Tổ Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN - BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE - ENGLISH VIỆT - ANH
Thiện Phúc
Na
Na A Lại Da Mạn Đà La:
Nalaya-mandala (skt)—Không phải là A Lại Da Mạn Đà La, hay là Bồ Đề Đạo Tràng,
không phải là nơi cố định—The non-alaya mandala, or the bodhi site or seat,
which is without fixed place, independent of place, and entirely pure.
Na Da: Naya
(skt).
1) Chính yếu: Leading.
2) Phương thức: Method.
3) Chánh Lý: Đạo lý chân
chính—Right principle.
4) Thừa: Yana (skt)—Con đường
tu đạo mà hành giả noi theo, từ một niệm thiện cho tới khi thành
Phật—Conveyance—Mode of progress.
5) Đạo: Way—Method.
Na Do Tha:
Navuta (skt)—Na Du Đa—Na Do Đa—Na Thuật—Tên số đếm, tương đương với 100.000,
1.000.000 hay 10 triệu—A numeral, 100,000, or one million, or ten million.
Na Đề:
1) Nadi
(skt)—Sông—Thác—River—Torrent.
2) Punyopaya (skt)—Bố Như Na
Đề, một vị Tăng nổi tiếng miền Trung Ấn—A noted monk of central India.
Na Đề Ca Diếp:
Nadikasyapa (skt)—Nại Địa (Đề) Ca Diếp Ba—Em trai của Đại Ca Diếp, sau thành
Phật Phổ Minh Như Lai—Brother of Mahakasyapa, to become Samantaprabhasa Buddha.
Na Già: Naga
(skt).
1) Một loại rắn: A kind of
snake.
2) Một chủng tộc thờ rắn: A
race of serpent-worshippers.
3) Rồng: Như loài rồng tiêu
biểu cho loài bò sát mạnh nhất; nó có thể biến hiện, tăng giảm, dài ngắn tùy ý.
Nó có thể bay trên trời, lội dưới nước hay đi vào trong đất. Vào mùa xuân nó
bay lượn trên trời, mùa đông lại chui vào đất—As dragon it represents the chief
of the scaly reptiles; it can disappear or manifest, increase or decrease,
lengthen or shrink at will. It can mount in the sky and in water, and enter the
earth. In spring it mounts in the sky and in winter enters the earth.
· Rồng được xem như hữu ích, vì mang lại mưa: Dragons are regarded as beneficent,
bringing the rains.
· Thiên Long Hộ Pháp: Guarding the heavens.
· Chúng ẩn dưới vực sâu để kiểm soát sông hồ: They control rivers and lakes, and
hibernate in the deep.
· Long và Đại Long là danh hiệu của Phật: Naga and Mahagana are titles of a
Buddha.
· Long và Đại Long cũng là danh hiệu của những bậc đã thoát vòng sanh tử, vì lực
thoát vòng tham dục và trói buộc trần thế của các ngài bay vút như rồng bay lên
trời: Naga and Mahanaga are titles of those freed from reincarnation, because
of his powers, or because like the dragon he soared above earthly desires and
ties.
4) Tượng: Elephant.
Na Già Át Thích Thụ Na:
Nagarjuna (skt)—See Long Thọ
Na Già Định:
Thiền định Na Già, khiến người thành “thọ long” hay rồng trường thọ ở nơi chỗ
sâu, để sau nầy được gặp Đức Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật—The naga meditation, which
enables one to become a dragon, hibernate in the deep, prolonged one’s life and
meet Maitreya.
Na Ná:
Similar—Analogous.
Na La: Nata
(skt)—Người nhảy múa hay diễn viên—A dancer or actor.
Na La Diên:
Narayana (skt)—Na La Dã Nã—Tiêu biểu với ba mặt, màu vàng, tay phải cầm bánh
xe, cưỡi chim Ca Lâu La—Narayana is represented with three faces, of
greenish-yellow colour, right hand with a wheel, riding a garuda bird.
1) Tên vị lực sĩ ở Thượng Thiên là tổ phụ của chúng sanh: Son of Nara or the
original man, patronymic of the personified Purusha or first living being,
author of the Purusha Hymn.
a) Nara (skt): Người—Man.
b) Yana (skt): Sinh bản hay
gốc của sự sống—The original life.
2) Tên khác của Phạm Thiên Vương, Tỳ Nữu Thiên: He is also identified with Brahma,
Visnu, or Krsna, interpreted by the originator of human life.
a) Kiên Cố: Firm and stable.
b) Lực Sĩ hay Thiên Giới Lực
Sĩ: Hero of divine power.
c) Kim Cang: Vajra (skt)—Mạnh
mẽ—Manly and strong.
Na
La Diên Thiên: Narayana-deva (skt)—Trời Na La
Diên.
Na
La Diên Thiên Hậu: Narayana-deva-sakti (skt)—Phu nhơn
của Na La Diên Thiên hay năng lực của nữ giới được chỉ bày trong nhóm Thai Tạng
Pháp Giới—Sakti or female energy is shown in the Garbhadhatu group.
Na
La Đà: Naradhara (skt)—Nhân Trì Hoa—Một
loại hoa thơm—A flower carried about for its scent.
Na
La Ma Na (Nạp): Naramanava (skt)—Thiếu niên Bà La
Môn—A young Brahman, a descendant of Manu.
Na
La Na Lý: Nara-nari (skt)—Sự hợp nhất của
hai phái nam nữ—Union of the male and female natures.
Na
La Tu Ma: Name of Jnatr.
Na
Lạc Ca: Naraka (skt)—Địa ngục—Hell.
1) Người làm ác bị hành hạ:
The sufferer.
2) Những cõi thấp: The lower
regions.
Na
Lan Đà: Các cơ sở tu viện lừng danh tại Na
Lan Đà trong thành Vương Xá có tầm quan trọng rất lớn trong lịch sử Phật giáo
thời gian sau nầy. Lịch sử của các kiến trúc tại đây có thể bắt đầu từ
đời vua A Dục (Asoka). Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Na Lan Đà
là ngôi chùa nổi tiếng, nơi mà ngài Huyền Trang từng tòng học, trường khoảng 7
dặm về phía bắc thành Vương Xá của xứ Ma Kiệt Đà,miền bắc Ấn Độ, được vua Thước
Ca La A Dật Đa (Sakraditya) xây dựng sau khi Phật nhập diệt. Bây giờ là
Baragong. Na Lan Đà được xem như là một trung tâm nghiên cứu Phật giáo, đặc
biệt là về triết lý Trung Quán. Na Lan Đà cực thịnh vào khoảng từ thế kỷ thứ 5
đến thế kỷ thứ 12. Sau đó Na Lan Đà được các vua cuối triều Gupta mở mang rộng
lớn. Kỳ thật Na Lan Đà là một trường Đại Học Phật Giáo, nơi những cao Tăng tòng
học tu để mở mang kiến thức về Phật giáo. Các di tích của tu viện Na Lan
Đà trải ra trên một vùng rộng lớn. Các công trình xây dựng được thấy hôm
nay chỉ là một phần của cơ ngơi đồ sộ và là dấu tích của các tu viện, đền,
tháp. Các công trình kiến trúc chạy theo hướng bắc nam, các tu viện nằm bên
sườn đông, còn các đền tháp nằm bên sườn tây. Qua phế tích, chúng ta thấy những
tu viện được xây nhiều tầng và ngay trong những đổ nát ngày nay, chúng vẫn còn
gợi lên cho chúng ta sự hoài niệm về một quá khứ đường bệ và vinh quang. Trong
viện bảo tàng hiện còn trưng bày nhiều tác phẩm điêu khắc cùng các cổ vật khác
tìm được trong các cuộc khai quật. Ngoài ra, còn nhiều di sản khác như các lá
đồng, các bia ký bằng đá, chữ khắc trên gạch và các con dấu bằng đất nung.
Trong số các con dấu, chúng ta có con dấu thuộc cộng đồng tu sĩ khả kính của
Đại Tu Viện. Những chứng liệu cho thấy Phật giáo hành trì tại Na Lan Đà cùng
các tu viện đương thời tại Bengal và Bihar không phải là Phật giáo Tiểu Thừa
đơn thuần, cũng không phải Đại Thừa thời khởi thủy, mà nó thâm nhiễm các tư
tưởng Bà La Môn và Mật tông. Huyền Trang, một cao Tăng Trung Quốc, đã du hành
sang Ấn Độ vào thế kỷ thứ bảy, đã kể lại về sự đồ sộ và phồn thịnh của Na Lan
Đà. Theo ông thì tu viện nầy đã có lần có đến 10.000 vị sư Đại Thừa đến tu tập
tại đây. Ông đã nói rất rõ về các giới điều và sự hành trì của chư Tăng tại
đây. Ông còn nhắc đến vua Harsa và các vị tiền nhiệm như những nhà bảo trợ đắc
lực cho tu viện nầy. Nghĩa Tịnh, một nhà hành hương khác của Trung Hoa, cũng đã
để lại cho chúng ta một bản mô tả cuộc sống của các tu sĩ tại Nalanda, tu viện
nầy được duy trì bằng số tiền thu được từ 200 ngôi làng được các đời vua ban
cấp cho tu viện. Vào thời ấy, Na Lan Đà nổi tiếng trong thế giới Phật giáo vì
có những giáo sư tài giỏi, uyên bác và những tên tuổi như Giới Hiền
(Silabhadra), Tịch Hộ (Santaraksita), A Để Sa (Atisa), hay Dipankara, những
ngôi sao sáng đã gợi lên hình ảnh cao trọng của tu viện trong suốt thời kỳ phồn
thịnh của nó—The famous monastic establishments at Nalanda, near Rajgir, were
of extreme importance in the history of latter day Buddhism. The history of the
monastic establishments can be traced back to the days of Asoka. According to
Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Nalanda is a famous
monastery which was located 7 miles north of Rajarha in Maghada, northern
India, built by the King Sakraditya after the Buddha’s nirvana. Now Baragong.
As a center of Buddhist study, particularly of Madhyamika philosophy. It
prospered from the fifth through the twelfth centuries. Thereafter, the
monastery was enlarged by the kings of the late Gupta period. The Nalanda
Monastery was in reality a Buddhist university, where many learned monks came
to further their study of Buddhism. The ruins of Nalanda extend over a large
area. The structures exposed to view represent only a part of the extensive
establishment and consist of monastic sites, stupa sites, and temple sites.
Lengthwise they extend from north to south, the monasteries on the eastern
flank, and stupas and temples on the west. Through the ruins, we can see
the evidence that these monasteries were storeyed structures; and even in their
ruins, they still convey a memory of their imposing and glorious past. In the
museum are deposited numerous sculptures and other antiquities recovered during
the excavations. Besides, there are a lot of epigraphic materials, including
copper-plate and stone inscriptions, and inscriptions on bricks, and terracotta
seals. Among the seals, we have the official seal belonging to the community of
venerable monks of the great monastery. Through these materials, we can see
that the Buddhism that was practised at Nalanda and other contemporary
institutions in Bengal and Bihar was neither the simple Hinayana, nor Mahayana
of the early days. It was strongly influenced by the Brahmanism and
Tantrism. Hsuan-Tsang, a famous Chinese monk, who traveled to India in
the seventh century, wrote of the imposing structure and prosperity of this
monastery. According to Hsuan-Tsang, at one time, there were more than 10,000
Mahayana Buddhist monks stayed there to study. He stated very clearly about
their rules and practices. He also mentioned Harsa and several of his
predecessors as beneficent patrons of this institution. I-Ching, another
Chinese traveller, had also left us a picture of the life led by Nalanda monks.
According to I-Ching, Nalanda was maintained by 200 villages which donated by
different kings. Nalanda was known throughout the Buddhist world of that time
for its learned and versatile teachers, and the names of Acarya Silabhadra,
Santaraksita, and Atisa or Dipankara, were shining stars among a galaxy
of many others, conjure up a vision of the supreme eminence of the Nalanda
Mahavihara throughout its prosperous history.
Na
Lan Đà Tự: See Na Lan Đà.
Na
Lạt Già: Naraca (skt).
1) Mũi tên: An arrow.
2) Vật nhọn: A pointed
implement.
Na
Liên Đề Lê Da Xá: Narendrayasas (skt).
1) Tôn xưng: Venerable.
2) Tên vị Tỳ Kheo Na Liên Da
Xá, người nước Ô Trành, miền Tây Bắc Ấn, vào thế kỷ thứ sáu, từng dịch khoảng
80 quyển Kinh Luận—A monk of Udyana, northwest India, sixth century, translated
the Candra-garbha, Surya-garbha, and other sutras.
Na
Lợi Kế La:
1) Narikela or Narikera
(skt)—Trái dừa hay cây dừa—The coco-nut.
2) Đảo Na Lợi Kế La:
Narikeladvipa (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, đây là một hòn
đảo nằm cách phía nam Tích Lan vài ngàn dặm, trú xứ của những người lùn với
chiều cao khoảng ba bộ Anh, có mình người mỏ chim, chỉ ăn dừa mà thôi—According
to Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, this is described
as “an island several thousand miles south of Ceylon, inhabited by dwarfs 3
feet high, who have human bodies with beaks like birds, and live upon
coco-nuts.
Na
Luật: See Aniruddha in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Na
Ma: Naman (skt)—Tên—A name.
Na
Mô: Namah (skt)—Quy-y.
Na
Tiên Tỳ Kheo: Bhiksu Nagasena—Tỳ Kheo Na Tiên—Một
vị Tăng nổi tiếng người Ấn vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch. Theo Na
Tiên Tỳ Kheo Kinh (hay Di Lan Đà Vấn Kinh), Na Tiên sanh ra trong một gia đình
Bà La Môn, tại Kajangala, một thành phố nhiều người biết đến bên cạnh dãy Hy Mã
Lạp Sơn. Cha ông là một người Bà La Môn tên Sonutttara. Khi Na Tiên đã học hành
thông thạo ba kinh Vệ Đà, lich sử cũng như các môn khác thì ông nghiên cứu Phật
giáo và xuất gia theo đạo Phật. Thoạt tiên ông học với trưởng lão Rohana, kế
tiếp với trưởng lão Assagutta ở Vattaniya. Sau đó ông được gửi đến thành Hoa
Thị, nay là Patna để nghiên cứu về giáo lý của đạo Phật. Sau đó ông gặp vua
Milinda tại tu viện Sankheyya ở Sagala. Ông là một luận sư rất nổi tiếng. Chính
ông đã biện luận với vua Hy Lạp là Di Lan Đà và độ cho vị vua nầy trở thành
Phật tử. Đây là cuộc tranh luận nổi tiếng và được biết như là một điển hình về
những cuộc gặp gỡ sớm nhất giữa nền văn minh Hy Lạp và Phật giáo. Theo Giáo Sư
Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo thì các tài liệu Pali còn lưu lại
cho thấy cuốn Di Lan Đà Vấn Đạo có lẽ được đại trưởng lão Na Tiên biên soạn,
được xem là cuốn sách đáng tin cậy—Nagasena, a famous Indian monk of the second
century B.C. According to the Milidapanha Sutra (The Questions of King
Milinda), he was born to a Brahman family, in a city called Kajangala, a
well-known town near the Himalayas, on the eastern border of the Middle
country, and his father was a Brahmin called Sonuttara. When Nagasena was
well-versed in the study of the three Vedas, history and other subjects, he
studied the Buddha's doctrine and entered the Buddhist Order. First, he
studied the Buddha’s doctrine with the Elder Rohana. Later he studied under the
Elder Assagutta of Vattaniya. Afterwards he was sent to Pataliputra, now Patna
where he made a special study of the Buddha’s doctrine. Then he stayed at
Sankheyya monastery, where he met king Milinda. He debated on various subjects
with the Greek King Menander, who ruled in northern India and is said to have
been converted by Nagasena. This debate is famous as an example of the earliest
encounters between Greek civilization and Buddhism. According to Prof. Bapat
in The Twenty-Five Hundred Years Of Buddhism, after the Pali scriptures,
the Questions of King Milinda (Milinda-panha) supposed to have been compiled by
Mahathera Nagasena, is considered almost as authoritative a text—See Di Lan Đà
Vấn Đạo.
Na
Tra: Nata (skt)—Thái tử con trai của Tỳ
Sa Môn Thiên Vương, một Quỷ Vương hùng tráng, ba mặt, tám tay—A powerful demon
king, said to be the eldest son of Vaisravana, and represented with three
faces, eight arms.
Na
Yết La Hát La: Nagarahara or Nagara (skt)—Theo
Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, đây là tên của một vương quốc cổ, nằm
trên bờ nam sông Cabool, khoảng 30 dặm về phía Tây của Jellalabad—According to
The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, this is the name of an
ancient kingdom on the southern bank of the Cabool River, about 30 miles west
of Jellalabad.
Nã:
1) Giựt lấy: To take—To lay
hold of.
2) Loài quỷ chuyên làm người
ghê sợ: Damara (skt)—Demons that affright sentient beings.
Nai
Lưng: To toil—To work hard.
Nài: To insist.
Nài
Nỉ: To beg—To request earnestly.
Nại:
1) Đè xuống: To press down.
2) Nhẫn nại—To endure—To bear.
3) Quả na: berries or musk.
4) Quả xoài: Amra (skt)—A
mango.
Nại
Địa Ca Diếp Ba: Nadi-Kasyapa (skt)—Còn gọi là Na
Đề, em ruột của ngài Ma Ha Ca Diếp, sau nầy sẽ thành Phật hiệu là Phổ Minh Như
Lai—A brother of Maha-Kasyapa, to be reborn as Buddha Samanta-Prabhasa.
Nại
Hà: Con sông trong địa ngục mà mọi
chúng sanh (linh hồn) phải vượt qua không thể tránh được—The inevitable river
in purgatory to be crossed by all souls.
Nại
Hà Cầu (Kiều): Chiếc cầu trong địa ngục, mọi tội
nhân đều phải qua và rơi xuống—The bridge in one of the hells, from which
certain sinners always fall.
Nại
Lạc Ca: Naraka (skt).
1) Địa ngục: Hell—The hells.
2) Nơi chịu khổ: The place of
torment.
Nại
Lợi: Niraya (skt)—Địa ngục—Hell.
Nại
Mạt Đà: Narmada (skt)—Con sông mà bây giờ
có tên là Nerbudda—The modern Nerbudda river.
Nại
Nữ: Amradarika or Amrapali (skt)—Người
đàn bà sanh ra trên cây xoài, người đã hiến “Nại Uyển” cho Đức Phật—A woman who
is said to have been born on a mango tree, and to have given the Plum-garden to
the Buddha.
Nại
Oán Hại Nhẫn: Sự nhẫn nhục trước những oán hận
và gây tổn hại cho chính mình—The patience which endures enmity and injury.
Nam:
1) Daksina (skt)—Phía
nam—South.
2) Người nam: Male.
Nam
Ai: Name of a sad piece of music.
Nam
Bộ: Jambudvipa (skt)—See Nam Thiệm Bộ
Châu.
Nam
Căn: Bộ phận sinh dục nam—The male
organ.
Nam
Châu: Jambudvipa (skt)—See Nam Thiệm Bộ
Châu.
Nam
Cư Sĩ: Laymen
Nam
Diêm Phù Đề: Jambudvipa (skt)—See Nam Thiệm Bộ
Châu.
Nam
Dương Huệ Trung: Nan-Yang Hui-Ch’ung 675-775—Nam
Dương Huệ Trung là tên của một nhà sư có ảnh hưởng rất lớn với các sư nhà Đường
vào khoảng những năm 761 đến 775 sau Tây Lịch. Nam Dương là môn đồ của Lục Tổ
Huệ Năng. Người ta kể rằng, đến năm 16 tuổi, Nam Dương không hề nói một lời
nào, cũng như không bao giờ băng qua chiếc cầu trước nhà. Một hôm, có một thiền
sư vừa qua cầu trước ngõ, ông vội vàng bước qua cầu để gặp thầy và xin được làm
đệ tử. Thấy được tài năng của chàng thiếu niên, thầy bèn phái chàng đến gặp Lục
Tổ Huệ Năng. Lục Tổ tiên đoán Huệ Trung sẽ là một vị Phật độc nhất trên thế
giới, nên nhận làm đệ tử và kế thừa Pháp của Ngài—Nan-Yang, a noted monk who
had influence with the T’ang emperors from 761 to 775 A.D. Nan-Yang Hui-Ch’ung,
an early Chinese Ch’an master, a disciple and Dharma successor of Hui-Neng. It
is said that he did not speak a single word till the age of sixteen and would
never cross the bridge in front of his parents’ house. One day a Ch’an master
was approaching the house, he ran over the bridge to the master and requested
him to accept him as a disciple. The master, who recognized the boy’s great
potential, sent him to the monastery of Hui-Neng. Hui-Neng told him that he
would be a “Buddha standing alone in the world,” accepted him as a student and
later confirmed him as his Dharma successor.
**
For more information, please see Huệ
Trung Thiền Sư.
Nam
Đốn Bắc Tiệm: Thiền của hai tông nam và bắc ở
trung Quốc—Southern immediate, Northern gradual.
**
For more information, please see Nam
Nam
Hải Ma La Da Sơn: Malayagiri (skt)—Núi Ma La Da phía
nam Ấn Độ—The Malaya mountains in Malabar answering to the western Ghats; a
district in the south of India (a mountain in Ceylon).
Nam
Hành: Daksinayana (skt).
1) Mặt trời trịch về phương
nam, cứ sáu tháng là nó di chuyển từ bắc xuống nam một lần: The course or
declination of the sun to the south; the half- year in which it moves from
north to south.
2) Khoảng thời gian sáu tháng:
A period of six months.
Nam
Kha: Empty dream.
Nam
La: Malava (skt)—Nam La là một vương
quốc ở miền Trung Ấn Độ, tổng hành dinh của tà phái ngoại đạo, bây giờ là
Malwa, đối lại với Bắc La ở Gujarat—Southern Lara, an ancient kingdom in
central India; headquarters of heretical sects, in the present Malwa, in
contrast with northern Valabhi in Gujarat.
Nam
Mô: Namo or Namah (skt)—Nam Mầu—Na
Mô—Nạp Mô—Na Mầu—Nam Mang—Nạp Mặc—Nẵng Mồ (chúng sanh hướng về Phật,
quy-y tín thuận).
1) Quy Mạng—Homage—To submit
oneself to—To make obeisance.
2) Kỉnh Lễ: To pay homage
to—To bow to—An expression of submission to command—Complete
commitment—Reverence—Devotion.
3) Cứu Độ: Trust for
salvation.
Nam
Mô A Di Đà Phật: Namah Amitabha or Namo
Amitayuse-Buddha (skt)—Nam Mô A Di Đà Phật, là quy mệnh đối với Đức Phật A Di
Đà hay chúng sanh một lòng quy ngưỡng nơi lời nguyện cứu độ của Đức Phật A Di
Đà mà niệm hồng danh của Ngài, tức là mở cửa đi vào cõi Tịnh Độ—Namah Amitabha,
the formula of faith of the Pure Land sect, representing the believing heart of
all beings and Amitabha’s power and will to save; repeated in the hour of death
it opens the entrance to the Pure Land.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật:
Namo Sakya Muni Buddha—Namo Fundamental (Original) Teacher Sakyamuni
Buddha—Homage to our Teacher Sakyamuni Buddha—Con xin quy mạng Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni.
Nam
Mô Chư Tổ Bồ Tát: Namo Descending line of Patriarchs
Bodhisattvas.
Nam
Mô Cực Lạc quốc A Di Đà Phật:
Namo The Land of Ultimate Bliss Amitabha Buddha.
Nam
Mô Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật:
Namo Amitabha Buddha of the Land of Ultimate Bliss.
Nam
Mô Diệu Pháp Liên Hoa: Nama! Wonderful-Law
Lotus-Flower!—Câu trí niệm của Tông Pháp Hoa bên Nhật—The recitation of the
Nichiren Sect.
**
For more information, please see Bổn Tích
Nam
Mô Dược Sư Hội Thượng Phật Bồ Tát:
Namo Medicine Master Assembly of Buddhas and Bodhisattvas.
Nam
Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Phật:
Namo Quelling Disasters Lengthening Life Medicine Master.
Nam
Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát:
Namo Kuan Shi Yin Great Compassion Bodhisattva—Namo Great Compassionate
Bodhisattva Avalokitesvara—Namo Kuan Shi-Yin Bodhisattva of great Compassion.
Nam
Mô Đại Thánh Khẩn Na La Vương Bồ Tát:
Namo Great Holy Kinnara King Bodhisattva.
Nam
Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát: Namo
Universal Worthy Great Conduct Bodhisattva (Namo Samantabhadra Bodhisattva of
great conduct).
Nam
Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát:
Namo Earth Treasury King Vow Bodhisattva—Namo Great Vows Earth Store
Bodhisattva (Namo Earth Store King Bodhisattva of great vows).
Nam
Mô Đại Thế Chí Bồ Tát: Namo Great Strength
Bodhisattva—Namo Bodhisattva Mahasthama—Namo Bodhisattva who has attained great
strength.
Nam
Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:
Namo Manjusri Great Wisdom Bodhisattva (Bodhisattva of great wisdom).
Nam
Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật:
Namo Maitreya Honored Future Buddha (Namo the Honoured Buddha Maitreya, Soon to
be born in the world).
Nam
Mô Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát:
Namo Holy Assembly of Temple-Guarding Bodhisattvas.
Nam
Mô Hộ Pháp Chư Thiên Bồ Tát: Namo All
Heavenly Dharma-Protecting Bodhisattvas.
Nam
Mô Hộ Pháp Thiên Long Bồ Tát:
Namo All Dharma Guardian Deva Bodhisattvas.
Nam
Mô Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát:
Namo Vajrapani Bodhisattvas, Dharma Protector and Honoured Deva (God).
Nam
Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát:
Homage to the Enlightened Being, Cloud Canopy of Fragrance Bodhisattva,
Mahasattva.
Nam
Mô Kim Cang Tạng Bồ Tát: Namo
Vaira Treasury Bodhisattvas.
Nam
Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát:
Namo Shurangama Assembly of Buddhas and Bodhisattvas.
Nam
Mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát: Namo
Generations of Patriarchs, Bodhisattvas.
Nam
Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát:
Namo Sea Vast Lotus Pool Assembly of Buddhas and Bodhisatvas—Homage to the
Lotus Pool Assembly of Buddhas and Bodhisattvas as vast as the sea.
Nam
Mô Phạm Võng Giáo Chủ Tỳ Lô Xá Na Phật:
Namo (Homage) Lord of Brahma Net, Vairocana Buddha.
Nam
Mô Phật: Quy mệnh đối với Phật, với Tam
Bảo, với Phật A Di Đà—Namo Buddha; I devoted myself entirely to the Buddha, or
Triratna, or Amitabha.
Nam
Mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm:
Namo Supreme Shurangama of the Buddha’s Summit.
Nam
Mô Quan Thế Âm Bồ Tát: Namo Kuan Shi Yin Bodhisattva.
Nam
Mô Sư: Master of Namah, i.e. Buddhist or
Taoist priests and sorcerers.
Nam
Mô Tam Bảo: See Nam Mô Phật.
Nam
Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật: Namo Great Merciful and Compassionate Buddha Amitabha of
the Western Land of Ultimate Bliss.
Nam
Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát:
Homage to the Bodhisattva, Mahasattva of the Clear Cool Ground.
Nam
Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát:
Namo Pure Assembly of Bodhisattvas as Vast as the Oceans—Namo Great Pure
Sea-Vast Assembly of Bodhisattvas.
Nam
Mô Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Chư Phật:
Namo all Buddhas of the Ten Directions (Quarters) and three times (Namo all
Buddhas everywhere throughout all realms of time).
Nam
Mô Thích Ca Mâu Ni Phật: Namo
Sakyamuni Buddha.
Nam
Mô Thường Trụ Thập Phương Pháp:
Namo Permanently dwelling Ten Directions Dharmas—Namo Eternally Abiding (Everlasting)
Dharma of the ten directions.
Nam
Mô Thường Trụ Thập Phương Phật:
Namo Eternally Dwelling Ten Directions Buddhas—Namo Eternally Abiding
(Everlasting) Buddhas of the ten directions.
Nam
Mô Thường Trụ Thập Phương Tăng:
Namo Eternally Dwelling (abiding) of the Ten Directions of Sanghas—Namo Eternally Abiding (Everlasting) Sangha of the ten
directions.
Nam
Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật:
Namo Medicine Master Buddha who dispels calamities and lengthens life.
Nam
Mô Tịnh Nhãn Bồ Tát Ma Ha Tát:
Namo Universal Eye Bodhisattva, Mahasattva.
Nam
Mô Trời: Namo Heaven—Từ nầy thường được dân
miền quê Việt Nam dùng để cầu nguyện—This term is usually used to pray by the
Vietnamese countryside people.
Nam
Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát:
Namo Homage To The Ullambana Assembly of Buddhas and Bodhisattvas
Nam
Năng Bắc Tú: Nam tông được xem như tông đốn ngộ
của Lục Tổ Huệ Năng, bắc tông được xem như tông tiệm ngộ của đại sư Thần Tú—Huệ
Năng của Nam Tông, Thần Tú của Bắc Tông)—The southern of the Sixth Patriarch
Hui-Neng came to be considered the orthodox Intuitional school or the immediate
method, the northern of the great monk Shen-Hsiu came to be considered as
the gradual medthod.
**
For more information, please see Nam
Nam
Nhạc Hoài Nhượng Thiền Sư:
Nan-Yueh-Huai-Jang, sanh năm 677 sau Tây Lịch tại Kim Châu, ông là một thiền sư
xuất sắc đời nhà Đường, đại đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng, và cũng là thầy của Mã
Tổ. Nam Nhạc xuất gia năm 15 tuổi với luật Sư Hoàng Cảnh. Sau khi thọ giới cụ
túc, sư học hết Tạng Luật, nhưng sư không thỏa mãn nên du phương tìm đến một vị
thầy tên là Huệ An ở núi Tung Sơn. Dù sư có tiến bộ, nhưng Hòa Thượng Huệ An
bảo sư nên đến Tào Khê tham vấn Lục Tổ Huệ Năng—Nan-Yueh was born in 677 A.D. in
Jing-Chou, one of the famous Zen masters during the T’ang dynasty. He was the
great disciple of the Sixth Patriarch. He left home at the age of fifteen to
study under a Vinaya master named Hung-Jing. After his ordination, he studied
the Vinayapitaka, but he became dissatisfied, and then traveled to see a
teacher named Hui-An on Mount Tsung. Although Nan-Yueh made some spiritual
progress with Hui-An, he soon continued on to Tsao-Xi to studied with the Sixth
Patriarch Hui-Neng.
· Sư đến Tào Khê tham vấn Lục Tổ Huệ Năng. Tổ hỏi: “Ở đâu đến?” Sư thưa: “Ở Tung
Sơn đến.” Tổ hỏi: “Vật gì đến?” Sư thưa: “Nói in tuồng một vật tức không
trúng.” Tổ hỏi: “Lại có thể tu chứng chăng?” Sư thưa: “Tu chứng tức chẳng
không, nhiễm ô tức chẳng được.” Tổ nói: “Chính cái không nhiễm ô nầy là chỗ hộ
niệm của chư Phật, người đã như thế, ta cũng như thế. Tổ Bát Nhã Đa La ở Tây
Thiên có lời sấm rằng: ‘Dưới chân ngươi sẽ xuất hiện NHẤT MÃ CÂU (con ngựa tơ)
đạp chết người trong thiên hạ. Ứng tại tâm ngươi chẳng cần nói sớm.’” Sư hoát
nhiên khế hội. Từ đây sư ở hầu hạ Tổ ngót mười lăm năm—Nan-Yueh came to Tsao-Xi
to study with Hui-Neng. Hui-Neng said to Nan-Yueh: “Where did you come from?”
Nan-Yueh said: “From Mount Song.” Hui-Neng said: “What is it that thus come?”
Nan-Yueh couldn’t answer. After eight years, Nan-Yueh suddenly attained
enlightenment. He informed the Sixth Patriarch of this, saying: “I have an
understanding.” The Sixth Patriarch said: “What is it?” Nan-Yueh said: “To say
it’s a thing misses the mark.” The Sixth Patriarch said: “Then can it be made
evident or not?” Nan-Yueh said: “I don’t say it can’t be made evident, but it
can’t be defiled.” The Sixth Patriarch said: “Just this that is undefiled is
what is upheld and sustained all Buddhas. You are thus. I am also thus. “Prajnadhara has foretold that from beneath your feet will come a horse which
will trample to death everyone in the world. Bear this in mind but don’t
soon repeat it.” Nan-Yueh suddenly experienced Great Enlightenment. He then
served the Sixth Patriarch for fifteen years.
· Có vị Sa Môn ở huyện Truyền Pháp hiệu Đạo Nhất, hằng ngày ngồi thiền. Sư biết
đó là pháp khí (người hữu ích trong Phật pháp) bèn đi đến hỏi: “Đại đức ngồi
thiền để làm gì?” Đạo Nhất thưa: “Để làm Phật.” Sau đó sư lấy một cục gạch đến
trên hòn đá ở trước am Đạo Nhất ngồi mài. Đạo Nhất thấy lạ hỏi: “Thầy mài gạch
để làm gì?” Sư đáp: “Mài để làm gương.” Đạo Nhất nói: “Mài gạch đâu có thể
thành gương được?” Sư hỏi lại: “Ngồi thiền đâu có thể thành Phật được?” Đạo
Nhất hỏi: “Vậy làm thế nào mới phải?” Sư nói: “Như trâu kéo xe, nếu xe không
đi, thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?” Đạo Nhất lặng thinh, sư nói
tiếp: “Ngươi học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền, thiền không
phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không có tướng nhất định, đối pháp không
trụ, chẳng nên thủ xả. Ngươi nếu ngồi Phật, tức là giết Phật, nếu chấp tướng
ngồi, chẳng đạt ý kia.” Đạo Nhất nghe sư chỉ dạy như uống đề hồ, lễ bái hỏi:
“Dụng tâm thế nào mới hợp với vô tướng tam muội?” Sư bảo: “Ngươi học pháp môn
tâm địa như gieo giống, ta nói pháp yếu như mưa móc, nếu duyên ngươi hợp sẽ
thấy đạo nầy.” Đạo Nhất lại hỏi: “Đạo không phải sắc tướng làm sao thấy được?”
Sư nói: “Con mắt pháp tâm địa hay thấy được đạo. Vô tướng tam muội cũng lại như
vậy.” Đạo Nhất hỏi: “Có thành hoại chăng?” Sư nói: “Nếu lấy cái thành
hoại tụ tán, thiện ác mà thấy đạo, là không thể thấy đạo. Nghe ta nói kệ:
Tâm địa hàm chư chủng,
(Đất tâm chứa các giống)
Ngộ trạch tức giai manh
(Gặp ướt liền nẩy mầm)
Tam muội hoa vô tướng
(Hoa tam muội không tướng)
Hà hoại phục hà thành?
(Nào hoại lại nào thành?) .
Nhờ những lời nầy mà Đạo Nhất khai ngộ tâm ý siêu nhiên—During the Kai-Yuan era of the T’ang dynasty (713-741) there was
a novice monk called Ma-Tsu T’ao-Yi who constantly practice Zen meditation upon
Mount Heng. Nan-Yueh knew that T’ao-Yi was a great vessel for the Dharma,
and once walked up to him and said: “ What does your Worthiness intend to do by
sitting in meditation?” Ma-Tsu said: “I intend to become a Buddha.” Nan-Yueh
then picked up a piece of tile from the ground and began grinding on a rock.
T’ao-Yi then asked: “What are you trying to make by grinding that?” Nan-Yueh
said: “I’m grinding it to make a mirror.” T’ao-Yi said: “How can you make a
irror by grinding a tile on a rock?” Nan-Yueh said: “If you can’t make a mirror
by grinding a tile on a rock, how can you become a Buddha by sitting in
meditation?” T’ao-Yi said: “What is the correct way?” Nan-Yueh said: “It can be
compared to an ox pulling a cart. If the cart doesn’t move, do you strike the
cart or strike the ox?” T’ao-Yi didn’t answer. Nan-Yueh then said: “Are you
sitting in order to practice Zen, or are you sitting to be a Buddha? If you’re
sitting to practice Zen, then know that Zen is not found in sitting or lying
down. If you’re sitting to become a Buddha, then know that Buddha has no fixed
form. With respect to the constantly changing world, you should neither grasp
it nor reject it. If you sit to become a Buddha, you kill Buddha. If you grasp
sitting form then you have not yet reached the meaning.” When T’ao-Yi heard
this instruction it was as though he had drunk sweet nectar. He bowed and
asked: “How can one cultivate mind to be in accord with formless
samadhi?” Nan-Yueh said: “You’re studying the Dharma gate of mind-ground,
and this activity is like planting seeds there. The essential Dharma of which I
speak may be likened to the rain that falls upon the seeded ground. In this
same manner your auspicious karmic conditions will allow you to perceive the
Way.” T’ao-Yi then asked: “The Way is without color or form. How can one
perceive it?” Nan-Yueh said: “The Dharma eye of mind-ground can perceive the
true way. The formless samadhi is likewise perceived.” T’ao-Yi then asked:
“Does it have good and bad, or not?” Nan-Yueh said: “If the Way is seen in the
aggregation and disintegration of good and bad, then it is not the way. Listen
to this verse:
“The mind-ground fully sown,
When moisture comes, all seeds sprout
The formless flower of samadhi,
How can it be bad or good?”
At these
words T’ao-Yi experienced great enlightenment and unsurpassed realization.
· Đệ tử nhập thất gồm có sáu người, sư ấn khả rằng: “Sáu người các ngươi
đồng chứng thân ta, mỗi người khế hội một phần—Six disciples entered
Nan-Yueh-Huai-Rang’s room to received transmission. He commended each of them,
saying: “Six of you represent my body, each in accord with one part of
it.”
1. Người được chân mày ta,
giỏi về uy nghi là Thường Hạo—Chang-Hao inherits my eyebrows and their
dignified appearance.
2. Người được mắt ta giỏi về
ngó liếc là Trí Đạt—Zhi-T’a inherits my eyes and their stern glare.
3. Người được tai ta giỏi về
nghe lý là Thản Nhiên—T’an-Ran inherits my ears and their ability to hear true
principle.
4. Người được mũi ta giỏi về
biết mùi là Thần Chiếu—Shen-Zhao inherits my nose and its ability to perceive
smelling.
5. Người được lưỡi ta giỏi về
đàm luận là Nghiêm Tuấn—Yuan-Xuan inherits my tongue and its ability to
articulate speaking.
6. Người được tâm ta giỏi về
xưa nay là Đạo Nhất—T’ao-Yi inherits my mind and its knowledge of past and
present.
· Sư lại bảo: “Tất cả các pháp đều từ tâm sanh, tâm không chỗ sanh, pháp không
thể trụ. Nếu đạt tâm địa, việc làm không ngại, không phải thượng căn thì dè dặt
chớ nói (nhất thiết chư pháp giai tùng tâm sanh, tâm vô sở sanh, pháp vô sở
trụ. Nhược đạt tâm địa sở tác vô ngại, phi ngộ thượng căn nghi thận từ
tai)—Nan-Yueh also said: “All dharmas are born of mind. Mind is unborn. Dharmas
are nonabiding. When one reaches the mind-ground, one’s actions are
unobstructed. Be careful using this teaching with those not of superior
understanding.
· Có vị Đại đức đến hỏi sư: “Như gương đúc tượng, sau khi tượng thành không biết
cái sáng của gương đi về chỗ nào?” Sư bảo: “Như Đại đức tướng mạo lúc trẻ thơ
hiện thời ở đâu?” Đại đức lại hỏi: “Tại sao sau khi thành tượng không chiếu
soi?” Sư bảo: “Tuy không chiếu soi, nhưng đối y một điểm cũng chẳng được.”—A
great worthy one asked Nan-Yueh: “If an image is reflected in a mirror, where
does the light of the image go when it’s no longer observed?” Nan-Yueh said:
“It’s similar to remembering when Your Worthiness was a child. Where has your
childlike appearance gone now? The worthy one asked: “But afterward, why does
the image not remain?” Nan-Yueh said: “Although it is no longer reflected, it can
be reproved even slightly.”
· Sau Đạo Nhất đi giáo hóa ở Giang Tây, sư hỏi chúng: “Đạo Nhất vì chúng thuyết
pháp chăng?” Chúng thưa: “Đã vì chúng thuyết pháp.” Sư hỏi: “Sao không thấy
người đem tin tức về?”Chúng lặng thinh. Sư bèn sai một vị Tăng đi thăm. Trước
khi hỏi: ‘Làm cái gì?’ Y trả lời, nhớ ghi những lời ấy đem về đây.” Vị Tăng đi
thăm, làm đúng như lời sư đã dặn. Khi trở về vị Tăng thưa: “Đạo Nhất nói: ‘Từ
loạn Hồ sau ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối.” Sư nghe xong gật đầu—Once
after T’ao-Yi left Nan-Yueh and was teaching in Jiang-Hsi, Nan-Yueh addressed
the monks, saying: “Is T’ao-Yi teaching for the benefit of beings or not?” Some
monks in the congregation replied: “He’s been teaching for the benefit of
beings.” Nan-Yueh said: “I’ve never heard any specific news about this.” The congregation couldn’t offer any news on this. Nan-Yueh dispatched a monk to
Ma-Tsu’s place, instructing him: “Wait until he enters the hall to speak, and
then ask him: ‘What’s going on?’ Take note of his answer and then bring it back
to tell it to me.” The monk then carried out Nan-Yueh’s instructions. He
returned and said: “Master Ma-Tsu said: ‘In the thirty years since the
barbarian uprising I’ve never lacked salt or sauce.’” Nan-Yueh approved this
answer.
· Sư thị tịch vào năm 744 sau Tây Lịch—He died in 744 A.D.
Nam
Nhân: A man.
Nam
Nữ: Male and female.
Nam
Phong: South wind.
Nam
Phổ Đà: Tên một ngôi chùa nổi tiếng trong
quận sáu, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa được xây dựng vào năm 1953 và
đã trải qua bốn đời trụ trì. Chùa kiến lập ba ngôi điện thờ của Phật Thích Ca,
Bồ Tát Quán Thế Âm, và Bồ tát Địa Tạng. Nam Phổ Đà là ngôi chùa nổi tiếng của
người Trung Hoa bên tỉnh Phúc Kiến, thuộc dòng Thiền Phổ Đà Tây Sơn. Chánh điện
tôn trí thờ Tam Bảo với tượng Phật bằng đá, tượng gỗ Tây Thiên Tam Thánh, hai
bên có tượng Già Lam, Hộ Pháp. Mặt sau thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma—Name of a famous
pagoda, located in the sixth district, Saigon City, South Vietnam. The pagoda
was built in 1953 and headed by four successive elders. It was constructed with
three Holy Shrines worshipping Sakyamuni Buddha, Avalokitesvara Bodhisattva,
and Yama of Hell. Nam Phổ Đà is a famous Chinese pagoda from Fu-Chian province
belonging to the Buddhist sect of Tsi-Shan Ch’an Tzih. In the the Main Hall
stand stone statues of the Three Jewels and the wooden statues of the Three
Noble Ones of the West Heaven are worshipped. On both sides of the statues
stand those of Buddhist Bonze, Dharma Guardian. Patriarch Bodhidharma is
worshipped in the Back Hall.
Nam
Phù: Jambudvipa (skt)—See Nam Thiệm Bộ
Châu.
Nam
Phương: Phương nam—Southern quarter.
Nam
Phương Phật Giáo: Nam Phương Phật Giáo đối lại với
Bắc Phương Phật Giáo (từ đời vua A Dục trở về sau, Phật giáo truyền từ vùng nam
Ấn Độ như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan)—Southern Buddhism, in contrast with
Northern Buddhism (Mahayana—Bắc phương Phật giáo).
Nam
Phương Vô Cấu Thế Gới: Theo Kinh Pháp Hoa thì Nam Phương
Vô Cấu Thế Giới là thế giới mà nàng Long Nữ đã thành Phật—According to the
Lotus Sutra, the Southern Pure Land is a land to which the dragon-maid went on
attaining Buddhahood.
Nam
Sơn: Ngài Đạo Tuyên đời nhà Đường là vị
tổ của tông Tứ Phần Luật, trụ trì tại chùa trong núi Chung Nam, nên chùa được
gọi là Nam Sơn—Southern hill, name of a monastery which gave its name to
T’ao-Hsuan of the T’ang dynasty, founder of the Vynaya school.
**
For more information, please see Đạo
Tuyên.
Nam
Tạng:
1) Tạng Kinh Pali của miền Nam
Ấn (ở các xứ Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan)—The Southern collection or Edition
of Buddhist Canon from Ceylon, Burma, and Thailand.
2) Nam Tạng Kinh của Trung
Quốc, ấn bản tại Nam Kinh đời nhà Minh (1368-1398)—The Southern Collection, or
edition, of the Chinese Buddhist Canon, published at Nanking under the ming
dynasty (1368-1398).
Nam
Thanh Nữ Tú: Handsome man and woman.
Nam
Tháp Quang Dũng Thiền Sư: Zen
Master Nan-Ta-Kuang-Yong—See Quang Dũng Thiền Sư.
Nam
Thiệm Bộ Châu: Jambudvipa (skt)—Nam Châu—Nam
Bộ—Nam Diêm Phù Đề—Nam Phù—Nam Thiệm Bộ Châu, một trong tứ đại châu, tọa lạc
phía nam núi Tu Di, bao gồm thế giới được biết đến bởi người Ấn Độ thời cổ sơ.
Theo Eitel trong Trung Anh Phật Hoc Từ Điển, Nam Thiệm Bộ Châu bao gồm những
vùng quanh hồ Anavatapta và núi Tuyết (tức là cõi chúng ta đang ở, trung tâm
châu nầy có cây diêm phù. Chính ở cõi nầy, Đức Phật đã thị hiện, và ở cõi nầy
có nhiều nhà tu hành hơn hết)—The Southern Continent, one of the four
continents, that situated south of Mount Meru, comprising the world known to
the early Indian. According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English
Buddhist Terms, Jambudvipa includes the following countries around the
Anavatapta lake and the Himalayas:
1) Bắc—North: Hung Mông
Thổ—Huns-Mongolians-Turks.
2) Đông—East: Trung Quốc-Đại
Hàn-Nhật—China-Korea-Japan.
3) Nam—South:
a) Bắc Ấn—Northern India: Hai
mươi bảy vương quốc—Twenty-seven kingdoms.
b) Đông Ấn—Eastern India: Mười
vương quốc—Ten kingdoms.
c) Nam Ấn—Southern India: Mười
lăm vương quốc—Fifteen kingdoms.
d) Trung Ấn—Central India: Ba
mươi vương quốc—Thirty kingdoms.
e) Tây Ấn—Western Indian: Ba
mươi bốn vương quốc—Thirty-four kingdoms.
Nam
Thiên Nhất Trụ: Tên của một ngôi chùa nổi tiếng
nằm trong quận Thủ Đức, thành phố Sài Gòn, Nam Việt Nam. Chùa được Hòa Thượng
Trí Dũng kiến lập vào năm 1959, được làm theo kiểu chùa Một Cột ở Hà Nội. Chánh
điện được xây cất rất công phu. Các pho tượng Phật, các bàn hương án, bao lam,
và phù điêu là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Chùa có bản kinh Phật bằng lá
bối do Thủ Tướng Ấn Độ tặng năm 1964—Name of a famous pagoda located in Thủ Đức
district, Saigon City, South Vietnam. It was built in 1959 by Most venerable
Trí Dũng. Its general structure follows the design of One-Pillar Pagoda in Hà
Nội. The Main Hall was constructed skillfully. The Buddha statues, altars,
carved drafts, bas-reliefs, etc. are magnificient masterpieces. The pagoda has
conserved a sutra copied on palm leaves, a gift from Indian Prime Minister in
1964.
Nam
Thiên Trúc: Nam Ấn Độ—Southern India.
Nam
Tông: Nam Tông, hay trường phái Đạt Ma
chia làm hai phái bắc nam, bắc Thần Tú, nam Huệ Năng, vào khoảng năm 700 sau
Tây Lịch—The Southern sect, or Bodhidharma school, divided into northern and
southern, the northern under Shen-Hsiu, the southern under Hui-Neng, around 700
A.D.
Nam
Trung Tam Giáo: Tam giáo của Đức Thích Ca Mâu Ni
đã được Dương Tử thuyết giảng—The three modes of Sakyamuni’s teaching as
expounded by the teachers south of Yang-Tze:
1) Tiệm Giáo: Tiệm giáo đưa
hành giả từng bước vào niết bàn—The gradual method, leading the disciples step
by step to nirvana.
2) Đốn Giáo: Đốn Giáo được
Phật Thích Ca dùng để giảng dạy cho hàng Bồ Tát—The immediate method, by which
he instructed the bodhisatvas, revealing the whole truth.
3) Bất Định Giáo: Bất định
giáo ứng dụng cho từng cá nhân riêng lẻ—The undetermined method, by which the
teaching is adapted to each individual or group.
Nam
Tuyền: Nam Tuyền, đệ tử của ngài Mã
Tổ—Nan-Ch’uan, a monk of the T’ang dynasty around 800, a disciple of Ma-Tzu.
**
For more information, please see Nam
Nam
Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư:
Nan-Ch’uan-Pu-Yuan 749-835—Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện sanh năm 749, là đệ tử
của Mã Tổ và là thầy của Triệu Châu. Nam Tuyền là một trong những thiền sư lớn
của Trung Quốc vào thời nhà Đường. Nam Tuyền đã nghiên cứu sâu xa triết học
Phật giáo, đặc biệt là triết thuyết của các phái Pháp Tướng, Hoa Nghiêm và Tam
Luận của Trung Quốc. Khi ông đến học với Mã Tổ Đạo Nhất, ông đạt được đại giác
thâm sâu—Zen master Nan-Ch’uan-Pu-Yuan was born in 749 A.D., was a disciple of
Ma Tsu (Mã Tổ) and a teacher of Zhao-Chou. Nan-Ch’uan, one of the great Chinese
Zen masters of the T’ang dynasty. Nan-Ch’uan already had a period of intensive
study of Buddhist philosophy behind him, including the teachings of the
Fa-Hsiang, Hua-Yen, and San-Lun doctrines of Chinese Buddhism. When he came to
Ma-Tsu, under whose guidance he realized profound enlightenment.
· Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Mã Tổ, người ta nói sư đã đạt được Du hý tam
muội (chánh định ngao du tự tại)—At his first meeting with Ma-Tsu, he is said
to have “instantly forgot the net of delusions and delighted in samadhi.”
· Một hôm, sư bưng cháo cho chúng Tăng, Mã Tổ hỏi: “Trong thùng thông là cái gì?”
Sư thưa: “Ông già nên ngậm miệng, nói năng làm gì?”—One day, Nan-Ch’uan was
serving rice gruel to the monks from a bucket, Ma-Tsu asked: “What’s in the
bucket?” Nan-Ch’uan said: “The old monk should close his mouth and say this!”
· Năm 795, sau khi được Mã Tổ truyền pháp, sư đến núi Nam Tuyền cất am, lấy tên
ngọn núi nầy làm tên mình, và ở mãi hơn ba mươi năm chưa từng xuống núi. Niên
hiệu Thái Hòa năm 827. Liêm sứ thành Tuyền Châu là Lục Công Tuyên nghe đạo
phong của sư bèn cùng Giám quân, và nhiều thiền sư khác trong vùng đồng đến
thỉnh sư xuống núi, với tư cách đệ tử thỉnh thầy. Từ đây, sư mở rộng đạo huyền,
số người tham học không khi nào dưới vài trăm—In 795, after gaining
transmission from Ma-Tsu, Nan-Ch’uan built a solitary hut on Mount Nan-Ch’uan
in Chi-Chou, from which his naem is derived, and remained there for more
than thirty years practicing Zen. In 827, a high-ranking official named Lu-Kung
and some Zen monks persuaded and invited Nan-Ch’uan to descend from the
mountain and honoured him by becoming his student. Due to this event,
Nan-Ch’uan’s reputation spread widely and students numbering in hundreds
came to study under him.
· Sư dạy chúng: “Mã Tổ ở Giang Tây nói ‘Tức tâm tức Phật,’ Vương lão sư chẳng nói
thế ấy, mà nói ‘Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật,’ nói thế có
lỗi chăng?” Triệu Châu lễ bái lui ra—Once, Zen master Nan-Ch’uan said: “Ma-Tsu
of Jiang-Xi said: ‘Mind is Buddha.’ But old teacher Wang doesn’t talk that way.
It’s not mind, it’s not Buddha, it’s not a thing. Is there any error in
speaking thus?” Zhao-Chou bowed and went out.
· Nhà Đông nhà Tây tranh nhau hai con mèo, sư trông thấy liền bảo chúng: “Nói
được là cứu con mèo, nói không được thì chém nó.” Chúng Tăng đều ngơ ngác
không nói được. Sư liền chém con mèo. Triệu Châu ở ngoài đi vào. Sư dùng câu
nói trước hỏi. Triệu Châu liền cỡi giày để trên đầu đi ra. Sư bảo: “Giá khi nảy
có ngươi ở đây, đã cứu được con mèo.”—The monks of the eastern and western
halls were arguing about a cat. Nan-Ch’uan picked it up and said to the monks:
“Say the appropriate word and you’ll save the cat. If you don’t say the
appropriate word then it gets cut in two!” The monks were silent. Nan-Ch’uan
cut the cat in two. Later, Zhao-Chou returned from outside the temple and
Nan-Ch’uan told him what had happened. Zhao-Chou then removed his sandals,
placed them on his head and went out. Nan-Ch’uan said: “If you had been there,
the cat would have been saved.”
· Sư thượng đường dạy chúng: “Phật Nhiên Đăng nói: ‘Nếu tâm tướng khởi nghĩ sanh
ra các pháp là hư giả chẳng thật.’ Vì cớ sao? Vì tâm còn không có, lấy gì sanh
ra các pháp, ví như bóng phân biệt hư không, như người lấy tiếng để trong
rương, cũng như thổi lưới mà muốn được đầy hơi. Cho nên lão túc bảo: ‘Chẳng
phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.’ Nói thế là dạy các huynh đệ chỗ đi
vững chắc. Nói: ‘Bồ Tát Thập Địa trụ chánh định Thủ Lăng Nghiêm được pháp tạng
bí mật của chư Phật, tự nhiên được tất cả thiền định giải thoát thần thông diệu
dụng, đến tất cả thế giới khắp hiện sắc thân, hoặc thị hiện thành Phật chuyển
bánh xe Đại Pháp, vào Niết Bàn, khiến vô lượng vào một lỗ chơn lông, nói một
câu trải vô lượng kiếp cũng không hết nghĩa, giáo hóa vô lượng ngàn ức chúng
sanh được vô sanh pháp nhẫn, còn gọi là sở tri ngu vi tế. Sở tri ngu cùng đạo
trái nhau. Rất khó! Rất khó! Trân trọng.”—Zen Master Nan-Ch’uan-Pu-Yuan entered
the hall and addressed the monks, saying: “Dipamkara Buddha said: ‘The arising
in mind of a single thought gives birth to the myriad things.’ ‘Why is it that
phenomenal existence is empty? If there is nothing within mind, then how does
one explain how the myriad things arise? Isn’t it as if shadowy forms
differentiate emptiness? This question is like someone grasping sound and
placing it in a box, or blowing into a net to fill the air. Therefore some old
worthy said: ‘It’s not mind. It’s not Buddha. It’s not a thing.’ Thus we just
teach you brethren to go on a journey. It’s said that Bodhisattvas who have
passed through the ten stages of development and attained the Surangama Samadhi
and the profound Dharma store-house of all Buddhas naturally realize the
pervasive wondrous liberation of Zen samadhi. Throughout all worlds the
form-body is revealed, and the highest awakening is manifested. The great Wheel
of Dharma is turned, nirvana is entered, and limitless space can be placed in
the hole on the point of a feather. ‘Although a single phrase of scripture is
recited for endless eons, its meaning is never exhausted. It’s teaching
transports countless billions of beings to the attainment of the unborn and
enduring Dharma. And that which is called knowledge or ignorance, even in the
very smallest amount, is completely contrary to the Way. So difficult! So
difficult!. Take care!"
· Một trong những công án gây ấn tượng mạnh nhất về Nam Tuyền được ghi trong thí
dụ 40 Bích Nham Lục. Đại sư Lục Hoàn nói với Nam Tuyền trong cuộc trò chuyện.
Lục Hoàn hỏi, “Triệu Pháp sư nói ‘Trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật cùng ta
một thể,’ thật là kỳ quái! Nam Tuyền chỉ một bông hoa trong vườn rồi nói với
Đại Sư, “Thời nhân thấy gốc hoa nầy giống như cơn mộng.”—One of the most
impressive koans with Nan-Ch’uan is example 40 of the Pi-Yen-Lu. Lu-Huan Tai-Fu
said to Nan-Ch’uan in the course of their conversation, “Chao the Dharma
teacher said, ‘Heaven and Earth and I have the same root; the ten thousand
things and I are one body.’ Absolutely wonderful! Nan-Ch’uan, pointing to a
blossom in the garden said, “The man of our times sees this blossoming bush
like someone who is dreaming.”
· Nam Tuyền còn nổi tiếng về những châm ngôn sinh động và những thuật ngữ trái
nghịch được ông dùng để đào tạo đệ tử. Có lúc ông tuyên bố có vẻ đi ngược lại
với thầy Mã Tổ của mình như: “Ý thức không phải là Phật; nhận thức không phải
là đường đi (Vô Môn Quan 34)—Nan-Ch’uan was famous for his vivid expressions
and paradoxical pronouncements in the course of Zen training, come a number of
much-cited Zen sayings. Thus, in apparent contradiction of his master Ma-Tsu,
such as “Consciousness is not Buddha, knowledge is not the way.” (Wu-Men-Kuan
34).
· Một thí dụ nổi tiếng khác trong Vô Môn Quan 27 cũng được biết tới, “Con
đường không phải là tinh thần, không phải là Phật, cũng không phải là sự
vật.”—Another equally well known is example 27 of the Wu-Men-Kuan: “The way is
not mind, it is not Buddha, it is not things.”
· Nam Tuyền có 17 người kế vị Pháp, trong đó Triệu Châu Tùng Thẩm và Trường Sa
Cảnh Sầm là hai đệ tử lớn—Nan-Ch’uan had seventeen dharma successors, among
them Chao-Chou-Tsung-Shen and Ch’ang-Sha-Ching-Tsen were two most prominent
disciples.
· Nam Tuyền được nhắc tới trong các thí dụ 14, 19, 27 và 34 của Vô Môn Quan, cũng
như trong các thí dụ 28, 31, 40, 63, 64 và 69 của Bích Nham Lục—Nan-Ch’uan
appears in examples 14, 19, 27, and 34 of the Wu-Men-Kuan, and in examples 28,
31, 40, 63, 64 and 69 of the Pi-Yen-Lu.
· Những châm ngôn thuyết giảng của Nam Tuyền được thu thập vào Trịnh Châu Nam
Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư Quang Lục—Nan-Ch’uan’s comments and instructions are
recorded in the Ch’ing-Chou-Nan-Ch’uan-Pu-Yuan-Ch’an-Shih Kuang-Lu or Great
Collection of the Words of the Ch'’n Master Nan-Chuan-Pu-Yuan from Ch’ing-Chou.
· Sư thị tịch năm 834—He died in 834.
Nan: Khó khăn—Difficult—Hard.
Nan
Đà: Nanda (skt).
1) Hoan Hỷ:
Happiness—Pleasure—Joy—Felicity.
2) Mục Ngưu Nan Đà là tên của
một vị Tỳ Kheo, nhân hỏi Phật về 11 công việc thả trâu mà biết hết thảy mọi trí
tuệ của Phật: Name of a disciple, Cowherd Nanda, who enlightened after asking
the Buddha about the 11 methods of taking care of a cowherd.
3) Thiện Hoan Hỷ Nan Đà là một
vị A La Hán đệ tử của Phật, khác với ngài A Nan Đà. Ông là một trong những đại
đệ tử của Đức Phật, con vua Tịnh Phạn và bà dì cũng là di mẫu của Phật là bà Ma
Ha Ba Xà Ba Đề. Khi sanh ra ông có một dáng dấp vui vẻ nên được đặt tên là
Thiện Hoan Hỷ. Lúc Đức Phật xuất gia thì ông thế ngôi Thái Tử của Ngài để sau
nầy nối ngôi vua Tịnh Phạn. Ngay lúc ông sắp cưới nàng Sundari xinh đẹp và lên
ngôi vua, thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trở về thành Ca Tỳ La Vệ lần đầu tiên kể
từ ngày Ngài đắc đạo. Nan Đà gặp Phật và xuất gia gia nhập giáo đoàn. Lúc đầu
ông bị vướng víu bởi những nghi nan vọng tưởng, nhưng dưới sự hướng dẫn của
Phật chẳng bao lâu sau ông đắc quả A La Hán. Ngài Nan Đà cũng có dáng dấp giống
y như Phật, chỉ thấp hơn Phật chừng ba tấc; ngài cũng có ba mươi hai tướng hảo
của Phật, dù không toàn hảo. Vì thế khi ngài mặc áo vàng, rất nhiều khi người
ta tưởng lầm ngài là Phật; cho nên Đức Phật bảo ngài nên mặc áo đen cho mọi
người phân biệt được với Phật: Sundarananda, an arhat, different from Ananda.
He was one of the Buddha’s great disciplies and younger half brother, the son
of Shuddhodana and Sakyamuni’s maternal aunt Mahaprajapati. He had a graceful
figure and was known as Sundarananda or Beautiful Nanda. After Sakyamuni
remounced the secular world, Nanda took his place as heir to King Shuddhodana.
Just as he was about to marry the beautiful Sundari, Sakyamuni Buddha returned
to Kapilavastu for the first time following his Awakening, and Nanda was
persuaded to join the Buddhist Order. It is said that he was for some time
tormented by doubts and second thoughts, under Sakyamuni Buddha’s guidance, he
was eventually able to fully dedicate himself to Buddhist practice and
attained the state of arhat. Nanda was only three inches shorter than Buddha
and had all thirty-two outstanding traits of the Buddha, though not as perfect.
Thus, when he wore his golden ropes, many times Buddhists mistakenly assumed he
was Buddha; therefore, the Buddha had him wear a black rope so everyone could
distinguish Buddha and Nanda.
4) Một vị khác nữa cũng tên
Nan Đà, người bán sữa, đã cúng dường sữa lên Đức Phật: Another Nanda, a
milkman, who gave Sakyamuni milk.
5) Một người đàn bà nghèo cũng
tên Nan Đà, dùng hết gia tài một đồng tiền mua dầu đốt đèn cúng Phật: A poor
woman who used the only penny she had (could only offer a cash) to buy
oil for a lamp to Buddha.
6) Tên của một vị Long Vương:
Name of a Naga King.
Nan
Đà Bạt Nan Đà: Tên của hai Long Vương Nan Đà và
Bạt Nan Đà, đã bảo vệ xứ Ma Kiệt Đà—Name of Nanda and Upananda, two naga
brothers, who protected Magadha.
Nan
Đề: Nandi (skt).
1) Người hạnh phúc—The happy
one.
2) Tên của Thần Visnu: Name of
Visnu.
3) Tên của Thần Siva: Name of
Siva.
4) Tên của một vị Tăng người
gốc vùng bắc Ấn: Name of a monk from northern India.
5) Từ dùng để chỉ tháp mộ: A
term for “stupa.”
Nan
Đề Ca: Nandika (skt)—Tên của một trong số
các người em của Đề Bà Đạt Đa—Name of one of Devadatta’s brothers.
Nan
Đề Ca Vật Đa: Nandikavarta or Nadyavarta
(skt)—Xoay vòng kiết tường hay xoay quắn về bên phải, như kiểu tóc xoắn của Đức
Phật—Joyous or auspicious turning or turning to the right, i.e. curling as a
Buddha’s hair.
Nan
Độ: Chúng sanh cương cường rất khó tế
độ—Hard to cross over, to save or to be saved.
**
For more information, please see Nan Hóa,
Nan
Độ Hải: Biển sanh tử luân hồi khó lòng mà
vượt qua được—The ocean hard to cross, the sea of life and death, or mortality.
Nan
Hóa: Khó chuyển hóa—Difficult of
conversion, or transformation.
Nan
Hóa Tam Cơ: Ba loại căn cơ khó giáo hóa tế
độ—Three kinds of capacities which are difficult to transform.
1) Loại hủy báng Đại Thừa:
Those who defame the Mahayana.
2) Loại phạm tội ngũ nghịch:
Those who commit the five ultimate betrayals or five grave sins.
3) Loại Xiển Đề: Those who
abandon Buddha-truth—See Xiển Đề and Nhất Xiển Đề in Vietnamese-English
Section, and Icchantika in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Nan
Hữu: Hy Hữu—Hard to have—Rare.
Nan
Nhập: Khó vào—Difficult to enter or
attain.
Nan
Phục: Khó khắc phục—Difficult to
subdue—Unconquerable.
Nan
Phục Địa: Phật Địa (không có sức mạnh nào có
thể hàng phục được Đức Phật)—Buddha Land.
Nan
Thắng: Khó hàng phục, địa thứ năm trong
mười Bồ Tát Địa, trong giai đoạn nầy mọi dục vọng phiền não đều được điều phục
và thông suốt chân lý của vạn hữu—Hard to overcome, or be overcome,
unconquerable, the fifth of the ten bodhisattva stages when all passion and
illusion is overcome and understanding of all things attained.
**
For more information, please see Thập Địa
Nan
Thắng Địa: See Nan Thắng, and Thập Địa Phật
Thừa in Vietnamese-English Section.
Nan
Tư: Khó có thể suy đoán được, từ dùng
để tán thán Phật Pháp—A term used to praise Buddha-truth, meaning hard to think
of, or hard to realize—Incredible.
Nanh
Vuốt: Clutches.
Nanh
Vuốt Tử Thần: The clutches of death.
Nào: Which.
Nảo: Draft.
Não:
1) Não phiền:
Rage—Irritation—Annoyance—Vexation.
2) Óc: Brain.
Não
Lòng: Heart-rending.
Não
Nề: Agonizing—Thrilling.
Não
Nùng: Sorrowful—Sad.
Não
Nuột: Agonized crying.
Nạp:
1) Bá nạp: Nạp những mảnh vải
rách lại với nhau—To patch rags together.
2) Dâng nạp—To offer—To pay.
3) Nạp Y: Áo của chư Tăng Ni
được đùm vá bằng những mảnh vải rách: A monk’s or nun’s garment, supposed to be
made of rags.
4) Thu nạp: To receive—To
take.
Nạp
Bá: Loại áo trùm vai, được chư Tăng
mặc khi thuyết pháp—A stole worn during teaching.
Nạp
Chúng: Các vị Tăng chúng mặc y áo bá
nạp—Monks who wear patched robes.
Nạp
Cốt: Thu lấy xương cốt đem chôn—To bury
bones, or a skeleton.
Nạp
Cụ: Thọ nhận cụ túc giới nơi thân
mình—To accept all the commandments, or rules.
Nạp
Già Lê: Sanghati (skt)—Còn gọi là Nạp Già Lê,
là loại áo Tăng Già Lê trong bộ Nạp Y, từ 9 đến 25 mảnh vá lại với nhau—The
sanghati or coat of patches varying from 9 to 25 (patched of seven pieces and
upwards).
Nạp
Giới: Thụ giới hay là thụ nhận giới thể
nơi thân mình—To receive or accept the commandments.
Nạp
Mạo: Chiếc nón được làm bằng những vật
liệu vải do đàn na bố thí—A cap made of bits of given material.
Nạp
Mộ: Namah (skt)—See Nam Mô.
Nạp
Phược Ba: Nạp Phược Ba, tên của một thành
phố cổ mà người ta đã lấy tên ngài Huyền Trang để đặt cho nó. Thành phố nầy nằm
gần khu vực Y Tuần, đế đô của nhà Hán, sau nầy được biết như là Nob hay Lop
trong truyện ký của Marco Polo. Bây giờ là thành phố Charkhlik—Na-Fu-Po,
Hsuan-Tsang’s name for a city on the ancient site of I-Hsun, capital of
Shan-Shan in the Former Han dynasty, afterwards known as Nob or Lop in Marco
Polo. It corresponds to the modern Charkhlik.
Nạp
Phược Đề Bà Củ La: Navadevakula (skt)—Theo Eitel
trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Nạp Phược Đề Bà Củ La, một thành phố cổ chỉ
cách Kanyakubdja có vài dậm về phía đông nam, bên bờ đông sông Hằng, bây giờ là
thành phố Nobatgang—According to Eitel in The Dictionary of Chinese-English
Buddhist Terms, Navadevakula, an ancient city, a few miles south-east of
Kanyakubdja, on the eastern bank of the Ganges. The present Nobatgang.
Nạp
Phược Tăng Già Lam: Navasangharama (skt)—Theo Eitel
trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Nạp Phược Tăng Già lam là ngôi tự viện cổ gần
thành Baktra, nổi tiếng với ba thứ xá lợi của Đức Phật, răng Phật, bồn nước
nhỏ, và cây tích trượng của Phật—According to Eitel in The Dictionary of
Chinese-English Buddhist Terms, Navasangharama, an ancient monastery near
Baktra, famous for three relics of Sakyamuni, a tooth, a basin, and a staff.
Nạp
Tử: Còn gọi là Nạp Tăng, tên gọi khác
của Thiền Tăng (Thiền Tăng thường mặc áo nạp y đi chu du đó đây; tuy nhiên, nạp
tăng dùng chung cho tất cả Tỳ Kheo chứ không riêng Thiền Tăng)—A monk,
especially a peripatetic monk.
Nạp
Xà Ư Đồng: Bỏ rắn vào ống, ví với việc thiền
định cột tâm—To put a snake into a tube, i.e. meditation able to confine unruly
thoughts.
Nạp
Y: Phấn Tảo Y—Nhặt lấy những mảnh vải
rách mà người ta vứt đi để kết lại làm áo cho Tăng Ni (bất kể vải rách ấy là
của người hốt phân hay của hạng thủ đà la)—A monk’s robe, garments made of
castaway rags, the patch-robe of a monk.
Này: Here.
Nảy: To bounce.
Nảy
Chồi: To shoot—To sprout
Nảy
Đom Đóm: To see stars.
Nảy
Nở: To increase—To grow.
Nãy: Hồi nãy—Just now.
Nặc: Lời hứa hẹn—A promise—To promise.
Nặc
Cù Đà: Nyagrodha (skt)—Cây vả (sung) Ấn
Độ—The Indian fig-tree.
Nặc
Cự La: Nakula (skt)—Một trong 16 vị La
Hán—One of the sixteen arhats.
Nặc
Già Nặc: Nagna (skt).
1) Trần truồng—Naked.
2) Đạo sĩ lõa thể: A naked
mendicant.
3) Tên của Thần Siva: A name
of Siva.
4) Kim Cang vương: A
Vajra-king.
Nặc
Ngôn: See Nặc.
Năm:
1) Five.
2) Year.
Năm
Đại Suy Tướng Của Chư Thiên Lúc Sắp Mạng Chung: Five major deterioration characteristics of heavenly beings
who are nearing death—See Ngũ Suy.
Năm
Đại Tội: Five grave offenses—Five deadly
sins (killing one’s father or one’s mother or an arahant, causing dissension
within the Sangha, causing the Tathagata to bleed)—See Ngũ Nghịch.
Năm
Đạo Sĩ: The five learned monks—See Năm Đệ
Tử Đầu Tiên Của Đức Phật.
Năm
Đặc Tính Của Công Án: Thiền chẳng phải là tâm lý học hay
triết học, mà là một kinh nghiệm mang đầy ý nghĩa sâu xa và chứa đầy những nội
dung sống động và siêu thoát. Trong Thiền, kinh nghiệm là chung quyết, là quyền
năng của chính nó. Nó là chân lý cứu cánh, không do từ tri kiến thế gian mà ra;
nó thỏa mãn mọi khát vọng của con người. Mỗi người phải thực hiện ngay trong
chính mình, chứ không dựa vào những quyền năng từ bên ngoài. Ngay cả giáo lý
của Phật Thích Ca, hay thuyết của chư Tổ, dù có thâm sâu và chân chính đi nữa,
chẳng dính gì đến ai cả nếu như người ta không tiêu hóa chúng thành sinh mệnh
của chính mình; ấy là nói rằng chúng phải xuất phát ngay từ những kinh nghiệm
riêng tư của mình. Theo Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền Luận, Tập II, sự thể
hiện kinh nghiệm vừa kể trên gọi là ‘ngộ.’ Tất cả mọi công án là những phát
ngôn của ‘ngộ’ không qua trung gian trí thức. Có năm đặc tính của việc thực tập
công án—Zen is neither psychology nor philosophy, but it is an experience
charged with deep meaning and laden with living, exalting contents. The
experience is final and its own authority. It is the ultimate truth, not born
of relative knowledge, that gives full satisfaction to all human wants. It must
be realized directly within oneself: no outside authorities are to be relied
upon. Even the Buddha’s teaching and the master’s discourses, however deep and
true they are, do not belong to one so long as they have not been assimilated
into his being, which means that they are to be made to grow directly out of
one’s own living experience. According to Zen Master D.T. Suzuki in the
Essays of Zen Buddhism, Book II, the above mentioned realization of experience
is called ‘satori.’ All koans are the utterances od satori with no intellectual
meditations. There are five characteristics concerning the koan exercise.
1) Công án được đề ra cho
người học là để dẫn tới tâm trạng căng thẳng cực độ: The koan is given to the
student first of all to bring about a highly wrought-up state of consciousness.
2) Khả năng biện biệt được gác
lại, tức là đình chỉ hoạt động phù phiếm hơn của tâm trí hầu cho những phần
chính yếu và sâu xa hơn, thường thường vùi sâu, có thể được khai phát và thành
tựu những bổn phận của chúng: The reasoning faculty is kept in abeyance, that
is, the more superficial activity of the mind is set at rest so that its more
central and profounder parts which are found generally deeply buried can be
brought out and exercised to perform their native functions.
3) Những trung tâm hành xử,
vốn dĩ là những căn cơ của một cá tính, được vận dụng đến mức tối đa để giải
quyết công án. Đây là điều mà Thiền sư nói đến khi ông nhắc đến tin lớn và nghi
lớn như hai thế lực cốt yếu nhất cần có để quy định phẩm tính của một môn đệ
Thiền có khả năng. Còn như việc tất cả người xưa quyết ý dâng hết thân tâm của
mình cho sự thành thục của Thiền, thì điều đó cho thấy cái vĩ đại của lòng tin
tưởng của họ nơi chân lý tối hậu, và cũng chứng tỏ sức mạnh của tinh thần tham
sách của họ, gọi là ‘khổ cần;’ cái tinh thần ấy không từng xao lãng hoạt động
cho đến lúc đạt được mục đích, nghĩa là cho đến lúc hiện chứng được Phật tính:
The effective and conative centres which are really the foundations of one’s
personal character are chargd to do their utmost solution of the koan. This is
what the Zen master means when he refers to '‘reat faith'’and '‘reat
spirit of inquiry'’as the two most essential powers needed in the qualification
of a successful Zen devotee. The fact that all great masters have been willing
to give themselves up, body and soul, to the mastery of Zen, proves the
greatness of their faith in ultimate reality, and also the strength of their
spirit of inquiry known as ‘seeking and contriving,’ which never suspends its
activity until it attains its end, that is, until it has come into the very
presence of Buddhata itself.
4) Khi sự viên mãn của tinh
thần tới tột độ như thế ở đây nổi bật là một trạng thái trung tính của tâm thức
mà các nhà tâm lý học khảo cứu về ý thức tôn giáo gọi nhầm là ‘xuất thần.’
Trạng thái tâm thức thhiền nầy khác hẳn xuất thần vì rằng xuất thần là đình chỉ
những thế lực tâm lý trong khi tinh thần thì đắm chìm torng việc chiêm ngưỡng
một cách thụ động; trái lại, trạng thái tâm thức của thiền là một trạng thái đã
được thúc đẩy bởi sự thực tập vô cùng tích cực của tất cả những khả năng cốt
yếu tạo thành một nhân cách. Ở đây chúng được tập trung hẳn vào một sở
tri độc nhất, gọi là trạng thái ‘nhất tâm.’ Nó cũng được coi như là một trạng
thái đại nghi. Đây là lúc tâm thức thường nghiệm với tất cả nội dung vừa hữu
thức vừa vô thức, đang vượt qua ranh giới của nó, và bằng trí năng, bắt liên
lạc với cái bất khả tri, siêu việt, vô thức. Trong trạng thái xuất thần, không
có sự xé rào vượt qua như thế, bởi vì nó là một thứ cứu cánh tĩnh, không cho
phép tiến xa thêm nữa. Trong trạng thái xuất thần, chẳng có tương đương nào với
hành vi ‘nhảy xuống vực thẳm’ hay ‘buông tay’: When the mental integration thus
reaches its highest mark there obtains a neutral state of consciousness which
is erroneously designated as ‘ecstasy’ by the psychological student of the
religious consciousness. This Zen state of consciousness essentially differs
from ecstasy in this: Ecstasy is the suspension of the mental powers while the
mind is passively engaged in contemplation; the Zen state of consciousness on
the other hand, is the one that has been brought about by the most intensely
active exercise of all the fundamental faculties constituting one's
’ersonality. They are here positively concentrated on a single object of
thought, which is called a state of oneness (ekagra). It is also known as a
state of fixation. This is the point where the empirical consciousness
with all its contents both conscious and unconscious is about to tip over its
border-line, and get noetically related to the Unknown, the Beyond, the
Unconscious. In ecstasy there is no such tipping or transition, for it is a
static finality not permitting further unfoldment. There is nothing in ecstasy
that corresponds to ‘throwing oneself down the precipice,’ or ‘letting go the
hold.’
5) Sau hết, cái thoạt tiên có
vẻ như đình chỉ tạm thời tất cả mọi khả năng của tâm thần nay bỗng được chất
đầy những tinh lực mới mẻ chưa từng mơ tưởng đến. Sự biến đổi đột nhiên nầy
diễn ra thường thường là do tác động của một âm thanh, một ảnh tượng hay một
hình thức của hoạt động tính điều động. Một cái nhìn thấu suốt được phát sinh
từ những vùng sâu thẳm ngay giữa lòng tâm thức, khi một nguồn suối của một đời
sống mới đã tuôn trào, và cùng lúc, công án vén mở những bí mật của nó:
Finally, what at first appears to be a temporary suspense of all psychic
faculties suddenly becomes charged with nre energies hitherto undreamed of.
This abrupt transformation has taken place quite frequently by the intrusion of
a sound, or a vision, or a form of motor activity. A penetrating insight is
born of the inner depths of consciousness, as the source of a new life has been
tapped, and with it the koan yields up its secrets.
Năm
Đẳng Cấp Chúng Sanh: Theo Kinh Lăng Già, về quan điểm
tôn giáo, có năm đẳng cấp chúng sanh—According to The Lankavatara Sutra, from
the religious point of view, there are five orders of beings.
1) Những chúng sanh thuộc hàng
Thanh Văn—Those who belong to the Sravaka order: Các chúng sanh thuộc hàng
Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ,
nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả; các ngài đã giải thoát đuợc
sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình.
Họ đạt được sự thể chứng Niết Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố
rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống phạm hạnh, tất cả những gì
cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt
được tuệ kiến về sự phi hiện hữu của “ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn
chưa thấy được sự phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học
nào tin vào một đấng sáng tạo hay tin vào “linh hồn” cũng có thể được xếp vào
đẳng cấp nầy—Those belong to the Sravaka order who are delighted at listening
to such doctrines as concern the Skandhas, Dhatus, or Ayatanas, but take no
special interest in the theory of causation, who have cut themselves loose from
the bondage of evil passions but have not yet destroyed their habit-energy.
They have attained the realization of Nirvana, abiding in which state they
would declare that they have put an end to existence, their life of morality is
now attained, all that is to be done is done, they would not be reborn. These
have gained an insight into the non-existence of an ego-substance in a person
but not yet into that in objects. These philosophical leaders who believe in a
creator or in the ego-soul may also be classified under this order.
2) Những chúng sanh thuộc hàng
Bích Chi Phật—Those of the Partyekabuddha order: Đẳng cấp Bích Chi Phật bao gồm
những vị hết sức lưu tâm đến những gì dẫn họ đến sự thể chứng quả vị Bích Chi
Phật. Họ lui vào sống độc cư và không dính dáng gì đến các sự việc trên dời
nầy. Khi họ nghe nói rằng Đức Phật hiện thân ra thành nhiều hình tướng khác
nhau, khi thì nhiều thân, khi thì một thân, thi triển thần thông thì họ nghĩ
rằng đấy là dành cho đẳng cấp của chính họ nên họ vô cùng ưa thích những thứ ấy
mà đi theo và chấp nhận chúng—The Pratyekabuddha order comprises those who are
intensely interested in anything that leads them to the realization of
Pratyekabuddhahood. They would retire into solitude and have no attachment to
worldly things. When they hear that the Buddha manifests himself in a variety
of forms, sometimes in group, sometimes singly, exhibiting miraculous powers,
they think these are meant for their own order, and immensely delighted in them
they would follow and accept them.
3) Những chúng sanh thuộc hàng
Như Lai—Those of the Tathagata order: Chư vị có thể nghe thuyết giảng về những
chủ đề như những biểu hiện của tâm hay cảnh giới siêu việt của A Lại Da mà từ
đấy khởi sinh thế giới của những đặc thù nầy, nhưng chư vị lại có thể không cảm
thấy chút nào ngạc nhiên hay sợ hãi. Những chúng sanh trong đẳng cấp Như Lai có
thể được chia làm ba loại—Those who may listen to discourse on such subjects as
manifestations of mind, or transcendental realm of the Alaya, from which starts
this world of particulars, and yet they may not at all feel astonished or
frightened. The Tathagata order may be again divided into three.
a) Những vị đã đạt được tuệ
kiến thấu suốt chân lý rằng không có một thực thể đặc thù nào đằng sau những gì
mà người ta nhận thức: Those who gain an insight into the truth that there is
no individual reality behind one perceives.
b) Những vị biết rằng có một
nhận thức tức thời về chân lý trong tâm thức sâu kín nhất của con người: Those
who know that there is an immediate perception of the truth in one’s inmost
consciousness.
c) Những vị nhận thức rằng
ngoài thế giới này còn có vô số Phật độ rộng lớn bao la: Those who perceive
that besides this world there are a great number of Buddha-lands wide and
far-extending.
4) Những chúng sanh không
thuộc đẳng cấp rõ ràng nào—Those who belong to no definite order: Những chúng
sanh có bản chất bất định, vì những chúng sanh nào thuộc đẳng cấp nầy có
thể nhập vào một trong ba đẳng cấp vừa kể trên tùy theo hoàn cảnh của mình—Those
who are of the indeterminate nature. For those who belong to it may take to
either one of the above three orders according to their opportunities.
5) Những chúng sanh vượt ra
ngoài các đẳng cấp trên—Those who are altogether outside these order: Hãy còn
một đẳng cấp khác nữa của những chúng sanh không thể được bao gồm trong bất cứ
đẳng cấp nào trong bốn đẳng cấp vừa kể trên; vì họ không hề mong muốn cái gì để
giải thoát, và vì không có mong muốn ấy nên không có giáo lý nào có thể nhập
vào lòng họ được. Tuy nhiên, có hai nhóm phụ thuộc nhóm nầy và cả hai nhóm nầy
đều được gọi là Nhất Xiển Đề (see Nhất Xiển Đề and Vô Chủng Xiển Đề)—There is
still another class of beings which cannot be comprised under any of the four
already mentiond; for they have no desire whatever for emancipation, and
without this desire no religious teaching can enter into any heart. They belong
to the Icchantika order. Two sub-classes, however, may be distinguished here.
a) Những người đã từ bỏ tất cả
các thiện căn Those who have forsaken all roots of merit: Những người phỉ
báng các học thuyết dành cho chư Bồ Tát mà bảo rằng các học thuyết ấy không phù
hợp với kinh luật cũng như học thuyết giải thoát. Vì sự phỉ báng nầy, họ
tự cắt đứt mọi thiện căn và không thể nào vào được Niết Bàn—Those who vilify
the doctrines meant for the Bodhisattvas, saying that they are not in
accordance with the sacred texts, rules of morality, and the doctrine of
emancipation. Because of this vilification they forsake all the roots of merit
and do not enter into Nirvana.
b) Những người lúc đã nguyện
độ tận chúng sanh ngay từ lúc mới khởi đầu cuộc tu hành của họ—Those who have
vowed at the beginning to save all beings: Họ gồm những vị Bồ Tát mong muốn đưa
tất cả chúng sanh đến Niết Bàn mà tự mình thì từ chối cái hạnh phúc ấy. Từ lúc
khởi sự đạo nghiệp của mình, các ngài đã nguyện rằng cho đến khi mọi đồng chúng
sanh của họ được đưa đến an hưởng hạnh phúc vĩnh cửu của Niết Bàn, họ sẽ không
rời cuộc đời khổ đau nầy, mà phải hành động một cách kiên trì với mọi phương
tiện có thể được để hoàn tất sứ mạng của mình. Nhưng vì vũ trụ còn tiếp tục
hiện hữu thì sẽ không có sự chấm dứt cuộc sống, cho nên các vị nầy có thể không
bao giờ có cơ hội để hoàn tất công việc mà tịnh trú trong Niết Bàn tĩnh lặng. Cơ
may cũng đến cho cả những người phỉ báng Bồ tát thừa khi nhờ lực trí gia hộ của
chư Phật, mà cuối cùng họ theo Đại thừa và do tích tập thiện nghiệp mà nhập
Niết Bàn, vì chư Phật luôn luôn hành động vì lợi ích của tất cả mọi chúng sanh
dù chúng sanh có thế nào đi nữa. Nhưng đối với các vị Bồ Tát, không bao giờ
nhập Niết Bàn vì các ngài có tuệ giác sâu xa, nhìn suốt bản chất của các sự vật
là những thứ dù đang như thế, vốn vẫn ở ngay trong Niết Bàn. Như vậy
chúng ta biết đâu là vị trí của chư vị Bồ tát trong công việc vô tận của các
ngài là dẫn dắt hết thảy chúng sanh đến trú xứ tối hậu—They are Bodhisattvas
who wish to lead all beings to Nirvana. Deny themselves of this bliss. They
vowed in the beginning of their religious career that until everyone of their
fellow-beings is led to enjoy the eternal happiness of Nirvana, they themselves
would not leave this world of pain and suffering, but must strenuously and with
every possible means work toward the completion of their mission. But as there
will be no termination of life as long as the universe continues to exist,
Bodhisattvas may have no chance for ever to rest themselves quietly with their
work finished in the serenity of Nirvana. The time will come even to those who
speak evil of the Bodhisattvayana when through the power of the Buddhas they
finally embrace the Mahayana and by amassing stock of merit enter into Nirvana,
for the Buddhas are always working for the benefit of all beings no matter what
they are. But as for Bodhisattvas they never enter into Nirvana as they have a
deep insight into the nature of things which are already in Nirvana even as
they are. Thus, we know where Bodhisattvas stand in their never-ending task of
leading all beings into the final abode of rest.
Năm
Đề Nghị Của Đức Phật Ích Lợi Thực Tiễn Cho Hành Giả: Five practical suggestions given by the Buddha will be
beneficial to all.
1) Cố tạo những tư tưởng tốt ,
trái nghịch với loại tư tưởng trở ngại, như khi bị lòng sân hận làm trở ngại
thì nên tạo tâm từ: Harbouring a good thought opposite to the encroaching one,
e.g., loving-kindness in the case of hatred.
2) Suy niệm về những hậu quả
xấu có thể xảy ra, như nghĩ rằng sân hận có thể đưa đến tội lỗi, sát nhân, vân
vân…: Reflecting upon possible evil consequences, e.g., anger sometimes results
in murder.
3) Không để ý, cố quên lãng
những tư tưởng xấu xa ấy: Simple neglect or becoming wholly inattentive to
them.
4) Đi ngược dòng tư tưởng,
phăng lần lên, tìm hiểu do đâu tư tưởng ô nhiễm ấy phát sanh, và như vậy, trong
tiến trình ngược chiều ấy, hành giả quên dần điều xấu: Tracing the cause which
led to the arising of the unwholesome thoughts and thus forgetting them in the
retrospective process.
5) Gián tiếp vận dụng năng lực
vật chất: Direct physical force.
Năm
Đệ Tử Đầu Tiên Của Đức Phật: Theo Đức
Phật và Phật Pháp của Hòa Thượng Narada, năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật là
những vị Kiều Trần Như, Bạt Đề (Bhaddiya), Thập Lực Ca Diếp (Dasabala-Kasyapa),
Ma Nam Câu Lợi (Mahanama), và Át Bệ (Assaji). Kiều Trần Như là vị trẻ tuổi nhất
trong tám vị Bà La Môn được vua Tịnh Phạn thỉnh đến dự lễ quán đảnh Thái Tử sơ
sanh. Bốn người kia là con của bốn trong bảy vị Bà La Môn lớn tuổi kia. Tất cả
năm anh em đều cùng nhau vào rừng tu học. Ngay khi hay tin Thái Tử Tất Đạt Đa
rời bỏ cung điện, cả năm anh em cùng đi tìm đạo sĩ Cồ Đàm để phục vụ Ngài.
Nhưng đến khi Thái Tử chấm dứt cuộc tu khổ hạnh ép xác, các vị ấy thất vọng, bỏ
Ngài đi Isipatana. Chẳng bao lâu sau khi các vị nầy rời bỏ Thái tử thì Ngài đắc
quả thành Phật. Ngay sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài cất bước đi về hướng vườn
Lộc Uyển của xứ Ba La Nại. Thấy Phật từ xa đến, năm vị đạo sĩ (anh em Kiều Trần
Như) bàn tính quyết định không đảnh lễ Ngài với lòng tôn kính như xưa. Các vị
ấy hiểu lầm thái độ của Ngài trong cuộc chiến đấu để thành đạo quả, vì Ngài đã
từ bỏ lối tu khổ hạnh cứng nhắc và chứng tỏ là tuyệt đối vô ích đó. Năm vị đạo
sĩ nầy nói chuyện với nhau: “Nầy các đạo hữu, đạo sĩ Cồ Đàm đang đi đến ta. Đạo
sĩ ấy xa hoa, không bền chí cố gắng và đã trở lại với đời sống lợi dưỡng. Đạo
sĩ ấy không đáng cho ta niềm nở tiếp đón và cung kính phục vụ. Ta không nên
rước y bát cho đạo sĩ ấy. Nhưng dầu sao chúng ta cũng nên dọn sẵn một chỗ ngồi.
Nếu đạo sĩ Cồ Đàm muốn ngồi với chúng ta thì cứ ngồi.” Tuy nhiên, trong khi Đức
Phật bước gần đến, với cung cách oai nghi, Ngài đã cảm hóa được năm vị đạo sĩ,
và không ai bảo ai, năm người cùng đến đảnh lễ Ngài, sau đó người thì rước y
bát, người dọn chỗ ngồi, người đi lấy nước cho Ngài rửa chân, vân vân. Mặc dầu
vậy, họ vẫn gọi Ngài bằng danh hiệu “đạo hữu,” một hình thức xưng hô của những
người ngang nhau, hoặc để người trên xưng hô với kẻ dưới. Khi đó Đức Phật mới
nói: “Nầy các đạo sĩ, không nên gọi Như Lai bằng tên hay bằng danh từ “đạo
hữu.” Như Lai là Đức Thế Tôn, là Đấng Toàn Giác. Nghe đây, các đạo sĩ, Như Lai
thành đạt đạo quả Vô Sanh Bất Diệt và sẽ giảng dạy giáo pháp. Nếu hành đúng
theo lời giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ, do nhờ trí tuệ
trực giác, và trong kiếp sống nầy, các thầy sẽ hưởng một đời sống cùng tột
thiêng liêng trong sạch. Cũng vì muốn đi tìm đời sống cao thượng ấy nhiều người
con trong các gia tộc quý phái đã rời bỏ gia đình, sự nghiệp, để trở thành
người không nhà không cửa.” Năm vị đạo sĩ bèn trả lời: “Nầy đạo sĩ Cồ
Đàm, trước kia, với bao nhiêu cố gắng để nghiêm trì kỷ luật mà đạo hữu
không thành đạt trí tuệ siêu phàm, cũng không chứng ngộ được gì xứng đáng với
chư Phật. Bây giờ đạo hữu sống xa hoa và từ bỏ mọi cố gắng, đạo hữu đã trở lại
đời sống lợi dưỡng thì làm sao mà có thể thành đạt được trí huệ siêu phàm và
chứng ngộ đạo quả ngang hàng với chư Phật?” Sau đó Đức Phật giải thích thêm:
“Này các đạo sĩ, Như Lai không xa hoa, không hề ngừng cố gắng, và không trở về
đời sống lợi dưỡng. Như Lai là Đức Thế Tôn, là Đấng Toàn Giác. Nghe nầy các đạo
sĩ! Như Lai đã thành đạt đạo quả Vô Sanh Bất Diệt và sẽ giảng dạy Giáo Pháp.
Nếu hành đúng theo lời giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ,
do nhờ trí tuệ trực giác, và trong kiếp sống nầy các thầy sẽ hưởng một đời sống
cùng tột thiêng liêng trong sạch. Cũng vì muốn đi tìm đời sống cao thượng ấy mà
nhiều người con trong các gia tộc quý phái sẽ rời bỏ gia đình sự nghiệp, để trở
thành người không nhà cửa.” Lần thứ nhì năm đạo sĩ vẫn giữ nguyên thành kiến và
tỏ ý thất vọng. Đến lần thứ ba, sau khi được Đức Phật lập lại lời xác nhận, năm
đạo sĩ vẫn giữ vững lập trường, tỏ ý hoài nghi. Đức Phật hỏi lại: “Nầy các đạo
sĩ! Các thầy có biết một lần nào trước đây Như Lai đã nói với các thầy như thế
không?” Quả thật không. Đức Phật lập lại lần thứ ba rằng Ngài đã là Đấng Toàn
Giác và chính năm đạo sĩ cũng có thể chứng ngộ nếu chịu hành động đúng lời giáo
huấn. Đó là những lời nói chân thật do chính Đức Phật thốt ra. Năm vị đạo sĩ là
bậc thiện trí, mặc dầu đã có thành kiến không tốt, nhưng khi nghe như vậy đã
nhận định chắc chắn rằng Đức Phật đã thành tựu đạo quả vô thượng và có đầy đủ
khả năng để hướng dẫn mình. Năm thầy bấy giờ mới tin lời Đức Phật và ngồi xuống
yên lặng nghe Giáo Pháp Cao Quý. Trong khi Đức Phật thuyết pháp cho ba vị nghe
thì hai vị kia đi khất thực, và sáu vị cùng độ với những thực vật mà hai vị đem
về. Qua hôm sau hai vị nầy nghe pháp thì ba vị kia đi khất thực. Sau khi được
Đức Phật giảng dạy, tất cả năm vị đều nhận định thực tướng của đời sống. Vốn là
chúng sanh, còn phải chịu sanh, lão, bệnh, tử, và ái dục, các vị tìm thoát ra
vòng đau khổ ấy để đến chỗ không sanh, không lão, không, bệnh, không tử, không
phiền não, không ái dục, cảnh vắng lặng tột bực vô song, niết bàn, cảnh chân
toàn tuyệt đối, nơi không còn sanh lão bệnh tử, phiền não và ái dục. Trí huệ
phát sanh, năm vị thấu hiểu rằng sự giải thoát của các vị rất là vững chắc,
không thể lay chuyển, và đây là lần sanh cuối cùng. Các vị không bao giờ còn
tái sanh nữa. Đức Phật đã giảng Kinh Chuyển Pháp Luân, đề cập đến Tứ Diệu Đế,
là bài pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng cho năm vị. Khi nghe xong, Kiều Trần
Như, niên trưởng trong năm vị, đắc quả Tu Đà Hườn, tầng đầu tiên trong bốn tầng
Thánh. Về sau bốn vị kia cũng đạt được quả vị nầy. Đến khi nghe Đức Phật giảng
kinh Anattalakkhana Sutta, đề cập đến pháp vô ngã thì tất cả năm vị đều đắc quả
A La Hán—According to The Buddha and His Teaching, written by Most Venerable
Narada, the first five disciples of the Buddha were Kondanna, Bhaddiya,
Dasabala-Kasyapa, Mahanama, and Assaji. They were of the Brahmin clan. Kondanna
was the youngest and cleverest of the eight brahmins who were summoned by King
Suddhodana to name the infant prince. The other four were the sons of those
older brahmins. All these five retired to the forest as ascetics in
anticipation of the Bodhisattva while he was endeavouring to attain Buddhahood.
When he gave up his useless penances and severe austerities and began to
nourish the body sparingly to regain his lost strength, these favourite
followers, disappointed at his change of method, deserted him and went to
Isipatana. Soon after their departure the Bodhisattva attained Buddhahood.
Right after his enlightenment, the Buddha started out to the Deer Park in
Benares. The five ascetics saw him coming from afar decided not to pay him due
respect as they miscontrued his discontinuance of rigid ascetic practices which
proved absolutely futile during his struggle for enlightenment. They convinced
one another as follow: “Friends, this ascetic Gotama is coming. He is
luxurious. He has given up striving and has turned into a life of abundance. He
should not be greeted and waited upon. His bowl and robe should not be taken.
Nevertheless a seat should be prepared in case he wished to sit down with us.”
However, when the Buddha continued to draw near, his august personality was
such solemnly that they were compelled to receive him with due honour. One came
forward and took his bowl and robe, another prepared a seat, and yet another
prepared water for his washing of feet. Nevertheless, they addressed him by
name and called him friend (avuso), a form of address applied generally to
juniors and equals. At this time, the Buddha addressed them thus: “Do not,
Bhikkhus, addressed the Tathagata by name, or by title “friend.” An Exalted
One, O Bhikkhus, is the Tathagata. A fully enlightened one is he. Give ear, O
Bhikkhus! Deathlessness has been attained. I shall instruct and teach the
Dharma. If you act according to my instructions, you will before long realize,
by your own intuitive wisdom, and live, attaining in this life itself, that
supreme consummation of the holy life, for the sake of which sons of noble
families rightly leave the household for homelessness.” Thereupon the five
ascetics replied: “By that demeaner of yours, avuso Gotama, by that discipline,
by those painful austerities, you did not attain to any superhuman specific
knowledge and insight worthy of an Ariya. How will you, when you have become
luxurious, have given up striving, and have turned into a life of abundance,
gain nay such superhuman specific knowledge and insight worthy of an Ariya?” In
further explanation, the Buddha said: “The Tathagata, O Bhikkhus, is not not
luxurious, has not given up striving, and has not turned into a life of
abundance. An exalted one is the Tathagata. A fully enlightened one is he. Give
ear, O Bhikkhus! Deathlessness has been attained. I shall instruct and teach
the Dharma. If you act according to my instructions, you will before long
realize, by your own intuitive wisdom, and live, attaining in this life itself,
that supreme consummation of the holy life, for the sake of which sons of noble
families rightly leave the household for homelessness." For the second
time the prejudiced ascetics expressed their disappointment in the same manner.
For the second time the Buddha reassured theom of his attainment to
enlightenment. When the adamant ascetics refusing to believe him, expressed
their view for the third time, the Buddha questioned them thus: “Do you know, O
Bhikkhus, of an occasion when I ever spoke to you thus before?” The five
ascetics replied: “Nay, indeed Lord!” The Buddha then repeated for the third
time that he had gained enlightenment and that they also could realize the
truth if they would act according to his instructions. It was indeeda frank
utterance, issuing from the sacred lips of the Buddha. The cultured ascetics,
though adamant in their views, were then fully convinced of the great
achievements of the Buddha and of his competence to act as their moral guide
and teacher. They believed his words and sat in silence to listen to his noble
teaching. Three of the ascetics the Buddha instructed, while three went
out for alms. With what the two ascetics brought from their almsround the six
maintained themselves. The next day, two of the ascetics he instructed, while
the other three ascetics went out for alms. With what the three brought back,
six sustained themselves. And those five ascetics thus admonished and
instructed by the Buddha, being themselves subject to birth, decay, death,
sorrow, and passions, realized the real nature of life and, seeking out the
birthless, decayless, diseaseless, deathless, sorrowless, passionless,
incomparable supreme peace, Nirvana, attained the incomparable security,
Nirvana, which is free from birth, decay, disease, death, sorrow, and passions.
The knowledge arose in them that their deliverance was unshakable, that it was
their last birth and that there would be no more of this state again. The
Dhammacakkappavattana Sutta, which deals with the Four Noble Truths, was the
first discourses delivered by the Buddha to them. heAring it, Kondanna, the
eldest, attained the first stage of sainthood. After receiving further
instructions, the other four attained Sotapatti later. On hearing the Anattalakkhana
Sutta, which deals with soullessness, all the five attained Arahantship, the
final stage of sainthood.
Năm
Điểm Phải Biết Tự Xét Lấy Mình Của Người Tu Tịnh Độ: Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam
Tổ, để tránh bị ma chướng trên đường tu, có năm điểm mà người tu Tịnh Độ phải
tự xét lấy mình—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Thirteen
Patriarchs of Pureland Buddhism, to prevent demonic obstructions on the
cultivating path, there are five points any Pureland practitioner should know
how to reflect on one's self.
1) Muốn sanh về Tây Phương Cực
Lạc, không phải chỉ dùng chút ít phước lành hay đôi chút công hạnh lơ là mà
được: If wishing to gain rebirth in the Western Pureland of Ultimate Bliss, it
takes much more than a few good meritorious and virtuous deeds.
2) Muốn thoát được sự thống
khổ luân hồi trong vạn kiếp, không phải chỉ dùng tâm dần dà, chờ hẹn hay biếng
trễ mà được: If wishing to find liberation from the eternal suffering in tens
and thousands of reincarnations of the cycle of rebirths, it cannot be
accomplished by procastinating and being lazy.
3) Phải nghĩ rằng cơn vô
thường mau chóng, mới sáng sớm đó đã lại đến xế chiều. Đâu nên không siêng
năng, lo dự bị trước hay sao?: It is necessary to think that the impermanence
of life is sudden, time truly flies, the morning had just come but night has
arrived. Why not be diligent and prepare in anticipation.
4) Nên nhớ rằng sức chí nguyện
không thắng nổi sức tình ái được: Remember the “wheel power” is unable to
overcome the “powerful forces of love, lust and desires.”
5) Lại cũng nên nhớ rằng tâm
niệm Phật không hơn nổi tâm dục trần được: Also remember that the Buddha
Recitation Mind is not stronger than the the mind of worldly desires.
Năm
Điều Kiện Cần Thiết Để Tạo Nên Nghiệp Sát Sanh: Five necessary conditions to complete the evil of
killing—See Sát Sinh (B).
Năm
Điều Kiện Cần Thiết Để Thành Công Của Người Tu Thiền: Five conditions to be successful for a Pure Land
practitioner—Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, nếu luận
xét trên đường hành đạo, khi chưa được sanh về Cực Lạc, thì tu Tịnh Độ cũng có
thể bị ma chướng. Song phần nhiều là do hành giả không hiểu giáo lý, chẳng khéo
trị tâm, để nội ma phát khởi khiến chiêu cảm ngoại ma đến phá hoại. Nếu giữ
được tâm bình tĩnh, thì với oai lực công đức của câu hồng danh, ngoại ma không
làm chi được, và phiền não cũng lần lần bị tiêu trừ. Vì thế người tu Tịnh Độ,
ma cảnh nếu có cũng là phần ít. Trái lại người tu Thiền, ma cảnh hiện nhiều,
bởi chỉ nương vào tự lực. Bậc Thiền sĩ phải đủ năm điều kiện sau đây. Nếu vị tu
thiền nào không hội đủ năm điều kiện trên rất dễ bị ma chướng làm tổn hại—While
treading the Way but not yet reborn in the Pure Land, the practitioner of Buddha
Recitation may also encounter demonic obstacles. However, in most cases, this
is because he does not understand the Dharma and is not skillful at reining in
his mind, letting internal demons or afflictions spring up, which, in turn,
attract external demons. If he can keep his mind empty and still and recite the
Buddha’s name, external demons will be powerless and afflictions will gradually
disappear. Thus, for the Pure Land practitioner, even if demonic obstacles do
appear, they are few in number. Advanced Zen practitioners, on the other hand,
face many demonic occurrences because they rely only on their own strength and
self-power. A Zen follower should fulfill the following five conditions to be
successful. If a Zen practitioner does not meet these five conditions, he is
very easily subject to get harm from demons:
1) Giới hạnh tinh nghiêm: He
should keep the precepts strictly.
2) Căn tánh lẹ làng sáng suốt:
His nature and roots should be quick and enlightened.
3) Phải hiểu rõ đạo lý, khéo
phân biệt tướng chánh tà, chân, vọng: He should have a clear understanding of
the Dharma, skillfully distinguishing the correct from the deviant, the true
from the false.
4) Ý chí mạnh mẽ vững bền: He
should be firm and stable in his determination.
5) Phải nương nơi bậc thiện
tri thức thông kinh điển, , đã có kinh nghiệm tu thiền nhiều năm để nhờ sự
hướng dẫn: He should be guided by a good advisor, who has a thorough
understanding of the sutras and many years experience in meditation.
Năm
Điều Lợi Ích Của Người Giữ Đủ Giới:
Theo Kinh Đại Bát Niết Bàn và Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có năm điều
lợi ích cho người đủ giới—According to the Mahaparinibbana Sutta and the
Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are five advantages
to one of good morality and of success in morality:
1) Người giữ giới nhờ không
phóng túng nên được tài sản sung túc: Through careful attention to his affairs,
he gains much wealth.
2) Người giữ giới tiếng tốt
đồn khắp: He gets a good reputation for morality and good conduct.
3) Người giữ giới, khi vào hội
chúng nào, Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Sa Môn hay cư sĩ, vị ấy vào một cách đường
hoàng, không dao động: Whatever assembly he approaches, whether of Khattiyas,
Brahmins, Ascetics, or Householders, he does so with confidence and assurance.
4) Người giữ giới khi mệnh
chung sẽ chết một cách không sợ sệt, không dao động: At the end of his life, he
dies unconfused.
5) Người giữ giới, sau khi
thân hoại mệnh chung được sanh lên thiện thú hay Thiên giới: After death, at
breaking up of the body, he arises in a good place, a heavenly world.
Năm
Điều Nguy Hiểm Của Người Ác Phá Giới:
Sampada—Five dangers to the immoral through lapsing from morality—Theo Kinh Đại
Bát Niết Bàn và Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có năm điều nguy hiểm của
người ác giới—According to the Mahaparinibbana Sutta and the Sangiti Sutta in
the Long Discourses of the Buddha, there are five dangers to the immoral
through lapsing from morality (bad morality or failure in morality):
1) Người ác giới vì phạm giới
luật do phóng dật thiệt hại nhiều tài sản: He suffers great loss of
property through neglecting his affairs.
2) Người ác giới, tiếng xấu
đồn khắp: He gets bad reputation for immorality and misconduct.
3) Người ác giới, khi vào hội
chúng sát Đế Lợi, Bà La Môn, Sa Môn hay cư sĩ, đều vào một cách sợ sệt và dao
động: Whatever assembly he approaches, whether of Khattiyas, Bramins, Ascetics,
or Householders, he does so differently and shyly.
4) Người ác giới, chết một
cách mê loạn khi mệnh chung: At the end of his life, he dies confused.
5) Người ác giới, khi thân
hoại mạng chung sẽ sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục: After death, at
the breaking up of the body, he arises in an evil state, a bad fate, in
suffering and hell.
** For more information, please see Năm
Điều Lợi Ích Của Người Đủ Giới.
Năm
Đức Tính Căn Bản Của Người Tu Thiền:
Five basic characteristics of any Zen cultivators:
1) Giới hạnh tinh nghiêm:
Strictly keep the precepts.
2) Căn tánh nhanh nhẹn sáng
suốt: Nature and roots should be active (swift) and enlightened.
3) Thấu triệt chân lý và khéo
phân biệt chánh tà chân ngụy: Understand clearly the Buddha teachings and
skillfully distinguish right from wrong, as well as true from false.
4) Ý chí kiên định: Firm and
stable determination.
5) Luôn nương theo chư thiện
hữu tri thức, những người làu thông kinh điển, tinh chuyên tu hành để được
hướng dẫn đúng đắn: Should always cultivate with good advisors, who have
a thourough knowledge of the sutras and who zealously practise meditation to
obtain the right guidance.
Năm
Huyền Nghĩa: Five wonderful meanings or
terms—See Ngũ Huyền Nghĩa Tam Luận Tông.
Năm
Khi Mười Họa: Rarely
Năm
Loại Ngôn Ngữ: Five courses of speech—Theo Kinh
Ví Dụ Cái Cưa trong Trung Bộ, Đức Phật dạy: “Chư Tỳ Kheo, có năm loại ngôn ngữ
mà các người có thể dùng khi nói với các người khác.” Đó là—According to the
Kakacupama Sutta in the Middle Length Discourses of the Buddha, the Buddha
taught: “Bhikkhus! There are five courses of speech that others may use when
they address you.” They are:
1) Đúng thời hay phi thời:
Their speech may be timely or untimely.
2) Chân thật hay không chân
thật: True or untrue.
3) Như nhuyễn hay thô bạo:
Gentle or harsh.
4) Có lợi ích hay không lợi
ích: Connected with good or with harm.
5) Với từ tâm hay với sân tâm:
Spoken with a mind of loving-kindness or with inner hate.
Năm
Món Ngăn Che: Five hindrances or covers—See Ngũ
Ác, Ngũ Cái, and Ngũ Triền Cái.
Năm
Mươi Hai Tâm Sở: Theo Luận Vi Diệu Pháp (A Tỳ Đạt
Ma), có 52 tâm sở—According to the Abhidharma, there are fifty-two mental
states:
(A) Tâm Sở Phổ Thông—Universal Mental Factors:
1) Xúc: Phasso (p)—Contact.
2) Thọ: Vedana (p)—Feeling.
3) Tưởng: Sanna
(p)—Perception.
4) Tác Ý (Hành): Cetana
(p)—Volition.
5) Nhất Điểm: Ekagagta
(p)—One-pointedness.
6) Mạng Căn: Jivitindriyam
(p)—Life faculty.
7) Chú Ý: Manasikaro (p)—Attention.
(B) Tâm Sở Riêng Biệt—Occasional Mental Factors:
8) Tầm: Vitakko (p)—Initial
application.
9) Sát: Vicaro (p)—Sustained
application.
10) Xác Định: Adhimokkho (p)—Decision.
11) Tinh Tấn: Viriyam (p)—Energy.
12) Phỉ: Piti (p)—Zest.
13) Dục: Chando (p)—Desire.
(C) Tâm Sở Bất Thiện—Unwholesome Mental Factors:
a) Tâm Sở Bất Thiện Phổ
Thông—Unwholesome Universal Mental Factors:
14) Si: Moho (p)—Delusion.
15) Vô Tàm: Ahirikam (p)—Shamelessness.
16) Vô Quý: Anottappam (p)—Fearlessness of
wrong-doing.
17) Phóng Dật: Uddhaccam (p)—Restlessness.
b) Tâm Sở Bất Thiện Riêng
Biệt—Unwholesome Occasional Mental Factors:
18) Tham: Lobho (p)—Greed.
19) Tà Kiến: Ditthi (p)—Wrong views.
20) Ngã Mạn: Mano (p)—Conceit.
21) Sân: Doso (p)—Hatred.
22) Ganh Tỵ: Issa (p)—Envy.
23) Xan Tham: Macchariyam (p)—Avarice.
24) Lo Âu: Kukkuc-cam (p)—Worry.
25) Hôn Trầm: Thinam (p)—Sloth.
26) Thụy Miên: Middham (p)—Torpor.
27) Hoài Nghi: Vicikiccha (p)—Doubt.
** For more information, please see Mười
(D) Tâm Sở Đẹp—Beautiful Mental Factors:
28) Tín: Saddha (p)—Faith.
29) Niệm: Sati (p)—Mindfulness.
30) Tàm: Hiri (p)—Shame.
31) Quý: Ottappam (p)—Fear of wrong-doing.
32) Không Tham: Alobho (p)—Non-greed.
33) Không Sân: Adoso (p)—Non-hatred.
34) Xả: Tatramjjhattata (p)—Neutrality of mind.
35) Tâm Sở Vắng Lặng: Kayapassadhi (p)—Tranquility of
mental body.
36) Tâm Vắng Lặng: Cittapassadhi (p)—Tranquility of
consciousness.
37) Tâm Sở Khinh An: Kayalahuta (p)—Lightness of
mental body.
38) Tâm Khinh An: Cittalahuta (p)—Lightness of
consciousness.
39) Tâm Sở Nhu Thuận: Kayamuduta (p)—Malleability of
mental body.
40) Tâm Nhu Thuận: Cittamuduta (p)—Malleability of
consciousness.
41) Tâm Sở Thích Ứng: Kayakammannata (p)—Wieldiness of
mental body.
42) Tâm Thích Ứng: Citta-kammannata (p)—Wieldiness of
consciousness.
43) Tâm Sở Tinh Luyện: Kayapagunnata (p)—Proficiency
of mental body.
44) Tâm Tinh Luyện: Citta-pagunnata (p)—Proficiency of
consciousness.
45) Tâm Sở Chánh Trực: Kayujjukata (p)—Rectitude of
mental body.
46) Tâm Chánh Trực: Cittujjukata (p)—Rectitude of
consciousness.
(E) Tâm Sở Tiết Chế—Abstinences:
47) Chánh Ngữ: Sammavaca (p)—Right speech.
48) Chánh Nghiệp: Sammakammanto (p)—Right action.
49) Chánh Mạng: Samma-ajivo (p)—Right livelihood.
(F) Tâm Sở Vô Lượng—Illimitables:
50) Bi: Karuna (p)—Compassion.
51) Hỷ: Mudita pana (p)—Appreciative joy.
(G) Tâm Sở Tuệ Căn—Non-Delusion:
52) Tuệ Căn: Pannindriya (p)—Wisdom faculty.
**
For more information, please see Năm
Năm
Mươi Mốt Tâm Sở: Theo Đại Thừa, có 51 tâm
sở—According to the Mahayana, there are fifty-one Dharmas interactive with the
Mind:
(A) Năm tâm sở biến hành: Sarvatraga
(skt)—Five universally interactive.
1) Tác ý: Manaskara (skt)—Chú
tâm vào việc gì—Attention—Pay attention on something.
2) Xúc: Sparsha (skt)—Sau khi
chú tâm vào việc gì, người ta có khuynh hướng tiếp xúc với nó—Contact—After
paying attention on something, one has a tendency to want to come in contact
with it.
3) Thọ: Vedana (skt)—Một khi
“tiếp xúc” đã thành lập, thọ liền khởi lên—Feeling—Once contact is established,
feeling arises.
4) Tưởng: Samjna (skt)—Khi
“thọ” đã khởi lên thì tưởng liền xảy ra—Conceptualization—Once feeling arises,
conceptualization occurs.
5) Tư: Cetana (skt)—Một khi đã
có “tưởng” là “Tư” hay sự suy nghĩ liền theo sau—Deliberation—Once there is
“conceptualization,” then “deliberation” sets in.
(B) Năm tâm sở biệt cảnh: Viniyata (skt)
Five particular states.
6) Dục: Chanda (skt)—Dục là
mong muốn cái gì đó—Desire—Desire means to want for something.
7) Thắng giải: Adhimoksha
(skt)—Hiểu biết rõ ràng, không còn nghi ngờ gì cả—Resolution—Supreme
understanding. There is no doubt at all.
8) Niệm: Smriti (skt)—Nhớ rõ
ràng—Recollection—Remembering clearly.
9) Định: Samadhi (skt)—Chuyên
chú tâm tập trung tư tưởng vào một cái gì đó—Concentration—Exclusively pay
attention to something.
10) Tuệ (Hue)ä: Prajna (skt)—Khả năng phán đoán mà một
người bình thường cũng có—Judgment—Ability to judge which average person
possesses.
(C) Mười một thiện tâm: Eleven wholesome: Kushala
(skt)—Eleven Wholesome.
11) Tín: Shraddha (skt)—Tin tưởng—Có niềm tin hay có
thái độ tin—Faith—To have a sense of belief or an attitude of faith.
12) Tấn: Virya (skt)—Một khi đã có niềm tin, chúng ta
phải biến niềm tin thành hành động với sự tinh cần—Vigor—Once one has faith,
one should put it into action with vigor.
13) Tàm: Hri (skt)—Còn có nghĩa là “tự xấu hổ hối
hận”—Shame—Also means “Repentance.”
14) Quí: Apatraya (skt)—Cảm thấy thẹn với
người—Remorse—Embarrassment.
15) Vô tham (không tham): Alobha (skt)—Absence of
greed.
16) Vô sân (không sân): Advesha (skt)—Absence of
anger.
17) Vô si (không si): Amoha (skt)—Absence of
ignorance.
18) Khinh an: Prashraddhi (skt)—Nhẹ nhàng thơ
thới—Người tu thiền thường trải qua giai đoạn “khinh an” trước khi tiến vào
“định”—Light ease, an initial expedient in
19) Bất phóng dật: Apramada (skt)—Không buông lung mà
theo đúng luật lệ—Non-laxness—To follow the rules.
20) Hành xả: Upeksha (skt)—Làm rồi không chấp trước mà
ngược lại xả bỏ tất cả những hoạt động ngũ uẩn—Renunciation—Not to grasp on the
past, but to renounce everything within the activity skhandha which is not in
accord with the rules.
21) Bất hại: Ahimsa (skt)—Không làm tổn hại sinh vật—Non-harming—Not
harming any living beings.
(D) Sáu phiền não căn bản: Klesha (skt)—Six
fundamental afflictions.
22) Tham: Raga (skt)—Tham tài, sắc, danh, thực, thùy
hay sắc, thinh, hương, vị, xúc—Greed—Greed for wealth, sex, fame, food, sleep
or greed for forms, sounds, smells, tastes, and objects of touch.
23) Sân: Pratigha (skt)—Không đạt được cái mình ham
muốn sẽ đưa đến sân hận—Anger—Not obtaining what one is greedy for leads to
anger.
24) Si: Moha (skt)—Khi giận dữ đã khởi lên thì con
người sẽ không còn gì ngoài “si mê”—Ignorance—Once anger arises, one has
nothing but “ignorance.”
25) Mạn: Mana (skt)—Ngã mạn Tự cao tự phụ làm cho
chúng ta khinh thường người khác—Arrogance—Arrogance means pride and conceit
which causes one to look down on others.
26) Nghi: vicikitsa (skt)—Không tin hay không quyết
định được—Doubt—Cannot believe or make up one’s mind on something.
27) Ác kiến: Drishti (skt)—Improper views—See Ngũ kiến
và Tà kiến.
(E) Hai mươi tùy phiền não: Upaklesha
(skt)—Twenty derivative afflictions.
a) Mười Tiểu Tùy phiền não—Ten
Minor Grade Afflictions:
28) Phẫn: Krodha (skt)—Phẫn tới bất thình lình và là
sự phối hợp của giận hờn—Wrath which comes sudenly and is a combination of
anger and hatred.
29) Hận: Upanaha (skt)—Hận xãy ra khi chúng ta đè nén
sự cảm xúc giận vào sâu bên trong—Hatred—Hatred happens when one represses the
emotional feelings deep inside.
30) Não: Pradasa (skt)—Não là phản ứng tình cảm nặng
nề hơn “hận”—Rage, of which the emotional reaction is much more severe than
hatred.
31) Phú: Mraksha (skt)—Che dấu—Covering or hiding
something inside.
32) Cuống: Maya (skt)—Sự dối gạt—Deceit—False kindness
or phone intention.
33) Siểm: Shathya (skt)—Nịnh bợ—Flattery.
34) Kiêu: Mada (skt)—Conceit—Think high of self and
low of others.
35) Hại: Vihimsa (skt)—Muốn làm tổn hại ai—Harming—To
want to harm other people.
36) Tật (Đố kỵ ganh ghét): Irshya (skt)—Bằng cách nầy
hay cách khác, ganh ghét đố kỵ với người hơn mình—Jealousy—To become envious of
the who surpass us in one way or other.
37) Xan (Bỏn xẻn): Matsarya (skt)—Người bỏn xẻn tự gói
chặt tài sản, chứ không muốn chia xẻ với ai—Stinginess—One is tight about one’s
wealth, not wishing to share it with others.
b) Hai Trung Tùy Phiền Não—Two
Intermediate Grade Afflictions:
38) Vô tàm: Ahrikya (skt)—Làm sai mà tưởng mình đúng
nên không biết xấu hổ—Lack of shame—To do wrong, but always feel
self-righteous.
39) Vô quí: Anapatrapya (skt)—Vô quí có nghĩa là không
biết thẹn, không tự xét coi mình có theo đúng tiêu chuẩn với người hay
không—Lack of remorse—Never examine to see if one is up to the standards of
others.
c) Tám Đại Tùy Phiền Não—Eight
Major Grade Afflictions:
40) Bất tín: Ashraddhya (skt)—Không tín nhiệm hay tin
tưởng ai, không tin chánh pháp—Lack of faith—Not trust or believe in anyone,
not to believe in the truth.
41) Giải đãi (Biếng nhác trễ nải): Kausidya
(skt)—Không lo đoạn ác tích thiện—Laziness—Not to try to eliminate unwholesome
deeds and to perform good deeds.
42) Phóng dật: Pramada (skt)—Làm bất cứ cái gì mình
thích chứ không thúc liễm thân tâm theo nguyên tắc—Laxiness—Not to let the body
and mind to follow the rules but does whatever one pleases.
43) Hôn trầm: Styana (skt)—Mờ tối hay ngủ gục trong
tiến trình tu tập—Torpor—To feel obscure in mind or to fall asleep in the
process.
44) Trạo cử: Auddhatya (skt)—Người luôn nhúc nhích
không yên—Restlessness—One is agitated and cannot keep still.
45) Thất niệm: Mushitasmriti (skt)—Không giữ được
chánh niệm—Distraction—To lose proper mindfulness.
46) Bất chánh tri: Asamprajanya (skt)—Biết không chơn
chánh, tâm tánh bị uế nhiễm ám ảnh—Improper knowledge—One become obssesses with
defilement.
47) Bất Định (Tán loạn): Wikshepa (skt)—Tâm rối
loạn—Scatteredness.
(F) Bốn bất định: Aniyata (skt)—Four unfixed.
48) Thụy miên: Middha (skt)—Buồn ngũ làm mờ mịt tâm
trí—To fall asleep to obscure the mind.
49) Hối: Kaudritya (skt)—Ăn năn việc làm ác trong quá
khứ—Regret or repent for wrong doings in the past.
50) Tầm: Vitarka (skt)—Tìm cầu sự việc làm cho tâm
tánh bất ổn—Investigation (to cause the mind unstable).
51) Tư: Vicara (skt)—Cứu xét chính chắn làm cho tâm
tánh yên ổn—Correct Examination (to pacify the mind).
Năm
Nhân Duyên Khiến Cho Người Vãng Sanh Tịnh Độ Không Thối Chuyển: Five reasons why those who are reborn in the Pure Land
achieve non-retrogression—Kinh Vô Lượng Thọ dạy rằng những kẻ vãng sanh Tịnh Độ
đều trụ nơi chánh định, và đều là các bậc A Bệ Bạt Trí, tức là bậc Bất Thối
Chuyển. Cổ Đức đã dạy: “Không nguyện vãng sanh Tịnh Độ thì khó lòng vãng sanh;
tuy nhiên, một khi đã thực nguyện thì tất cả đều được vãng sanh. Không sanh
Tịnh Độ thì khó thành tựu Bất Thối Chuyển; tuy nhiên, khi đã vãng sanh Tịnh Độ
thì tất cả đều được bất thối chuyển.” Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong
Tịnh Độ Thập Nghi Hoặc Vấn Luận, có năm nhân duyên khiến cho người vãng sanh
Tịnh Độ không còn bị thối chuyển nữa—The Infinite Sutra confirms that those who
achieve rebirth in the Pure Land always dwell in correct samadhi, and are all
at the stage of “Avaivartika” or non-retrogression. The ancients have said:
“Without a vow to be reborn, rebirth cannot be achieved; however, with a
sincere vow, all achieve rebirth. Without rebirth in the Pure Land, the stage
of non-retrogression cannot easily be reached; however, with rebirth, all
achieve non-retrogression. According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in the
Treatise on The Ten Doubts, question number 19, there are five reasons why
those who are reborn in the Pure Land achieve non-retrogression:
1) Do nguyện lực đại bi của
Phật nhiếp trì: The power of the Buddha’s great, compassionate vow embraces and
protects them.
2) Ánh sáng hay trí huệ Phật
thường soi đến thân, nên lòng Bồ Đề của chư thiện nhân luôn luôn tăng tiến: The
Buddha’s light or wisdom always shines upon them, and, therefore, the Bodhi
Mind of these superior people will always progress.
3) Nơi cõi Tây Phương Tịnh Độ,
chim, nước, rừng cây, gió, âm nhạc thường phát ra tiếng pháp ‘khổ, không, vô
thường và vô ngã;’ hành giả nghe rồi sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng:
In the Western Pure Land, the birds, water, forests, trees, wind and music all
preach the Dharma of ‘suffering, emptiness, impermanence and no-self.’ Upon
hearing this, practitioners begin to focus on the Buddha, the Dharma and the
Sangha.
4) Chúng sanh được sanh về Cực
Lạc, thì bạn lành toàn là các bậc Bồ Tát thượng thiện, tuyệt tất cả các chướng
nạn, ác duyên, lại không có ngoại đạo tà ma, nên tâm thường an tịnh: Those who
are reborn in the Pure Land have the highest level Bodhisattvas as their
companions and are free from all obstacles, calamities and evil conditions.
Moreover there are no externalists or evil demons , so their Minds are always calm
and still.
5) Đã được sanh về Tịnh Độ thì
thọ lượng vô cùng, đồng với chư Phật và chư Bồ Tát, an nhiên tu tập trải qua vô
biên a tăng kỳ kiếp: Once they are reborn in the Pure Land, their life span is
inexhaustible, equal to that of the Buddhas and Bodhisattvas. Thus they can
peacefully cultivate the Dharma for countless eons.
Năm
Nhuần: Leap year.
Năm
Pháp Nội Tâm Một Vị Tỳ Kheo Cần Phải Có Nếu Muốn Chỉ Trích Một Vị Khác: Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có năm pháp nội
tâm một vị Tỳ Kheo cần phải có nếu muốn chỉ trích một vị khác—According to the
Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there are five points to be
borne in mind by a monk wishing to rebuke another:
1) Tôi nói đúng thời, không
phải phi thời: I will speak at the right time, not at the wrong time.
2) Tôi nói đúng sự thật, không
sai sự thật: I will speak (state) the truth, not what is false.
3) Tôi nói một cách từ tốn,
không nói lời ác khẩu: I will speak gently, not roughly.
4) Tôi nói lời có lợi ích,
không nói lời không lợi ích: I will speak for his good, not for his harm.
5) Tôi nói lời có lòng từ,
không phải lời sân hận: I will speak with love in my heart, not with
enmity.
Năm
Phép Cung Kính Của Chồng Đối Với Vợ:
Theo Kinh Toát Yếu Đạo Lý Cho Người Cư Sĩ, Đức Phật đã ban hành năm phép cung
kính của người chồng đối với người vợ như sau—In the Sigalovada Sutta, the
Buddha laid down the five ways for a husband to show compassion and respect for
his wife as follows:
1) Luôn lễ độ và thanh tao nhã
nhặn với vợ: He should always minister to her by courtesy.
2) Không tỏ ý khinh thường vợ:
Not to despise her.
3) Trung thành với vợ: To be
faithful to her.
4) Trao quyền hành quản lý
trong nhà cho vợ: To delegate authority in the household to her.
5) Mua sắm nữ trang cho vợ: To
provide her with ornaments.
Năm
Phép Cung Kính Của Vợ Đối Với Chồng:
Theo Kinh Toát Yếu Đạo Lý Cho Người Cư Sĩ, Đức Phật đã ban hành năm phép cung
kính yêu thương của người vợ đối với chồng như sau—In the Sigalovada Sutta, the
Buddha laid down the guidelines of five ways for a wife to show compassion and
respect to her husband as follows:
1) Làm tròn bổn phận của mình:
To perform her duties well.
2) Ân cần tiếp đón thân bằng
quyến thuộc bên chồng: To be hospitable to her husband’s relatives and friends.
3) Trung thành với chồng: To
be faithful to her husband.
4) Cẩn thận giữ gìn tiền bạc
của cải mà chồng kiếm được: To protect what he brings home.
5) Luôn khéo léo, siêng năng
cần mẫn trong công việc: Be always skilled and industrious in discharging
her duties.
Năm
Phiền Trược Chưa Được Đoạn Tận:
Đức Phật dạy trong Trung Bộ Kinh, kinh Tâm Hoang Vu, có năm phiền trược chưa
được đoạn tận—In the Middle Length Discourses of the Buddha, the Wilderness in
the Heart Sutra, the Buddha confirmed: “There are five shackles in the heart.”
1) Phiền trược thứ nhất chưa
được đoạn tận—The first shackle in the heart that he has not severed: Ở đây vị
Tỳ Kheo đối với những dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu,
không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt
tình, không phải không khát ái, thì tâm của vị Tỳ Kheo đó không hướng về nỗ
lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn—Here a bhikkhu is not free from lust,
desire, affection, thirst, fever, and craving for sensual pleasures, and thus
his mind does not incline to ardour, devotion, perseverance, and striving. As
his mind does not incline to ardour, devotion, perserverance, and
striving.
2) Phiền trược thứ hai chưa
được đoạn tận—The second shackle in the heart that he has not severed: Vị Tỳ
Kheo nào đối với tự thân không phải không tham ái, không phải không dục cầu,
không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt
tình, không phải không khát ái, thì tâm của vị Tỳ Kheo đó không hướng về nỗ
lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn—A bhikkhu is not free from lust, desire,
affection, thirst, fever, and craving for the body (the rest remains the same
as in the last part of 1).
3) Phiền trược thứ ba chưa
được đoạn tận—The third shackle in the heart that he has not severed: Vị Tỳ
Kheo nào đối với các sắc pháp không phải không tham ái, không phải không dục
cầu, không phải không ái luyến, không phải không nhiệt tình, không phải không
khát ái, thì tâm của vị Tỳ Kheo đó không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì,
tinh tấn—A bhikkhu is not free from lust, desire, affection, thirst, fever, and
craving for form (the rest remains the same as the last part of 1).
4) Phiền trược thứ tư chưa
được đoạn tận—The fourth shackle in the heart that that he has not severed: Vị
Tỳ Kheo nào ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về
khoái lạc, về sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thụy miên—A bhikkhu
eats as much as he likes until his belly is full and indulges in the pleasures
of sleeping, lolling, and drowsing… As his mind does not inclined to ardour,
devotion, perserverance, and striving.
5) Phiền trược thứ năm chưa
được đoạn tận: Tỳ Kheo nào sống phạm hạnh với mong cầu được sanh thiên giới với
ý nghĩ: “Ta với giới nầy, với hạnh nầy, với khổ hạnh nầy hay với phạm hạnh nầy
sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác.”—A bhikkhu lives a holy life
aspiring to some order of gods thus: “By this virtue or observance or
asceticism or holy life, I shall become a great god or some lesser god,” and
thus his mind does not inclined to ardour, devotion, perserverance, and
striving.
Năm
Phiền Trược Đã Được (Một Vị Tỳ Kheo) Đoạn Tận:
Five shackles in the heart that he has severed—See Năm Phiền Trược Chưa Được
Đoạn Tận (opposite meaning).
Năm
Suy Tướng: Five signs of decay—See Ngũ Suy.
1)
Năm
Tâm Hành Sắc Giới: Five kinds of Fine-Material-Sphere
Functional Consciousness—See Tâm Sắc Giới (II) (C).
Năm
Tâm Hoang Vu: Ceto-khila (p)—Five mental
blockages—Theo Kinh Phúng Tụng trong trường Bộ Kinh, có năm tâm hoang
vu—According to the Sangiti Sutta in the Long Discourses of the Buddha, there
are five mental blockages:
1) Ở đây vị Tỳ Kheo nghi ngờ,
do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với vị Đạo Sư. Thế nên vị ấy
không nỗ lực đúng hướng, không hăng hái, không kiên trì và tinh tấn: Here a
monk who has doubts and hesitations about the teacher, is dissatisfied and
cannot settle his mind. Thus his mind is not inclined towards ardour, devotion,
persistence and effort.
2) Ở đây vị Tỳ Kheo nghi ngờ
đối với Pháp, do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với Pháp. Thế nên
vị ấy không nỗ lực đúng hướng, không hăng hái, không kiên trì và tinh tấn: Here
a monk who has doubts and hesitations about the Dhamma, is dissatisfied and
cannot settle his mind. Thus his mind is not inclined towards ardour, devotion,
persistence and effort.
3) Ở đây vị Tỳ Kheo nghi ngờ
đối với Tăng, do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với Tăng. Thế nên
vị ấy không nỗ lực đúng hướng, không hăng hái, không kiên trì và tinh tấn: Here
a monk who has doubts and hesitations about the Sangha, is dissatisfied and
cannot settle his mind. Thus his mind is not inclined towards ardour, devotion,
persistence and effort.
4) Ở đây vị Tỳ Kheo nghi ngờ
đối với Học Pháp, do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với Học Pháp.
Thế nên vị ấy không nỗ lực đúng hướng, không hăng hái, không kiên trì và tinh
tấn: Here a monk who has doubts and hesitations about the training, is
dissatisfied and cannot settle his mind. Thus his mind is not inclined towards
ardour, devotion, persistence and effort.
5) Ở đây vị Tỳ Kheo tức giận
đối với các vị đồng phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động, trở thành hoang vu.
Vì thế vị ấy không nỗ lực đúng hướng, không hăng hái, không kiên trì và tinh
tấn: Here a monk who is angry and displeased with his fellows in the holy life,
he feels depressed and negative towards them. Thus his mind is not inclined
towards ardour, devotion, persistence and effort.
Năm
Tâm Hoang Vu Đã Được Đoạn Tận:
Five Wilderness in the heart have been completely abandoned (please see Năm Tâm
Hoang Vu, just reversing the meaning, or place a “no” in front of each rule).
Năm
Tâm Quả Sắc Giới: Five kinds of Fine-Material-Sphere
Resultant Consciousness—See Tâm Sắc Giới (II) (B).
Năm
Tâm Thiện Sắc Giới: Five kinds of
Fine-Sphere-Material-Wholesome-Consciousness—See Tâm Sắc Giới (II) (A).
Năm
Thiện Nghiệp Tạo Quả Được Hưởng Trong Sắc Giới: Five kinds of kusala kamma which may ripen in the realms
of form—See Mười Lăm Tâm Thiện Thuộc Sắc Giới (A).
Năm
Thiện Nghiệp Tạo Quả Được Hưởng Trong Vô Sắc Giới: Five kinds of kusala kamma which may ripen in the formless
realms—See Tứ Không Xứ (B).
Năm
Thời Kỳ Phát Triển Của Thai Nhi:
The five evolutions of the embryo in the womb:
1) Thai tụ: Kalalam
(skt)—Embryo-initiation.
2) Sau 27 ngày: Arbudam
(skt)—After 27 days.
3) Sau 37 ngày: Pesi
(skt)—After 37 days.
4) Sau 47 ngày: Ghana
(skt)—After 47 days.
5) Sau 57 ngày khi tất cả các
căn hình thành đầy đủ: Prasakha (skt)—After 57 days when all form and organs
all complete.
Năm
Thứ Chi Tiêu: Trong Kinh Pattakamma, Đức Phật
nhắc nhở một người nên chi tiêu của cải của mình theo năm chỗ sau đây—In the
Pattakamma Sutta, the Buddha reminded a person should spend his wealth in five
areas:
1) Chi tiêu về thực phẩm, quần
áo và các nhu cầu khác: Expenditure on food and clothing and other needs.
2) Nuôi cha mẹ, vợ con và
người làm: Maintain of parents, wife and children and servants.
3) Chi tiêu về thuốc thang và
những trường hợp khẩn cấp khác: For illness and other emergencies.
4) Chi tiêu về mục đích từ
thiện: For charitable purposes.
5) Chi tiêu vào những việc sau
đây—Expenditures on the followings:
· Đối xử với thân quyến—Treating one’s relatives.
· Đối xử với khách—Treating one’s visitors.
· Cúng dường để tưởng nhớ đến những người đã khuất—Offering alms in memory of the
departed.
· Dâng lễ cúng dường chư Thiên—Offering merit to the deities.
· Dâng lễ cúng dường chư Tăng Ni—Offerings to monks and nuns.
· Trả thuế và lệ phí nhà nước đúng kỳ hạn—Payment of state taxes and dues in
time.
Năm
Tiểu Suy Tướng Của Chư Thiên Khi Sắp Mạng Chung: Theo Kinh Đại Bát Niết Bàn, chư Thiên nào khi sắp mạng
chung có năm tướng suy hiện ra. Năm suy tướng nầy gọi là năm tướng “tiểu
suy”—According to the Parinirvana Sutra, heavenly beings who are nearing death
will have the following five deterioration signs and characteristics. These
characteristics are known as the five “minor deterioration” characteristics:
1) Y phục và các đồ trang
nghiêm nơi thân như vòng xuyến và chuỗi anh lạc kêu vang ra những tiếng không được
thanh tao êm dịu như lúc bình thường: Clothing and other adorning items on the
body such as arm gem bracelets and jewel necklaces will no longer produce
soothing and enchanting sounds as they usually did.
2) Ánh quang minh nơi thân
bỗng nhiên mờ yếu: The auras around their bodies will become dim.
3) Sau khi tắm gội xong các
giọt nước dính đọng nơi mình chớ không khô đi như lúc trước: After bathing the
water droplets will remain on their bodies and will not dry spontaneously as
they usually did.
4) Tánh tình bình thường thong
dong, phóng khoáng nay bị trì trệ lại một chỗ: Their personality ordinarily
delightful and cheerful, today they seem uneasy and uncomfortable.
5) Mắt luôn máy động không
được trong lặng như mọi khi: The eyes will twitch constantly and will not be as
clear as they used to be.
Năm
Trường Hợp Để Phân Biệt Cảnh Ma Hay Cảnh Thật:
See Five circumstances (criteria) that can help us to determine which events
are real and which belong to the demonic realms in English-Vietnamese Section.
Năm
Trường Hợp Đi Chùa Bất Đắc Dĩ:
Five reluctant situations the majority of people go to temple—Theo Thượng Tọa
Thích Hải Quang trong Thư Gửi Người Học Phật, ít thấy có người vì thực tình
muốn thoát nẻo luân hồi, xa lìa sanh tử, cầu vãng sanh Tịnh Độ mà đến chùa tu
hành. Có năm trường hợp đi chùa bất đắc dĩ. Dù thế nào đi nữa, việc tu hành như
thế cũng gieo được nhân lành và phước đức về sau, còn tốt hơn là không tu hành
hay không có tín tâm gì cả—According to Venerable Thích Hải Quang in the
Letters to Buddhist Followers, there are very few people who honestly wish to
escape the cycle of rebirths, be liberated from birth and death, to seek rebirth to the Pureland to come to temple to cultivate. There are five reasons
that Buddhists reluctantly go to temple. No matter what reasons, such
cultivation is still producing some wholesome deeds, is still better than no
cultivation or having no faith.
1) Có người vì bệnh nặng mà đi
chùa vái van cho mau qua chóng khỏi: Some people go to the temple to pray to
quickly overcome their sickness or ailment.
2) Vì muốn cầu siêu trả hiếu
cho cha mẹ mà đi chùa tụng kinh niệm Phật: Some people go to the temple to
chant sutras and practice Buddha Recitation with the purpose to pray for their deceased
parents as a way to repay their parents’ kindness.
3) Vì cầu cho nhà cửa, sự
nghiệp vững bền mà đến chùa lạy Phật, cúng dường: Some people come to the
temple to prostrate to Buddha and make offerings with the purpose to pray for
their homes and daily subsistence to remain prosperous.
4) Vì sợ tai nạn mà đến chùa
vái nguyện ăn chay niệm Phật: Some people are afraid of calamities and
disasters so they come to the temple to vow to become vegetarians.
5) Vì muốn trả cho rồi các lời
vái van đã lỡ phát nguyện khi trước: Some people come to the temple
because they wish to repay something they vowed before when they experienced
hardships.
Năm
Xuất Ly Giới: Nissaraniya-dhatuyo (p)—The five
elements making for deliverance—See Ngũ Xuất Ly Giới.
Nắm: To grasp—To embrace.
Nắm
Chặt: To hold tightly.
Nắm
Cơ Hội: To embrace an opportunity.
Nằm: To lie down.
Nằm
Đất: To lie on the ground.
Nằm
Mộng: To dream.
Nằm
Nghiêng: To lie on one’s side
Nằm
Ngủ: To lie dormant.
Nằm
Ngửa: To lie on one’s back.
Năn
Nỉ: To insist.
Nắn
Nót: To write carefully.
Nặn
Óc: To puzzle one’s brain.
Năng:
1) Khả năng: Sak
(skt)—Able—Can—Capability—Power.
2) Thường xuyên: Năng lui
tới—Frequent—Often.
Năng
Duyên: Năng duyên đối lại với sở duyên,
như tâm thức của nhãn nhĩ là năng duyên vì chúng phải nương vào ngoại cảnh sắc
thanh (sở duyên)—The conditioning power in contrast with the conditioned, e.g.
the power of seeing and hearing in contrast with that which is seen and
heard.
Năng
Đại Sư: Còn gọi là Năng Hành Giả, hay Lục
Tổ Huệ Năng của Thiền Tông Trung Hoa—The sixth patriarch, Hui-Neng of the
Chinese Ch’an School—See Huệ Năng in Vietnamese-English Section, and Hui-Neng
in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Năng
Đoạn Kim Cang Kinh: Vajracchedika-sutra (skt)—Kinh Kim
Cang, tóm lược của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, được ngài Huyền Trang dịch
sang Hoa ngữ—The Diamond Sutra, translated by Hsuan-Tsang, an extract from the
Prajnaparamita-sutra.
Năng
Động: To be dynamic.
Năng
Lập: Phương pháp của nhân minh luận, có
đầy đủ chính nhân và chính dụ để thành lập tôn pháp gọi là năng lập—A
proposition in logic that can be established, or postulated.
Năng
Lực: Power.
Năng
Lực Trí Năng: Jnasaki (skt)—Intellectual
faculty.
Năng
Lượng: Energy.
Năng
Nhân:
1) Có lòng nhân: Mighty in
loving-kindness—Able in generosity, indicating Sakyamuni’s character.
2) Người có khả năng: An able
man.
3) Phật Thích Ca: Sakyamuni
Buddha.
4) Một vị vua thời cổ, có lẽ
do tưởng tượng, trị vì 16 xứ ở Ấn Độ, người mà Đức Phật đã đọc lại cho nghe
Kinh Nhân Vương—An ancient king, probably imaginary, of the “sixteen countries”
of India, for whom the Buddha is said to have dictated the Mighty in
Loving-kindness Sutra.
Năng
Sở: Pháp tự động là năng, pháp bị động
là sở, như khả năng chuyển hóa là “năng hóa,” và vật được chuyển hóa là “sở
hóa” (năng duyên, sở duyên; năng kiến, sở kiến; lục thức và lục căn có khả năng
phát khởi mối cảm gọi là năng, lục trần có sức thu lấy mối cảm gọi là
sở)—Active and passive ideas , e.g. ability to transform or transformable and
the object that is transformed.
Năng
Thí Thái Tử: The great princely almsgiver—See
Đại Thí Thái Tử and Đại Ý.
Năng
Thiên Chủ: Able to be lord.
Năng
Thủ: Grahaka or Grahana (skt).
· Sự nắm lấy hay sự nhận thức: Seizing or perceiving.
· Người nắm chấp hay nhận thức: One who seizes or perceives.
Năng
Thuyết: Able speak.
Năng
Tín: Năng tín là có thể tin được, đối
lại với sở tín hay cái được tin—Can believe, or can be believed, contrasted
with that which is believed.
Năng
Trì: Có khả năng trì giữ giới luật
(theo pháp thọ giới trong Kinh Phạm Võng, Giới Hòa Thượng hướng về người thọ
giới mà nói rõ từng giới tướng trong thập giới trọng cấm rồi hỏi: “Ông có thể
giữ được giới đó không?” Người thọ giới trả lời: “Năng Trì hay có thể giữ
được.” Sau lời đáp “năng trì” là coi như đã thọ giới đó)—Ability to keep or
maintain the commandments.
Năng
Y: Tùy thuộc vào, từ dùng để đối lại
với sở y, như cây cỏ trên đất đai; cây cỏ là “năng y” và đất đai là “sở
y.”—Dependent on, that which relies on something else, e.g. vegetation on land;
land is that which vegetation relies on—See Sở Y.
Nắng
Chang Chang: Burning sun.
Nắng
gắt: See Nắng Chang Chang.
Nằng
Nằng: To insist stubbornly
Nặng: Heavy.
Nặng
Đầu: To have a bad headache.
Nặng
Gánh: Heavy load.
Nặng
Nghiệp: Heavy karma.
Nặng
Nhọc: Hard work.
Nặng
Tai: To be hard of hearing.
Nặng
Trĩu: Overloaded—Overburdened.
Nặng
Trịch: Very heavy.
Nâng
Cao: To raise.
Nâng
Đỡ: To support—To help.
Nấp:
1) To hide.
2) Lid—Cover.
Nấp
Bóng: To be under someone’s protection
Nâu
Sồng: Monk’s clothes—Clothes which have
been dyed in brown.
Nấu
Cát Làm Cơm:
1) Cooking sands for food.
2) Something which is
impossible to achieve.
Nẩy
Lên: To bounce.