Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

So sánh về cuộc đờitính cách của hai bậc Vĩ nhân: Đức Đạt-lai-lạt-ma và Albert Einstein

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10188)
So sánh về cuộc đời và tính cách của hai bậc Vĩ nhân: Đức Đạt-lai-lạt-ma và Albert Einstein

Bảy mươi năm về trước, một bé trai với cái tên Lhama Dhondrub đã chào đời trong một gia đình nông dân nghèo thuộc miền Đông bắc Tây Tạng. Khi được phát hiện rahiện thân của ngài Avalokitesvara (Quán Thế Âm Bồ Tát), cậu được đặt tên lại là: Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso, và được xem như một “viên ngọc thỏa mãn mọi ước nguyện”. Đó chính là vị Thánh Tăng Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, bậc Thầy lãnh đạo tinh thần của nhân dân Tây Tạng cũng như của Phật giáo thế giới.

Vào ngày 06 tháng 07 năm nay (2005) sẽ là lần kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Ngài. Nhân dịp này, giáo sư Rasoul Sokhabi, chuyên gia nghiên cứu tại viện “Năng lượng và khoa học địa chất” của trường đại học Utah, thành phố Salt Lake đã viết một bài so sánh về cuộc đờitính cách của hai bậc vĩ nhân của nhân loại: Đức Đạt Lai Lạt Ma - nhà lãnh đạo Phật Giáo và Albert Einstein - khoa học gia nổi tiếng của thế giới.

Tổ chức Liên Hiệp Quốc đã tuyên bố năm 2005 này là năm “Vật lý thế giới” để tưởng nhớ những cống hiến của Albert Einstein, người đã đưa ra học thuyết “Tương đối” vào năm 1905 (đúng 100 năm trước), và ông đã qua đời vào năm 1955 (cách nay đúng 50 năm). Năm nay cũng là năm đánh dấu kỷ niệm lần thứ bảy mươi ngày sinh nhật của đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây chính là thời điểm và cơ hội thích hợp nhất cho chúng ta suy ngẫm về vị trí tương xứng của hai nhân vật kiệt xuất này trong thời đại của chúng ta để tìm ra một sự hợp nhất giữa tôn giáo và khoa học.

Cuộc đời của Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng cuốn hút rất nhiều người trong thế hệ chúng ta từ nhiều năm qua. Khi đọc tiểu sử hay những tác phẩm, những công trình nghiên cứu của họ, ta có thể nhận ra được nhiều nét nổi bật tương đương về bối cảnh cũng như cá tính của hai nhân vật này. Điều đó đã lóe lên những tia sáng trong mối quan hệ giữa lý trítâm linh, cả hai lĩnh vực này đều hết sức cần thiết cho cuộc sống con ngườixã hội.

Nguyên lý chung của cả Phật giáo lẫn khoa học: dù là một nhà nghiên cứu tâm linh hay một nhà khoa học đều phải dựa trên tâm thứckinh nghiệm của chính mình. Không hề có một đấng Thượng đế nào đầy quyền năng để cho họ phải tin theo một cách mù quáng. Mọi sự việc sẽ trở nên rất có ý nghĩa nếu như chúng được cảm nhận bằng những kinh nghiệm tâm linh hay được tái tạo bằng những thực nghiệm khoa học. Đặc tính nổi bật của các tác phẩm và những bài thuyết trình của Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma là những ngôn ngữ ấy đều được chắt lọc từ tâm hồn và kinh nghiệm của chính họ. Các học giả đã rất dễ dàng nhận ra được những nét đặc trưng này, bởi lẽ họ đã từng viết, đã từng đọc không ít những tham khảo, chú thích, dẫn chứng… về những tác phẩm của hai tác giả trên. Mặc dù các tác phẩm ấy đòi hỏi những kiến thức chuyên môn khác nhau nhưng cả hai tác giả đều có lối viết giống nhau: sử dụng ngôn ngữ giản dị, văn phong rõ ràng, có căn cứ xác thực. Thậm chí, còn có sự ăn khớp giữa hai tâm hồn tác giả ở chỗ họ cùng mượn những khái niệm, những thuật ngữ mà các bậc tiền bối đã từng sử dụng, đã từng biết đến để viết cho tác phẩm của mình. Bất chấp những mâu thuẫn trong lịch sử về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo, cả Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều giữ chung một lập trường rằng khoa học và tôn giáo có thể cùng nhau tồn tại và cùng đóng góp cho sự phát triển của nhân loại. Khoa học và tôn giáo là những phương diện khác nhau của kiến thứcthực hành, sự nỗ lực của cả hai lĩnh vực đều rất cần thiết cho sự cân bằng của cuộc sống. Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là một người theo trào lưu chính thống tôn giáo. Ngài trân trọng sự thành tựu của khoa học hiện đại và cũng tin tưởng rằng tất cả các truyền thống tôn giáo khác đều có sự hữu ích của nó. Einstein cũng không phải là một khoa học gia chỉ có đầu óc toán học vô tình thiếu nhạy cảm với chiều sâu tâm linh. Trong cuốn: “Out of My Later Years” (1950), ông đã viết: “Tất cả các tôn giáo, nghệ thuật và khoa học là những cành khác nhau của cùng một thân cây, mọi khát vọng đều hướng đến mục đích cao quý của cuộc sống con người và nâng nó lên từ phạm vi chỉ có sự tồn tại của vật chất đến sự tự do, giải thoát về tinh thần cho từng cá nhân”. Và ông đã nói: “Mỗi ngày, tôi đã tự nhắc nhở mình hàng trăm lần rằng: đời sống vật chất lẫn tinh thần của tôi đều dựa trên sức lao động của người khác. Do vậy, tôi phải nỗ lực để đền đáp lại những khoảng mà tôi đã thọ nhận và vẫn còn đang tiếp tục thọ nhận”. Đây là lời của Einstein nhưng chúng ta rất dễ nhầm lẫn là lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa vật chất, loài hữu tìnhsự kiện là những khái niệm cơ bản của khoa học hiện đại lẫn tư tưởng Phật giáo. Trong buổi lễ nhận giải thưởng Nobel hoà bình, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phát biểu: “Tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau trên rất nhiều phương diện, đến nỗi chúng ta không thể nào sống biệt lập với các cộng đồng và phớt lờ đi những gì đang xảy ra bên ngoài những cộng đồng ấy. Chúng ta cần sự giúp đỡ của người khác khi chúng ta gặp khó khăn và chúng ta cũng phải chia sẻ với người những may mắnchúng ta đang tận hưởng”. Về phương diện triết học, những lời này của Đức Đạt Lai Lạt Ma xuất phát từ khái niệm thuyết “Duyên sinh” phát sinh từ tư tưởng Trung đạo của Phật giáo.

Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”. Howard Culter, một cộng tác của Ngài trong cuốn “Nghệ thuật của Hạnh phúc”, cũng đã nói rằng: “Đức Đạt Lai Lạt Ma không hề biết rằng sách của Ngài đã được bán chạy nhất ở Bắc Mỹ”. Cũng vậy, Einstein cũng có cùng một thái độ không vị kỷ đối với cuộc sống. Trong một bài tiểu luận nổi tiếng nhất của mình “The World as I see it” (1931), ông viết: “Tôi cũng tin tưởng rằng cuộc sống giản dị và khiêm tốn rất tốt cho mọi người cả về thể xác lẫn tinh thần. Ba mục tiêu phấn đấu của con ngườitài sản, sự thành công bên ngoài và sự xa hoa đều luôn luôn là những thứ bần tiện đối với tôi”. Ông đã thực hành đúng với những gì ông đã từng nói. Chẳng hạn như: mặc dù đã tái hôn nhưng Einstein vẫn trao toàn bộ số tiền 30.000 đô la là giải thưởng Nobel của ông cho người vợ cả và các con của họ.

Einstein đạt giải thưởng Nobel Vật lý năm 1921 và Đức Đạt Lai Lạt Ma đạt giải Nobel Hòa bình năm 1989. Tuy nhiên, Einstein cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình thế giới, công cuộc giải trừ vũ khí hạt nhân trên các quốc gia, sự bình đẳng và dân quyền trong xã hội. Cả cuộc đời ông là sự đấu tranh chống bạo động, chiến tranh, phân biệt chủng tộcchủ nghĩa phát xít. Người anh hùng chính trị của ông là Mahatma Gandhi. Văn kiện cuối cùng mà Einstein đã ký (tháng 04/1955) là lời tuyên bố về sự cộng tác với triết gia người Anh - Bertrand Russell - trong đó, họ đã điểm danh tên của tất cả các nhà lãnh đạo thế giới về những nghị quyết hòa bình của những xung đột chính trị.

Gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: nếu có thể, Ngài sẽ đến một ngôi chùa và cống hiến cả quãng đời còn lại của mình cho sự thiền định. Điều này khiến ta liên tưởng đến lời nói của Einstein rằng: “Việc làm của người giữ nhà sẽ rất có ý nghĩa đối với một khoa học gia, bởi lẽ ông ta được đảm bảothời gian tự do và rảnh rỗi để suy nghĩ và làm việc”.

Cả Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều là những người bị mất nước. Einstein thoát khỏi Nazi, Đức vào năm 1933 và sinh sống ở Mỹ. Đức Đạt Lai Lạt Ma tị nạn tại Ấn độ từ năm 1959 do sự chiếm đóng của Trung quốc trên đất Tây Tạng. Kinh nghiệm của cuộc đời “vong quốc” một phần nào đó đã giúp họ trân trọng giá trị vô song về lịch sử văn hóa của dân tộc mình (cộng đồng người Do thái đối với Einstein và Phật giáo Tây Tạng đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma), để thấy được vẻ đẹp và tính đa dạng của văn hóa nhân loại và cảm nhận được nguồn gốc chung của sự bình đẳng về tâm linh của loài ngườimọi nơi trên thế giới. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói rằng cuộc sống lưu vong đã cho Ngài một cơ hội lớn để được gặp gỡ và tiếp cận với tất cả mọi người từ những quốc gia khác nhau và thuộc mọi tầng lớp của xã hội. Ngài kết luận rằng: “Tất cả mọi người đều như nhau, đều mong cầu hạnh phúc và xa lánh khổ đau”.

Leopold Infeld, bạn đồng nghiệp - đồng thời cũng là người đã viết tiểu sử cho Einstein đã viết: “Nếu Einstein bước vào phòng của bạn trong một buổi tiệc và bạn được giới thiệu về ông ta như một người mà bạn chưa hề biết tí gì về ông ta cả, thì bạn cũng sẽ bị cuốn hút bởi chính đôi mắt sáng ngời của ông, bởi sự bẽn lẽn, hiền lành, những ý tưởng thú vị, hóm hỉnh. Thực tế là ông ta có thể làm cho những điều hết sức tầm thường đều trở thành kiến thức thông thái, và những gì ông ta nói ra đều xuất phát từ tận đáy tâm hồn của chính mình chứ không hề bị ảnh hưởng bởi những tác động từ thế giới bên ngoài”. Tất cả những người đã từng hữu duyên được diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã xác thực rằng những đặc điểm trên cũng chính là tính cách của Ngài.

Einstein được sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Đức vào năm 1879. Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đời trong một gia đình nông dân nghèo ở vùng Amdo - Tây Tạng vào năm 1935. Những câu chuyện của họ hoàn toàn khác nhau. Thế nhưng tại sao chúng ta có thể tìm thấy ở họ những khía cạnh giống nhau về bối cảnh lẫn nhân cách? Bởi lẽ cả Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma đều đã vượt lên trên chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo, chủng tộc, quốc gia…. Cả hai đều có sự nhận thức về nhân loại, hòa bình và cuộc sống bằng chính trái tim nhân hậu của mình. 

Các giải thưởng Nobel của Einstein và Đức Đạt Lai Lạt Ma tượng trưng cho cùng một đỉnh cao của nhân loại. Cả hai bậc vĩ nhân này đã đạt đến đỉnh cao ấy bằng chính sự hoàn thiện của họ trên những con đường khác nhau. Họ đã gặp nhau tại đỉnh cao ấy, và nơi đó đã phát ra hàng ngàn tia sáng chiếu rọi đến khắp cả muôn loài.

Theo “Mandala Magazine”
Biển Xanh lược dịch

Nguồn: Tập San Pháp Luân 16

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17650)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24481)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 25985)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13767)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13174)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22041)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19066)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 9999)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11906)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13038)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15180)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10533)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21804)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10117)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9842)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9742)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 27363)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17831)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13188)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25130)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34637)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26743)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19058)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13080)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 8999)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9131)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11792)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18514)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8774)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10662)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10948)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27990)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17874)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14406)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16357)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13197)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15519)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14688)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7594)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17032)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8385)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30701)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant