Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

So sánh về cuộc đờitính cách của hai bậc Vĩ nhân: Đức Đạt-lai-lạt-ma và Albert Einstein

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10183)
So sánh về cuộc đời và tính cách của hai bậc Vĩ nhân: Đức Đạt-lai-lạt-ma và Albert Einstein

Bảy mươi năm về trước, một bé trai với cái tên Lhama Dhondrub đã chào đời trong một gia đình nông dân nghèo thuộc miền Đông bắc Tây Tạng. Khi được phát hiện rahiện thân của ngài Avalokitesvara (Quán Thế Âm Bồ Tát), cậu được đặt tên lại là: Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso, và được xem như một “viên ngọc thỏa mãn mọi ước nguyện”. Đó chính là vị Thánh Tăng Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, bậc Thầy lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng cũng như của Phật giáo thế giới.

Vào ngày 06 tháng 07 năm nay (2005) sẽ là lần kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Ngài. Nhân dịp này, giáo sư Rasoul Sokhabi, chuyên gia nghiên cứu tại viện “Năng lượng và khoa học địa chất” của trường đại học Utah, thành phố Salt Lake đã viết một bài so sánh về cuộc đờitính cách của hai bậc vĩ nhân của nhân loại: Đức Đạt Lai Lạt Ma - nhà lãnh đạo Phật Giáo và Albert Einstein - khoa học gia nổi tiếng của thế giới.

Tổ chức Liên Hiệp Quốc đã tuyên bố năm 2005 này là năm “Vật lý thế giới” để tưởng nhớ những cống hiến của Albert Einstein, người đã đưa ra học thuyết “Tương đối” vào năm 1905 (đúng 100 năm trước), và ông đã qua đời vào năm 1955 (cách nay đúng 50 năm). Năm nay cũng là năm đánh dấu kỷ niệm lần thứ bảy mươi ngày sinh nhật của đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây chính là thời điểm và cơ hội thích hợp nhất cho chúng ta suy ngẫm về vị trí tương xứng của hai nhân vật kiệt xuất này trong thời đại của chúng ta để tìm ra một sự hợp nhất giữa tôn giáo và khoa học.

Cuộc đời của Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng cuốn hút rất nhiều người trong thế hệ chúng ta từ nhiều năm qua. Khi đọc tiểu sử hay những tác phẩm, những công trình nghiên cứu của họ, ta có thể nhận ra được nhiều nét nổi bật tương đương về bối cảnh cũng như cá tính của hai nhân vật này. Điều đó đã lóe lên những tia sáng trong mối quan hệ giữa lý trítâm linh, cả hai lĩnh vực này đều hết sức cần thiết cho cuộc sống con ngườixã hội.

Nguyên lý chung của cả Phật giáo lẫn khoa học: dù là một nhà nghiên cứu tâm linh hay một nhà khoa học đều phải dựa trên tâm thứckinh nghiệm của chính mình. Không hề có một đấng Thượng đế nào đầy quyền năng để cho họ phải tin theo một cách mù quáng. Mọi sự việc sẽ trở nên rất có ý nghĩa nếu như chúng được cảm nhận bằng những kinh nghiệm tâm linh hay được tái tạo bằng những thực nghiệm khoa học. Đặc tính nổi bật của các tác phẩm và những bài thuyết trình của Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma là những ngôn ngữ ấy đều được chắt lọc từ tâm hồn và kinh nghiệm của chính họ. Các học giả đã rất dễ dàng nhận ra được những nét đặc trưng này, bởi lẽ họ đã từng viết, đã từng đọc không ít những tham khảo, chú thích, dẫn chứng… về những tác phẩm của hai tác giả trên. Mặc dù các tác phẩm ấy đòi hỏi những kiến thức chuyên môn khác nhau nhưng cả hai tác giả đều có lối viết giống nhau: sử dụng ngôn ngữ giản dị, văn phong rõ ràng, có căn cứ xác thực. Thậm chí, còn có sự ăn khớp giữa hai tâm hồn tác giả ở chỗ họ cùng mượn những khái niệm, những thuật ngữ mà các bậc tiền bối đã từng sử dụng, đã từng biết đến để viết cho tác phẩm của mình. Bất chấp những mâu thuẫn trong lịch sử về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo, cả Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều giữ chung một lập trường rằng khoa học và tôn giáo có thể cùng nhau tồn tại và cùng đóng góp cho sự phát triển của nhân loại. Khoa học và tôn giáo là những phương diện khác nhau của kiến thứcthực hành, sự nỗ lực của cả hai lĩnh vực đều rất cần thiết cho sự cân bằng của cuộc sống. Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là một người theo trào lưu chính thống tôn giáo. Ngài trân trọng sự thành tựu của khoa học hiện đại và cũng tin tưởng rằng tất cả các truyền thống tôn giáo khác đều có sự hữu ích của nó. Einstein cũng không phải là một khoa học gia chỉ có đầu óc toán học vô tình thiếu nhạy cảm với chiều sâu tâm linh. Trong cuốn: “Out of My Later Years” (1950), ông đã viết: “Tất cả các tôn giáo, nghệ thuật và khoa học là những cành khác nhau của cùng một thân cây, mọi khát vọng đều hướng đến mục đích cao quý của cuộc sống con người và nâng nó lên từ phạm vi chỉ có sự tồn tại của vật chất đến sự tự do, giải thoát về tinh thần cho từng cá nhân”. Và ông đã nói: “Mỗi ngày, tôi đã tự nhắc nhở mình hàng trăm lần rằng: đời sống vật chất lẫn tinh thần của tôi đều dựa trên sức lao động của người khác. Do vậy, tôi phải nỗ lực để đền đáp lại những khoảng mà tôi đã thọ nhận và vẫn còn đang tiếp tục thọ nhận”. Đây là lời của Einstein nhưng chúng ta rất dễ nhầm lẫn là lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa vật chất, loài hữu tìnhsự kiện là những khái niệm cơ bản của khoa học hiện đại lẫn tư tưởng Phật giáo. Trong buổi lễ nhận giải thưởng Nobel hoà bình, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phát biểu: “Tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau trên rất nhiều phương diện, đến nỗi chúng ta không thể nào sống biệt lập với các cộng đồng và phớt lờ đi những gì đang xảy ra bên ngoài những cộng đồng ấy. Chúng ta cần sự giúp đỡ của người khác khi chúng ta gặp khó khăn và chúng ta cũng phải chia sẻ với người những may mắnchúng ta đang tận hưởng”. Về phương diện triết học, những lời này của Đức Đạt Lai Lạt Ma xuất phát từ khái niệm thuyết “Duyên sinh” phát sinh từ tư tưởng Trung đạo của Phật giáo.

Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”. Howard Culter, một cộng tác của Ngài trong cuốn “Nghệ thuật của Hạnh phúc”, cũng đã nói rằng: “Đức Đạt Lai Lạt Ma không hề biết rằng sách của Ngài đã được bán chạy nhất ở Bắc Mỹ”. Cũng vậy, Einstein cũng có cùng một thái độ không vị kỷ đối với cuộc sống. Trong một bài tiểu luận nổi tiếng nhất của mình “The World as I see it” (1931), ông viết: “Tôi cũng tin tưởng rằng cuộc sống giản dị và khiêm tốn rất tốt cho mọi người cả về thể xác lẫn tinh thần. Ba mục tiêu phấn đấu của con ngườitài sản, sự thành công bên ngoài và sự xa hoa đều luôn luôn là những thứ bần tiện đối với tôi”. Ông đã thực hành đúng với những gì ông đã từng nói. Chẳng hạn như: mặc dù đã tái hôn nhưng Einstein vẫn trao toàn bộ số tiền 30.000 đô la là giải thưởng Nobel của ông cho người vợ cả và các con của họ.

Einstein đạt giải thưởng Nobel Vật lý năm 1921 và Đức Đạt Lai Lạt Ma đạt giải Nobel Hòa bình năm 1989. Tuy nhiên, Einstein cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình thế giới, công cuộc giải trừ vũ khí hạt nhân trên các quốc gia, sự bình đẳng và dân quyền trong xã hội. Cả cuộc đời ông là sự đấu tranh chống bạo động, chiến tranh, phân biệt chủng tộcchủ nghĩa phát xít. Người anh hùng chính trị của ông là Mahatma Gandhi. Văn kiện cuối cùng mà Einstein đã ký (tháng 04/1955) là lời tuyên bố về sự cộng tác với triết gia người Anh - Bertrand Russell - trong đó, họ đã điểm danh tên của tất cả các nhà lãnh đạo thế giới về những nghị quyết hòa bình của những xung đột chính trị.

Gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: nếu có thể, Ngài sẽ đến một ngôi chùa và cống hiến cả quãng đời còn lại của mình cho sự thiền định. Điều này khiến ta liên tưởng đến lời nói của Einstein rằng: “Việc làm của người giữ nhà sẽ rất có ý nghĩa đối với một khoa học gia, bởi lẽ ông ta được đảm bảothời gian tự do và rảnh rỗi để suy nghĩ và làm việc”.

Cả Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều là những người bị mất nước. Einstein thoát khỏi Nazi, Đức vào năm 1933 và sinh sống ở Mỹ. Đức Đạt Lai Lạt Ma tị nạn tại Ấn độ từ năm 1959 do sự chiếm đóng của Trung quốc trên đất Tây Tạng. Kinh nghiệm của cuộc đời “vong quốc” một phần nào đó đã giúp họ trân trọng giá trị vô song về lịch sử văn hóa của dân tộc mình (cộng đồng người Do thái đối với Einstein và Phật giáo Tây Tạng đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma), để thấy được vẻ đẹp và tính đa dạng của văn hóa nhân loại và cảm nhận được nguồn gốc chung của sự bình đẳng về tâm linh của loài ngườimọi nơi trên thế giới. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói rằng cuộc sống lưu vong đã cho Ngài một cơ hội lớn để được gặp gỡ và tiếp cận với tất cả mọi người từ những quốc gia khác nhau và thuộc mọi tầng lớp của xã hội. Ngài kết luận rằng: “Tất cả mọi người đều như nhau, đều mong cầu hạnh phúc và xa lánh khổ đau”.

Leopold Infeld, bạn đồng nghiệp - đồng thời cũng là người đã viết tiểu sử cho Einstein đã viết: “Nếu Einstein bước vào phòng của bạn trong một buổi tiệc và bạn được giới thiệu về ông ta như một người mà bạn chưa hề biết tí gì về ông ta cả, thì bạn cũng sẽ bị cuốn hút bởi chính đôi mắt sáng ngời của ông, bởi sự bẽn lẽn, hiền lành, những ý tưởng thú vị, hóm hỉnh. Thực tế là ông ta có thể làm cho những điều hết sức tầm thường đều trở thành kiến thức thông thái, và những gì ông ta nói ra đều xuất phát từ tận đáy tâm hồn của chính mình chứ không hề bị ảnh hưởng bởi những tác động từ thế giới bên ngoài”. Tất cả những người đã từng hữu duyên được diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã xác thực rằng những đặc điểm trên cũng chính là tính cách của Ngài.

Einstein được sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Đức vào năm 1879. Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đời trong một gia đình nông dân nghèo ở vùng Amdo - Tây Tạng vào năm 1935. Những câu chuyện của họ hoàn toàn khác nhau. Thế nhưng tại sao chúng ta có thể tìm thấy ở họ những khía cạnh giống nhau về bối cảnh lẫn nhân cách? Bởi lẽ cả Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều đã vượt lên trên chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo, chủng tộc, quốc gia…. Cả hai đều có sự nhận thức về nhân loại, hòa bình và cuộc sống bằng chính trái tim nhân hậu của mình. 

Các giải thưởng Nobel của Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma tượng trưng cho cùng một đỉnh cao của nhân loại. Cả hai bậc vĩ nhân này đã đạt đến đỉnh cao ấy bằng chính sự hoàn thiện của họ trên những con đường khác nhau. Họ đã gặp nhau tại đỉnh cao ấy, và nơi đó đã phát ra hàng ngàn tia sáng chiếu rọi đến khắp cả muôn loài.

Theo “Mandala Magazine”
Biển Xanh lược dịch

Nguồn: Tập San Pháp Luân 16

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8000)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35451)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19629)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11668)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23147)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13325)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5838)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10577)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10323)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10008)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20819)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6194)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6842)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8877)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6006)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18134)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6342)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6716)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6543)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 12976)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5855)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7867)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10184)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7856)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9848)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9060)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5959)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24524)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36345)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7706)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11531)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10019)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5220)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5410)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 9985)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7865)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9350)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8640)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46465)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6888)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12250)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5784)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14465)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12953)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12399)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14517)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12380)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10942)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9619)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16659)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8460)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5947)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9939)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6362)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11335)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7033)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46669)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13481)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8377)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6848)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9160)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6177)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6890)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17814)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18145)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15749)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6938)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31199)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9566)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7678)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21588)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34150)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33284)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14223)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35617)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13000)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15761)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13670)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33000)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26322)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41382)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40328)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20027)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33677)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29671)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33716)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18851)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22656)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22396)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 48976)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11956)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11153)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22469)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 17976)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15104)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22659)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15992)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13104)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19706)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12054)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant