm vững niềm tin, an tâm hành đạo.

 Lòng tư bi vù Đạo-mến Đạo của Đại Sư thật là công đức vô lượng. Đủ thấy rằng sự trụ thế của các bậc Cao tăng Đại đứccần thiết như thế nào, may mắn biết bao nhiêu ! Bởi vậy cho nên chúng ta phải tôn kính các bậc Thiện tri thức, gần gũi các bậc Thiện tri thức

 Ngài Ấn Thuận chưa truyền dạy cho tôi điều gì về Phật pháp, chưa có ân đức gì lớn đối với cá nhân tôi, nhưng có cống hiến cho Giáo Đoàn, có ân lớn đối với mọi người, do vậy mà tôi vô cùng kính ngưỡng Ngài. Đạo tướng Ngài trang nghiêm thoát tục là điều làm cho lòng tôi hoan hỷ cung kính, nên tôi thường khuyến khích đệ tử xem các bộ Thái Hư Đại Sư toàn tập và Diệu Vân tập để tăng trưởng trí huệ, xây dựng chánh trí, chánh kiến, chánh niệm trong khi học Phật.

Hoà thựơng Quảng Khâm là vị cao tăng mà tôi càng rất mực cung kính hoan hỷ. Lúc Đài Loan mới giải phóng, Hoà thượng đến Cao Hùng, tôi được hầu biệt với Ngài tại chùa Nguyên Hanh nên có duyên đặc biệt với Ngài. Mỗi lần gặp, Ngài nhìn tôi tươi cười, tôi cũng cười. Đó là vị Trưởng lão đầy đủ phong phạm của bậc cao tăng đại đức, là Đạo Sư tâm linh của tín đồ Phật giáo, nên ai ai cũng mong được đảnh lễ, thích được gần gũi, cúng dường.

Tuyệt nhiên chẳng phải vì Ngài có thần thông hay có tài hùng biện, cũng không phải vì Ngài tuổi cao, mà chính là do đức độ tích luỹ bởi công phu tu phướctu đứctu huệ của Ngài nên mới có sức cảm hoá đến như vậy, - hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà được. Chỉ cần Ngài ở nơi nào thì Pháp duyên nơi ấy hưng thạnh ! Cũng có nhiều người nghe thanh danh Ngài hiếu kỳ mà tìm đến, đó cũng là phước báo ! Tôi thường nói với các đệ tử : “ Đừng sợ không có tín đồ, chỉ sợ mình không có phước báođạo đức. Như Hoà thượng Quảng Khâm thì mọi người tự động đến cúng dường ”.

Tôi thường phân tích : vì sao Hoà thượng có phước báu lớn như vậy ? Rồi phát hiện ra được mấy nguyên nhân : Một là Hoà thượng không tham cầu danh lợi, và không tạp nhiễm chuyện thế tục cho nên không có “thị phi, phiền não “. Lại nữa, Hoà thượng suốt đời không ngừng trì chú Đại Biniệm Phật cho nên “ ba nghiệp thân, khẩu, ý đều thanh tịnh ”. Đã không thị phi phiền não; ba nghiệp thanh tịnh thì thân tâm trang nghiêm, tinh thần sáng suốt, lúc nào cũng mang trái tim từ bi của người xuất gia; cho nên chớ lấy làm lạ, lời nói của Hoà thượng nhiều khi rất linh nghiệm. Ngôn ngữ thường ngày của Ngài đều là những lời chân thật, không tác ý hư ngụy, không trau chuốt; bất kỳ ai đến thỉnh Pháp nơi Ngài, Ngài chỉ nói vỏn vẹn một câu :“ Thành tâm niệm Phật
Thực ra các vị Thiện tri thức và các bậc Trưởng lão không nhất thiết phải biết giảng kinh, nhưng thường thì chỉ cần một câu nói, một bài kệ, thậm chí một tiếng hét, cũng đủ khiến cho chúng ta dứt trừ phiền não, như được uống cam lộ ! – mát mẻ, an nhiên, tiêu trừ ảo giác, khai mở Phật trí, thọ dụng suốt đời không hết.

Có khi chẳng cần lời nào, chỉ cần nhìn thấy đức tướng trang nghiêm, pháp tướng từ tường của các Ngài tự nhiên chúng ta khởi lòng cung kính, vui mừngphát tâm bồ đề. Cũng như khi chúng ta nhìn thấy tượng Phật trang nghiêm tự nhiên trong lòng vui mừng, cung kính đảnh lễ mà không cần đến thứ ngôn ngữ gì. Hoà thượng Quảng Khâm cần đến thứ ngôn ngữ gì. Hoà thượng Quảng Khâm đức độ thấm nhuần quần chúng, ai ai cũng kính mến; bất luận là hạng người cao quý giàu sang hay nghèo nàn thấp kém đều hướng về để được gần gủi bên Ngài, tất cả đều được hoá độ như nhau, và đều vô cùng hoan hỷ. Một Thiện tri thức có khả năng hoá độ muôn ngàn chúng sinh ! Hẳn thấy rõ sự trụ thế của bậc Trưởng lão Đại đức như Ngài là phước báo của chúng sanh, là hạnh vận của Giáo Hội. Thiện tri thứcbảo vật của Phật giáo, Thiện tri thức nhập diệt quả thật là sự tổn thất vô cùng lớn lao cho Phật giáo vậy ! 

Điều làm cho người ta không hình dung nổi là chùa Diệu Thông được xây cất ở một nơi không thuận tiện cho việc giao thông, thế mà chỉ trong 3 năm Ngài độ gần cả trăm thanh niên trí thức xuất gia làm đệ tử Ngài, sự kiện này làm cho mọi người không thể nghĩ bàn .

Lần này chùa Diệu Thông tổ chức Giới Đàn, rất nhiều người bảo rằng Hoà thượng nói truyền giới xong Ngài đi, nếu muốn thọ giới với Hoà thượng thì hãy “thọ” nhanh lên, bằng không thì chẳng được kết nhân duyên với Ngài ! Cũng có người cho đây là lời tuyên truyền.

Kết quả, đúng vào lúc 2 giờ chiều ngày mồng 5 tháng giêng Hoà thượng viên tịch. Nào ai nghỉ tới, một thân thể đang lành mạnh như vậy mà lại ra đi mau như thế ! thật là điều “ bất khả tư nghị

Ngài vốn không chú trọng việc ăn việc mặc và nơi ở, nhưng vào cuối đời vẫn còn quan tâm xây dựng hai Đạo tràng lớn tại miền Nam và miền Bắc, sắp đặt việc tu hành cho các nam nữ đệ tử yên tâm học đạo, đó chính là tấm lòng nhân ái của Ngài đối với đệ tử. Đạo tràng đã dựng xong, giới pháp đã truyền xong, đại nguyện hoàn thành, Ngài ra đi không chút vấn vương, trở ngại.

Từ khi Giới Đàn hoàn mãn, Hoà thượng đóng cửa ẩn tu không còn tiếp chúng, ngầm tỏ ý rằng duyện độ chúng đã chấm dứt, sắp nhập cảnh giới Niết-bàn. Trong thời gian này Ngài bảo với các đệ tử là muốn đi Đài Bắc xem chùa Thừa Thiên ở Thổ Thành thế nào, cho nên trước tết âm lịch Ngài trở lại chùa Thừa Thiên bàn giao những công việc trọng yếu cho các đệ tử, đồng thời sắp xếp các việc hậu sự cho mình. Hoà thượng ở chùa Thừa Thiên vài ngày, sau đó trở về chùa Diệu Thông miền Nam vào dịp Tết. Đó chẳng phải là :

“ Sắp đến lúc lâm chung, biết lúc nào lâm chung đến ” hay sao ?
Như thế, quý vị không cho rằng Ngài có thần thông chăng ?
Trứơc khi lầm chung Ngài dạy các đệ tử rằng : “ Không đến cũng không đi, chẳng có việc gì “. Đối với vấn đề sống chết Ngài chẳng chút quan ngại, ấy là công phu chứng đắc : đến đi an nhiên, giữ cũng được buông cũng xong, giải thoát tự tại. Tôi từng chứng kiến có người sắp chết khóc lóc, đau khổ, bi ai, khởi sinh vô minh. Quả là cảnh giới bất đồng, Thánh phàm khác biệt.
Trưởng lão Hoà thượng đã đi rồi ! Còn vị Cao tăng Đại đức nào làm mô phạm Đạo sư tâm linh cho hàng đệ tử nương theo ?

Một bậc Cao Tăng trụ thế là phước cho Phật giáo, một bậc Đại đức viên tịch là nỗi đau buồn, là điều bất hạnh cho đạo Phậtchúng sinh. Hoà thượng Quảng Khâm đã ra đi, khấn cầu Ngài vì tâm nguyệntrở lại; nguyện cầu Phật giáo có thêm nhiều vị Cao tăng Đại đức trụ thế cho Phật Pháp hưng thịnh. Nguyện cầu chư Bồ-Tát quay thuyền từ trở lại cứu độ chúng sinh; La Hán Thánh Tăng hiện thân Sa-môn trụ thế cho trang nghiêm Tam Bảo, -- ấy là Từ Quang của Phật Tổ mãi mãi soi sáng trần gian ; Cam lộ Chánh Pháp thấm nhuần khắp cõi chúng sinh, - ấy là hạnh vận vô cùng cho Phật giáo .

Từ Ân Tự , ngày 24/05/1975
Thích Khai Chứng

Nam-mô A-Di-Đà Phật



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17597)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24398)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25904)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13729)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13148)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 21937)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19021)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9973)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11880)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13008)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15139)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10509)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21730)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10087)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9825)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9730)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10170)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27243)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17793)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13154)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25012)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34545)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26697)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 18991)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 8980)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13038)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8968)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9428)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9109)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11765)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18479)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8748)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10634)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10909)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27936)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17842)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14381)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16332)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13173)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15435)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14653)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7552)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 16940)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8347)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30625)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant