Tổ Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN - BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE - ENGLISH VIỆT - ANH
Thiện Phúc
Tr
Tra:
1) To examine—To investigate---To
interrogate.
2) To look up—To consult.
3) To put (fix—To fit) in (tra cán
dao).
Tra Cứu: To study.
Tra Hỏi: See Tra (1).
Tra Khảo: To examine—To study.
Tra Tấn: To torture.
Tra Xét: To investigate—To examine.
Trá: Giả trá—To feign—To deceive—To pretend—To impose on.
Trá Hàng: To feign submission.
Trà: Tea.
Trà Am: Tên của một ngôi chùa cổ ở Huế, Trung Việt. Chùa Trà Am là
nơi trụ cuối cùng của sư Viên Thành, tại chân núi Ngũ Phong, ấp Tứ Tây, làng An
Cựu. Chùa được trùng tu và lợp ngói thay vì tranh vào năm 1937—Name of an
ancient temple in Huế, Central Vietnam. Trà Am temple is the place where monk
Viên Thành spent the end of his life. The temple was built in 1923 by Venerable
Viên Thành. It is located at the foot of Mount Ngũ Phong, Tứ Tây hamlet, An Cựu
village. In 1937, the temple was renovated, holding the same style but tile
roof instead of thatched one.
Trà Củ Ma: Hoa thơm, ở các vùng Tây Á và Trung Á, dùng để làm rượu
thơm và để gọi hồn các vong linh—Fragrant flowers from Western or Central Asia
for scenting wine, and for calling down the spirits..
Trà Diệp: Lá trà—Tea-leaves.
Trà Dư Tửu Hậu: Idle conversation after tea and wine
Trà Đồ Tha: Jadata (skt).
1) Lạnh: Coldness.
2) Ngu si: Stupidity.
3) Tính không tình cảm: Apathy.
Trà Lăng Úc: Thiền sư Trà Lăng Úc là một đệ tử của Thiền sư Dương Kỳ
Phương Hội. Ngài là tác giả của bài thơ sau đây mà theo Thiền sư D.T. Suzuki
trong Thiền Luận, Tập I, những bài thơ về ‘ngộ’ thì không bài nào giống bài
nào, khó gợi cho ta một nhận định xác đáng về nội dung của ngộ bằng các so sánh
hay phân tích, nhưng dầu sao thì qua những bài thơ nầy chúng ta cũng thấy biểu
lộ một phát giác mới; còn phát giác ấy là gì thì ta cần tự có ít nhiều thân
chứng riêng mới có thể nói rõ hơn được. Dầu ở trường hợp nào, tất cả các Thiền
sư đều chứng chắc rằng trong Thiền có cái gọi là ‘ngộ,’ nhờ nó con người du
nhập trong một thế giới giá trị mới. Kiến giải cũ vứt bỏ là thế gian mang một ý
nghĩa mới—Zen master Ling-Yu was a disicple of Zen master Yang-Ch’i. He was the
author of the below poem. According to Zen master D.T. Suzuki in the Essays in
Zen Buddhism, Book I, verses of enlightenment show how they vary from one
another and how it is impossible to suggest any intelligible explanation of the
content of enlightenment by merely comparing them or by analyzing them. Some of
them are easily understood, we suppose, as expressive of the feeling of a new
revelation; but as to that revelation itself is, it will require a certain
amount of personal knowledge to be able to describe it more intelligently. In
any event, all these masters testify to the fact that there is such a thing in
Zen as enlightenment through which one is admitted into a new world of value.
The old way of viewing things is abandoned and the world acquires a new
signification:
Ta có ngọc quí minh châu
Bụi đời vùi lấp bấy lâu
Bụi hết hôm nay sáng lại
Thế gian chiếu phá làu làu
I have one jewel shining bright
Long buried it was underneath worldly worries;
This morning the dusty veil is off,
And restored is its lustre,
Illumining rivers and mountains and ten
Thousand things.
Trà Thang: Trà và nước nóng, dùng trong các buổi lễ cúng vong ở các
tự viện—Tea and hot water, used as offerings to the spirits.
Trà Trộn: To mingle.
Trà Tỳ: Burial or cremation.
Trả: To give back—To return—To refund.
Trả Công: To pay someone for his services.
Trả Lời: To respond—To reply.
Trả Miếng: To return like for like.
Trả Ơn: To render thanks to someone.
Trả Thù: To revenge—To retaliate
Trác:
1) Cao vút—Lofty—Tall—Erect.
2) Đốn chặt: To chop.
Trác Ca La: See Chakra in sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Trác Ca La Sơn: Cakravala or Cakravada (skt)—Vòng núi Thiết Vi tạo thành
ngoại biên của vũ trụ—The circle of iron mountains forming the pheriphery of
the universe.
Trác Cú Ca: Chakoka or Cugopa (skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật
Học Từ Điển thì Trác Cú Ca là một vương quốc cổ thuộc Tiểu Bukharia, có lẽ bây
giờ là Yerkiang, hay Karghalik ở khu vực Khotan—According to Eitel in The
Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Chakoka is an ancient kingdom and
city in Little Bukharia, probably the modern Yerkiang, or perhaps Karghalik in
the Khotan region.
Trác Táng: Debauched—Depraved.
Trác Tích: Nơi các vị sư trụ trì (chỉ nơi cao truyệt)—Tall, or erect
staves, i.e. their place, a monastery.
Trác Tuyệt: Transcendent—Eminent.
Trách Mắng: To blame—To rebuke
Trách Nhiệm: Responsibility
Trách Nhiệm Gia Đình Và Xã Hội: Trong Phật giáo, có hai loại trách nhiệm: xuất gia và tại
gia—In Buddhism, there are two different kinds of duties: renunciation and
family life (lay people):
1) Với Tăng sĩ: Với hàng Tăng sĩ, đời
sống tôn giáo là xuất gia—For Buddhist monks, the religious life means
renunciation of home and family life.
2) Với Phật tử tại gia: Với Phật tử tại
gia, cuộc sống hãy còn ràng buộc với thế tục; tuy nhiên, một Phật tử thuần
thành luôn sống theo lời Phật dạy—For laypeople whose life is still subject to
worldly affairs; however, a devotee should always follow the Buddha’s guidance
in his daily life.
a. Trách nhiệm đối với cha mẹ: Duties
towards parents—Người Phật tử tại gia luôn thương yêu và chăm sóc hai đấng sanh
thành, đặc biệt là trong lúc tuổi già. Lại nữa, làm con phải luôn giữ truyền
thống tốt của gia đình, phải có tôn ti trật tự và phải luôn tỏ ra là một người con
xứng đáng—A layperson should always love and take care of both parents,
especially during their old age. Furthermore, children should always keep good
traditions of the family, maintain family lineage, and make themselves worthy.
b. Trách nhiệm đối với con cái: Duties
towards children—Cha mẹ luôn chu toàn trách nhiệm, dạy dỗ con cái đúng đường.
Lại nữa, cha mẹ phải luôn tìm cách ngăn ngừa không cho con cái đi vào đường xấu
xa tội lỗi; hướng dẫn họ đi vào đường đạo đức, huấn nghệ và gã cưới đúng thời,
và giao lại sản nghiệp đúng lúc—Parent should always fulfill their duties,
teach and guide children in the right way. Furthermore, parents should
always find ways to restrain them from vice, exhort them with virtue, train
them for a career, guide them with suitable marriages, and hand over
inheritance when time comes.
c. Đối với Thầy Tổ: Towards
teachers—Phật tử tại gia luôn kính trọng, lắng nghe và tán thán những lời dạy
dỗ của Thầy Tổ—Laypeople should always show respect, listen (pay attention to
their teachings), and praise their teachers for their efforts and
teachings.
d. Đối với chồng: Towards husbands—Phật
tử tại gia phải luôn ân cần vui vẻ; khi chồng vắng nhà, phải chăm sóc nhà cửa,
phải luôn chung thủy, phải xẻ chia; khi chồng nóng giận, phải luôn điềm tĩnh;
khi chồng nói đúng, phải lắng nghe—A wife should always be cheerful to her
husband; when husband is not home, she should take care of home; she should
always be faithful and loyal, share all things; when the husband is angry, she
should remain calm; when he is correct, she should listen.
e. Đối với vợ: Towards wives—Làm chồng
phải luôn tử tế; phải chào đón vợ; phải mua sắm đủ đầy áo quần và đồ trang sức
đúng thời đúng lúc; phải luôn thủy chung một vợ một chồng—A Husband should
always be kind to his wife; he should purchase clothes and jewelry at the right
time; be faithful with just one wife.
f. Đối với bằng hữu: Towards
friends—Người Phật tử tại gia luôn giúp đở bằng hữu, phải giải thích cho bạn
hiểu những lầm lỗi để cùng nhau xa lánh những việc xấu xa; phải luôn an ủi và
khuyên lơn bằng hữu khi cần. Cùng chia ngọt xẻ bùi bên nhau, lúc giàu cũng như
lúc nghèo; luôn bao dung tha thứ—Laypeople should always help friends; explain
faults so that both can avoid wrongs; should comfort and give friends advice
when they need; rich or poor, should share joys and sorrows; should always
forgive.
g. Đối với người làm: Towards
workers—Người Phật tử tại gia phải luôn biết thương xót kẻ ăn người ở; trước
khi sai phải biết sức; khi có tội, phải khuyên dạy, chớ không nên nặng tay phạt
vạ; phải luôn lấy lẽ công bằng mà xét xử; khi đau ốm phải lo liệu thuốc men đầy
đủ—Laypeople should always love their servants and workers; when command, must
see if they can do it; when they do worngs, we should teach and guide them how
to do things right; should always be impartial; when they are sick, we should
always provide them medicine and help them cure.
h. Đối với chủ nhân: Towards bosses—Người
Phật tử tại gia khi làm công cho ai, phải luôn thức sớm; phải cố gắng chu toàn
nhiệm vụ; không lãng phí thực vật của chủ; phải kính trọng, chào đón và tán
thán chủ, chứ không bêu xấu—Laypeople should always rise early before bosses;
try their best to complete tasks; try not to waste food and other materials;
always respect, greet and praise boses. Should never degrade
bosses.
Trách Nhiệm Tinh Thần: Moral responsibility.
Trạch:
1) Chọn Lựa—To pick—To select—To
choose.
2) Trạch Pháp Giác Phần: Pravicara
(skt)—Phần thứ nhì của Thất Bồ Đề Phần, giác phần hay sự phân biệt đúng sai—The
second of the seven bodhyanga or dharmapravicara—Discrimination—The faculty of
discerning the true from the false—See Thất Bồ Đề Phần.
3) Nhà: Residential part of a palace,
or mansion, or residence.
Trạch Diệt: Pratisamkhyanirodha (skt)—Một trong tam vô vi pháp—One of
the three Asamskritas:
· Niết bàn là diệt pháp do sức lựa
chọn của chân trí: Nirvana as a result of the ability to discriminate the true
from the false and elimination of desire by means of mind and will.
· Niết Bàn là sự đoạn diệt các tham
dục xấu nhờ vào trí tuệ và ý chí: Nirvana is the annihilation of evil desires
by means of the intellect and will.
· For more information, please see Tam
Vô Vi Pháp.
Trạch Địa: Chọn địa điểm—To select a site.
Trạch Lực: Khả năng phân biệt—The power of discrimination.
Trạch Nhũ Nhãn: Sữa trộn lẫn trong nước, mà chỉ uống sữa còn chừa nước lại
như nga vương vậy—The power to choose the milk out of watered milk, leaving the
water, as Hansaraja, the king of geese, is said to do.
Trạch Pháp Giác Chi: The bodhyanga of discrimination—See Trạch (2).
Trạch Pháp Nhãn: The bodhyanga of discrimination—See Trạch (2).
Trạch Thức: Tên khác của A Lại Da Thức—Another name for
Alaya-vijnana—See A Lại Da Thức.
Trai: Uposatha (skt)—Thời Trai Thực—Ô Bổ Sa Tha có nghĩa là
thanh tịnh, sau chuyển thành giới không ăn quá ngọ, sau đó lại chuyển thành
giới không ăn thịt cá—Uposatha means abstinence or to purify by fasting, latter
Uposatha means the ritual period for food, eating at or before noon; latter
Uposatha has further meaning of abstinence from meat and fish.
Trai Bãi: Trai Thối—Sau giờ ăn ngọ—After the midday meal.
Trai Bản: Bản gỗ treo trước phòng ăn tự viện để báo giờ cơm—A wooden
board (in place of a bell) in front of the dining hall, calling or informing to the midday meal.
Trai Chủ: Thí chủ cúng dường Tăng chúng đồ ăn—The donor of monastic
food.
Trai Chúc: Cháo lỏng để ăn sáng, hay húp vào buổi tối—The midday and
morning meals, breakfast of rice or millet congee, dinner of vegetarian foods.
Trai Chung: Chuông báo đến giờ ăn (thường đánh 36 tiếng)—The bell, or
drum, calling or informing to the midday meal (usually 36 strikes).
Trai Diên: Cúng dường thức ăn đến Tam Bảo—Offerings of food to the
Triratna.
Trai Đường: Phòng ăn của tự viện—Abstinence hall, i.e. monastic dining
hall.
Trai Giới: Thanh tịnh thân tâm hay đề phòng thân tâm lười biếng giải
đãi, thí dụ như bát quan trai giới—Purification, or abstinential rules, e.g.
the eight prohibitions—See Trai.
Trai Hội: Hội chúng của Tăng Ni niệm chú trước khi thọ thực—An
assembly of monks for chanting, with food provided, usually before
eating.
Trai Nguyệt: Ba tháng ăn chay đặc biệt của Phật tử tại gia, tháng
giêng, tháng năm và tháng chín (trong ba tháng nầy Phật tử nên trì trai giữ
giới, giữ gìn lời ăn tiếng nói, cũng như hành vi cử chỉ, tránh làm việc ác, nên
làm việc thiện, và luôn giữ cho tâm ý thanh sạch)—The three special months of
abstinence and care for lay Buddhists, the first, fifth, and ninth months
Trai Nhật: Vegetarian Day.
1) Trong đạo Phật, lý tưởng nhất vẫn là
trường trai; tuy nhiên, việc trường trai rất ư là khó khăn cho Phật tử tại gia,
nên có một số ngày trong tháng cho cư sĩ tại gia. Lý do ăn chay thật là đơn
giản, vì theo lời Phật dạy thì tất cả chúng sanh, kể cả loài cầm thú đều quý
mạng sống, nên để tu tập lòng từ bi, người Phật tử không nên ăn thịt. Những
ngày trai lạt theo đạo Phật thường là mồng một, 14, 15, và 30 âm lịch—In
Buddhism, ideally speaking, Buddhists should be lifetime vegetarians; however,
this is very difficult for lay people. So certain days out of each month are
denoted as a day not to eat meat. The reason behind this is simple. The Buddha
taught that each sentient being, including animals, values life, so not to eat
meat is to practice being compassionate. Vegetarian Days of the month are the
first, the fourteenth, the fifteenth, and the thirtieth lunar
calendar.
2) Ngày trai thất hay ngày cúng
vong—Days of offerings to the dead, ceremonial days.
3) Ngày mà cư sĩ Phật giáo thọ bát quan
trai trong một ngày một đêm: The day lay Buddhists strictly follow the eight
commandments in one day and one night—See Bát Quan Trai Giới.
Trai Pháp:
1) Luật không được ăn sau giờ ngọ—The
rule of not eating after noon.
2) Phép uy nghi của giáo đoàn: The
discipline of the order, or the establishment.
Trai Tăng: Cúng dường chư Tăng hay cúng dường thức ăn đến chư Tăng—To
provide a meal for monks.
Trai Thất: Trai thất hay lũy trai thất là giai đoạn bảy lễ, mỗi lễ
cách nhau bảy ngày cho người vừa quá vãng cho đến hết thời gian 49 ngày (cứ mỗi
bảy ngày lại làm lễ tụng kinh cúng vong một lần gọi là cúng trai thất, tới ngày
mãn “Trung Ấm” tức là ngày thứ 49 mới thôi)—The seven periods of masses for the
dead, during the seven sevens or forty-nine days after death.
**
For more information, please see Hộ Niệm in Vietnamese-English Section.
Trai Thời: Giờ ăn trong tự viện, đặc biệt là giờ ăn trưa, sau giờ đó
Tăng Ni không được phép ăn bất cứ đồ ăn nào ( nhưng có thể uống chất lỏng)—The
regulation hours for monastic meals, especially the midday meal, after which no
food should be eaten; however, they can drink liquid.
Trai Thực: Buổi ăn trưa của chư Tăng Ni; không ăn sau giờ ngọ, chỉ ăn
thực phẩm chay, ngoại trừ những loại có mùi nồng như tỏi hành—The midday meal;
not eating after noon; abstinential food, i.e. vegetarian food, excluding
vegetables of strong odour, as garlic, or onion.
Trai Trì: Trì trai giữ giới, thí dụ như thọ trai đúng thời—To
observe the law of abstinence, i.e. food at the regulation times.
Trai Trường: Nơi ăn hay phòng ăn của tự viện—A dining place in a
monastery.
Trái:
1) Bên trái—On the left.
2) Mặt trái—Wrong side.
3) Nợ: Debt.
4) Quả: Fruit.
5) Sai trái—Wrong.
6) Trái rạ: Chicken pox.
Trái Lại: On the contrary—Converse.
Trái Lệnh: To disobey an order.
Trái Luật: Contrary to the law.
Trái Mắt: To offend the eyes.
Trái Mùa: Untimely.
Trái Nhau: Contradictory.
Trái Phép: Contrary to the law—Unlawful.
Trái Thời: At the wrong moment—Untimely.
Trái Với: Not in line with.
Trải:
1) Trải rộng ra: To spread (lay) out.
2) Từng trải: Experienced.
Trải Lòng Từ: To practice loving-kindness.
Trải Qua: To experience—To spend.
Trải Qua Hằng Sa Kiếp: Spent untold eons.
Trải Qua Thời Gian Lâu: Long time elapsed.
Trạm Nhiên: Vị tổ thứ chín của tông Thiên Thai—The ninth patriarch of
the T’ien-T’ai School—Trạm Nhiên (717-782) là một đại học giả và là người phục
hưng tông phái nầy, bấy giờ đang hồi suy yếu. Một trong những đồ đệ của ông,
Đạo Toại là vị tổ kế tiếp và là thầy của Tối Trừng, tức Truyền Giáo Đại Sư,
sáng tổ của tông Thiên Thai tại Nhật Bản—Chan-Jan (717-782), was a great
scholar and the riviver of the school which was somewhat declining in later
years. One of his pupils, Tao-Sui, was the next patriarch and the teacher of
Saicho, or Dengyô Daishi, founder of the school in Japan.
Tràn: To overflow.
Tràn Lan: To spread (all over the place).
Tràn Trề: Full of (hope)—Intense.
Tràn Vào: To pour in.
Trang:
1) Ngụy trang: To camouflage.
2) Thời trang: Fashion.
3) Trang điểm: To make up.
4) Trang sức: ornament.
Trang Hoàng: Decoration—Ornamentation.
Trang Hương: Để thêm nhang vào lư hương—To put incense into a censer.
Trang Nghiêm: Alamkaraka (skt)—Dùng những thứ hay đẹp để làm đẹp cho đất
nước hay quốc độ, hoặc dùng công đức làm đẹp cho bản thân. Trong cõi Tịnh Độ
của Đức Phật A Di Đà có 29 loại trang nghiêm khác
nhau—Adornment—Ornament—Glory—Honour—To ornate—To adorn, e.g. the adornments of
morality, meditation, wisdom, and the control of good and evil forces. In
Amitabha’s paradise twenty-nine forms of adornment are described—See Nhị Trang
Nghiêm.
Trang Nghiêm Kiếp: Kiếp trang nghiêm huy hoàng trong đó hàng ngàn vị Phật nối
tiếp nhau góp phần làm trang nghiêm (đại kiếp quá khứ trong ba đại kiếp của tam
thế gọi là Trang Nghiêm Kiếp. Trong mỗi đại kiếp có 80 tiểu kiếp, mỗi tiểu kiếp
đều thành lập bởi thành trụ hoại không. Trong 20 tiểu kiếp của trụ kiếp có 1000
vị Phật ra đời, mở đầu là Đức Hoa Quang Như Lai, kết thúc là Phật Tỳ Xá
Phù)—The glorious kalpa (past) to which thousands of Buddhas, one succeeding
another, bring their contribution of adornment.
Trang Nghiêm Kinh: Vyuharaja-Sutra—An exposition of the principal doctrines
of the Tantra school.
Trang Nghiêm Môn: Cổng trang nghiêm tâm linh, đối lại với hình tướng tu hành
bên ngoài, như lễ lạc hay khổ hạnh—The gate or school of the adornment of the
spirit, in contrast with external practices, ceremonies, asceticism, etc.
Trang Nghiêm Vương: Vyuharaja (skt)—Một vị Bồ Tát trong quyến thuộc của Đức
Thích Ca Mâu Ni Như Lai—A bodhisattva in the retinue of Sakyamuni.
Trang Nghiêm Vương Kinh: Vyuharaja sutra (skt)—Tên gọi tắt của Trang Nghiêm Vương
Đà La Ni Chú, giáo thuyết căn bản của Mật giáo—An exposition of the principal
doctrines of the Tantra school.
Trang Nhã: Elegant—Refined.
Trang Tượng: Trang trí cho tôn tượng—To dress an image.
Tráng Kiện: Strong and healthy.
Tráng Lệ: Magnificient—Splendid.
Tràng Hạt: Beads (string of)—Rosary.
Tràng Hoa: Wreath of flowers.
Tràng Phan Bảo Cái: Pennants and banners.
Trạng Huống: Circumstance—Situation—Condition.
Trạng Huống Tâm Linh: Mental stage.
Trạng Huống Thay Đổi: Changing circumstances.
Trạng Thái: State—Condition.
Trạng Thái Căng Thẳng: Stressful situation.
Trạng Thái Tâm Thần: A state of mind.
Trạng Thái Siêu Việt: A supramundane state.
Tranh:
1) Bức tranh: Picture.
2) Cỏ tranh: Thatch.
3) Tranh Đua: To contest—To struggle—To
contend—To compete.
4) Tranh Luận: To debate—To dispute.
Tranh Biện: To discuss—To debate.
Tranh Chấp: Quarrels—To dispute the differences—To provoke arguments.
Tranh Đấu: To struggle—To fight.
Tranh Đoạt: To seize.
Tranh Đua: To compete.
Tranh Giải: To compete (contest) for a prize.
Tranh Giành: To strife.
Tranh Hùng: To fight for supremacy.
Tranh Khôn: To match wits.
Tranh Luận: See Tranh (4).
Tranh Sống: To fight for life.
Tranh Thủ: To struggle—To fight—To dispute.
Tranh Tối Tranh Sáng: In semi-darkness.
Tranh Tồn: To fight for existence.
Tránh: To avoid—To keep out—To move aside.
Tránh Dơ Chọn Sạch: Avoiding the dirty and choosing the clean.
Tránh Khỏi: To avoid—To escape.
Tránh Nhàn Đàm Hý Luận: To avoid idle talk or gossip.
Tránh Nói Dối: To avoid lying.
Tránh Nói Lời Độc Ác: To avoid harsh speech.
Tránh Nói Lưỡi Hai Chiều: To avoid back biting.
Tránh Tà Dâm: Avoid sexual misconduct.
Trao: To give—To pass (by hand).
Trao Đổi: To exchange.
Trao Đổi Ý Kiến: Consultation.
Trao Quyền: To hand over an authority.
Trao Tráo: Wide-open.
Trảo: Móng vuốt—Claws.
Trảo Độ: See Trảo Thượng.
Trảo Độc: Trường Trảo Phạm Chí (của Độc Tử Bộ); người ta nói
rằng những móng tay của ông ta là văn bản và tóc của ông ta là lời thuyết (trảo
chương phát luận)—The long-nailed ascetic Brahmacari of the Vatsiputriyah; it
is said that his nails were a treatise and his hair a discourse.
Trảo Tháp: Tháp thờ móng tay móng chân và tóc của Đức Phật do trưởng
giả Cấp Cô Độc dựng lên. Đây là khởi thủy của việc dựng tháp trong đạo Phật—A
stupa or reliquary, for preserving and honouring the nails and hair of the
Buddha, said to be the first Buddhist stupa raised.
Trảo Thượng: Trảo Độ—Theo Kinh Niết Bàn, số lượng đất mà mình có thể
nhét vào đầu móng chân so với số lượng đất trên toàn thế giới, nó ít ỏi ví như
sự hiếm hoi được tái sanh làm người hay được nhập Niết Bàn—According to the
Nirvana Sutra, the quantity of earth one can put on a toe-nail, i.e. in
proportion to the whole earth in the world, such is the rareness of being
reborn as a human being, or according to the Nirvana Sutra, of attaining
Nirvana.
Trảo Tịnh: Trái cây, một trong năm loại “tịnh thực”—Nail “cleaned,”
i.e. fruit, etc, that can be peeled with the nails, one of the five kinds of
clean food.
Trạo: See Trạo Cử.
Trạo Cử: Những phiền não khiến cho tâm xao xuyến không an
tĩnh—Restlessness—Ambitious—Unsettled.
Trạo Hối: Cái tâm bất mãn hay trạo cử và ăn năn hối hận, cùng với
những phiền não khiến cho tâm không an tĩnh—Discontent and regret, ambition and
ripening.
Trạo Tán: Một trong năm triền cái. Ba nghiệp thân khẩu ý không trong
sạch, thường thích lăng xăng huyên náo (Thân trạo là thích du chơi các trò hài
hước, không ngồi yên tĩnh được lúc nào; khẩu trạo là thích ngâm nga ca hát,
tranh cãi thị phi, làm những cuộc hý luận vô ích bằng những ngôn ngữ thế gian;
ý trạo là tâm tính phóng dật, buông thả cho bám vào chư duyên)—One of the five
hindrances, unsteady in act, word, and thought; unreliable.
Tráp: Cắm vào—To insert—To stick in.
Trau Chuốt: To flatter falsely (in order to sell something).
Trau Dồi (Giồi): To improve (knowledge)—To
enrich—To develop—To cultivate.
Trau Dồi Sự Hoàn Thiện: To cultivate the perfection—A true Buddhist always
cultivates his or her perfection of patience and forebearance.
Trau Dồi Trí Tuệ: To develop one’s mind.
Trắc Ẩn: Pity—Compassion.
Trắc Trở: Difficulty—Obstacle.
Trặc: To be dislocated (joints).
Trăm: Hundred.
Trăm Điều Phiền Lụy: Hundreds of vexations.
Trăm Họ: The people.
Trăm Mối Tà Đạo: Hundreds of heterodox (evil) teachings.
Trăm Mối Ưu Lo: Hundreds of worries and apprehensions.
Trăm Việc Không Lo, Chỉ Lo Niệm Phật: Ignore all distractions and spend all time for reciting
the Budha’s name.
Trằn Trọc: To toss (in one’s sleep).
Trăng: Moon.
Trăng Hoa: Moon and flower (love affair).
Trắng: White.
Trắng Mắt Ra: To be disillusioned.
Trắng Trợn: Bluntly—Plainly.
Trâm Anh: Noble family.
Trầm:
1) Lặn: To sink.
2) Nặng nề: Heavy.
Trầm Đàn: Agaru or Aguru (skt)—Cây trầm hương và chiên đàn
hương—Sandal incense.
Trầm Hương: Agaru (skt)—Aloe wood.
Trầm Không: Rơi vào chấp không (Bồ Tát Đại Thừa ở thất địa vào cuối a
tăng kỳ thứ hai chuyên tu tập vô tướng quán, trên không có Bồ Đề để mà cầu,
dưới không có chúng sanh để mà tế độ. Các Bồ Tát độn căn khiếp nhược chấp trước
vào “không tướng” nầy mà bỏ đại hạnh lợi mình lợi người, nên gọi là thất địa
trầm không nạn)—To sink into emptiness, or uselessness.
Trầm Lặng: Calm—Quiet.
Trầm Luân: Universal suffering—To be overload with misfortune.
Trầm Miên: Deep in sleep.
Trầm Minh: Chìm trong biển sanh tử, tối tăm trong cõi vô minh—Sunk in
the gloom of reincarnations and ignorance.
Trầm Ngâm: Pensive.
Trầm Thủy Hương: Aguru (skt)—A Già Lư, một loại cây mà gỗ của nó được dùng
làm nhang thơm để đốt (lõi chìm gọi là trầm hương, phần chìm một nửa là sạn
hương, phần nổi trên mặt nước thì gọi là hoàng thục hương)—Lignum aloe tree the
wood of which is used as incense.
Trầm Tĩnh: Calm—Cool.
Trầm Trọng: Severe—Serious—Grave.
Trầm Trồ: To praise.
Trầm Tư Mặc Tưởng: Meditation—To be very
thoughtful—Thoughtful—Meditative—To be absorbed in meditation—See Quán Tưởng,
and Thiền.
Trân: Quý báu—Precious—Rare.
Trân Bảo: A pearl—Jewel—Precious thing.
Trân Châu: pearl.
Trân Quý Những Hành Động Thiện Lành: Appreciate one’s wholesome actions.
Trân Trân: To remain motionless.
Trân Trọng: Trân quý như của báu—To esteem and treat as
precious—Respectfully.
Trân Vực: Khu Vực quý báu, hay cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà—The
precious region, or Pure Land of Amitabha.
Trấn:
1) Thị trấn: A market town—A town.
2) Trấn giữ: To guard—To protect—To
watch over.
Trấn Đầu Ca: Tinduka (skt)—Cây Hồng—The persimmon.
Trấn Đầu Ca La: Hai loại trái cây—Two kinds of fruits.
1) Trấn Đầu: Thiện quả—Good fruit.
2) Ca La: Độc quả—Poisoned fruit.
Trấn Định Loạn Tâm: To calm one’s agitated mind.
Trấn Quốc: Tên của ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, chùa tọa lạc trong
thành phố Hà Nội, Bắc Việt Nam. Tương truyền chùa được xây từ thời vua Lý Nam
Đế (544-548), lúc ấy chùa có tên là Khai Quốc Tự. Đến đời vua Lê Thái Tông
(1440-1442), chùa được đổi là chùa An Quốc. Đến đời vua Lê Kính Tông
(1600-1618), chùa được dời vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây, tức địa điểm hiện
nay. Đời vua Lê Hy Tông (1680-1705), chùa được đổi tên là chùa Trấn Quốc. Chùa
hiện còn giữ được 14 tấm bia, đáng kể là hai tấm bia, một của Trạng Nguyên
Nguyễn Xuân Chính dựng năm 1639, và một của Tiến Sĩ Phạm Quý Thích dựng năm
1815. Trong chùa có nhiều pho tượng đẹp, đặc biệt là tượng Phật Thích Ca nhập
Niết Bàn bằng gỗ thếp vàng—Name of the most ancient temples in Vietnam,
located in Hanoi City, North Vietnam. Trấn Quốc is one of the oldest temples in
Vietnam. It was said that the temple was built during the period of Emperor Lý
Nam Đế from 544 to 548, and previously called Khai Quốc Tự. During the period
of Emperor Lê Thái Tông (1440-1442), it was named An Quốc Temple. During the
period of Emperor Lê Kính Tông (1600-1618), it was moved to Cá Vàng islet (the
Gold Fish Islet) in the middle of Tây Lake (West Lake), its present place.
During the period of Emperor Lê Hy Tông (1680-1705), it was renamed again as
Trấn Quốc Tự. The temple has still conserved fourteen stelae of which are
Expert Nguyễn Xuân Chính’s stele built in 1639, and Doctor Phạm Quý Thích in
1815.
Trấn Thủ:
1) See Trấn (2).
2) Vị Thần giữ chùa: A deity who guards
or watchs over a monastery.
Trấn Tĩnh: To control oneself—To settle—To calm.
Trần: Guna (skt).
(I) Nghĩa của Trần—The meanings of “Guna”
1) Theo Phạn ngữ, guna có nghĩa là một
yếu tố phụ, một phần phụ thuộc của ngũ đại, thí dụ như âm thanh là trần và lổ
tai là căn: In sanskrit, guna means a secondary element, a quality, an
attribute of the five elements, e.g. ether has sabda or sound for its guna and
the ear for its organ.
2) Theo Hoa ngữ, trần có nghĩa là một
nguyên tố thật nhỏ: In Chinese it means dust, small particles, molecules,
atoms, exhalations. It may be interpreted as an atom, or as an active,
conditioned principle in nature, minute, subtle.
3) Nói chung “trần” chỉ tất cả sự vật
trong thế gian làm nhơ bẩn chân tính: Generally speaking defiling to pure mind;
worldly; earthly, the world.
4) Trần có nghĩa là một đối tượng của
giác quan hay đối tượng của tâm: Arammana (p)—Alambana (skt)—Also means an
object of sense or object of the mind—See Lục Trần.
5) Trần còn có nghĩa là phạm vi, lãnh
vực, sự thích thú của giác quan hay đối tượng giác quan: Visayo (p)—Vishaya
(skt)—The realm, domain, or indulgence of the senses or an object of senses—See
(II) Phân loại “trần”—Categories of “guna”
1) Ngũ Trần: The objects of the five
senses.
2) Lục Trần: The six objects—See Lục
Trần.
Trần Ai: Dust.
Trần Biểu: Bên ngoài của thế giới trần tục hay giáo thuyết nhà
Phật—Outside of the secular, i.e. the doctrine of Buddha.
Trần Cảnh:
1) Bụi trần: Worldly dust.
2) Hoàn cảnh xung quanh:
World—Environment.
3) Cái đối lại với tâm sở của lục trần
như sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp (do trần cảnh tác động vào sáu căn mà
làm cho mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân thể đụng chạm, và ý suy
xét): The environment of the six gunas or qualities of sight, sound, smell,
taste, touch, and thought.
Trần Cấu: Tên gọi chung của phiền não (cảnh trần nhơ bẩn nhập vào
căn làm cho thân tâm nhơ bẩn mà gây nên phiền não)—Material, or phenomenal
defilement; the defilement of the passions.
Trần Châu: Các thế giới nhiều như những nguyên tử hay cát bụi—Worlds
as numerous as atoms.
Trần Dục: Dục vọng liên hệ tới lục trần—The desires connected with
the six gunas.
Trần Duyên: Cảnh của lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) là
những sở duyên làm nhơ bẩn tâm tính; hay sự phối hợp giữa lục căn và lục trần,
mà lục trần là yếu tố chính—The circumstances or conditions environing the mind
created by the six gunas. Conditioning environment and natural powers in which
environment plays a main role.
Trần Đạo: Cõi uế độ (theo tông Hoa Nghiêm, trong từng hạt bụi của
thập phương hư không đều có thế giới gọi là thế giới trần đạo, tức là ở mỗi đầu
sợi lông đều có thế giới, có Phật)—The dusty path, the phenomenal world, or
worlds.
Trần Điểm Kiếp: Còn gọi là Kiếp Giọt Bụi—Một kiếp vô tận không thể tính
đếm được (có hai loại: 3.000 trần điểm kiếp và 5.000 trần điểm kiếp)—A period
of time as impossible of calculation as the atoms of a ground-up world, an
attempt to define the indefinite.
Trần Hương: Quê hương của lục trần hay cõi luân hồi sanh tử—The native
place or home of the six gunas, i.e. that of transmigration.
Trần Khí Dược: Còn gọi là Hủ Lạn Dược, hay loại thuốc thối rữa (Các nhà
cựu luật Nam Sơn dựa vào Tăng Kỳ Luật mà cho rằng đây là nước tiểu và
phân)—Purgative medicines.
Trần Lao:
1) Làm việc vất vả mệt nhọc: Worldly toil—Dusty toil—Secular work.
2) Tên khác của phiền não: Another name
for illusion, the trouble of the world, the passions.
Trần Lụy:
1) Những khổ lụy của cuộc đời: Pains of
life.
2) Nghiệp của dục vọng làm rối loạn tâm
trí: The passion-karma which entangles the mind.
Trần Na: Dignaga, or Dinnaga (skt).
1) Tên một vị Bồ Tát, còn gọi là Đồng
Thọ hay Vực Long, người miền nam Ấn Độ, sanh ra trong một gia đình Bà La Môn.
Lúc đầu ngài tu theo Độc Tử Bộ (Vatsiputriya), rồi sau tự mình ngã theo giáo lý
Đại Thừa. Lúc ngài lưu lại đại tu viện Na Lan Đà, ngài đã đánh bại lý luận của
một nhà luận lý nổi tiếng Bà La Môn tên là Sudurjaya trong một cuộc tranh luận
tôn giáo. Ngài cũng chu du đến Odivisa (Orissa) và Maharattha và có các cuộc
tranh luận với các học giả ở đây. Ngài là một đại luận sư về Nhân Minh Chính
Lý, vào khoảng từ năm 500 đến 550 sau Tây Lịch. Ngài là sơ tổ của tông Nhân
Minh. Trong lịch sử luận lý học của Phật giáo, tên tuổi của Trần Na chiếm một
vị trí nổi bật. Ngài là người sáng lập ra lý luận Phật giáo, được gọi là cha đẻ
của luận lý học Trung cổ. Ngài được xem là tác giả của khoảng trên 100 bộ luận
về luận lý học. Hầu hết các bộ luận nầy hiện còn được lưu lại qua các bản dịch
chữ Hán. Theo Nghĩa Tịnh thì những bộ luận của Trần Na được dùng làm sách giáo
khoa về lý luận vào thời của ông. Trong số các tác phẩm quan trọng của Trần Na
có cuốn Tập Lượng Luận (Pramanana-samuccaya), tác phẩm vĩ đại nhất của ngài,
Nhân Minh Nhập Chính Lý Luận (Nyaya-pravesa), và nhiều bộ khác: A native
southern India, in a Brahmin family. He was the great Buddhist logician, around
500-550 A.D., founder of the new logic. In the history of Buddhist logic, the
name of Dinnaga occupies a pre-eminent place. He is the founder of Buddhist
logic and has been called the Father of Medieval Nyaya as a whole. He was first
a Hinayanist Buddhist of the Vatsiputriya sect and later devoted himself to the
teachings of Mahayanism. When he stayed at the Nalanda Mahavihara, he defeated
a Brahmin logician named Sudurjaya in a religious discussion. He also toured
the provinces of Odivisa (Orissa) and Maharattha, holding religious contests
with scholars. Dinnaga is credited with the authorship of about a hundred
treatises on logic. Most of these are still preserved in Chinese translations.
I-Ch’ing says that Dinnaga’s treatises on logic were read as text-books at the
time of his visit to India. Among the most important works of Dinnaga are the
Pramanana-samucaya, his greatest work, theNyaya-pravesa, the Hetucakra-damaru,
the Pramana-sastra-nyayapravesa, the Alambana-pariksa and several others.
2) Còn được biết như là bậc lướt thắng
tất cả, đây cũng là danh hiệu của Đức Phật: He is also known as Jina, the
victorious, the overcomer, a title of a Buddha.
Trần Na La: Dinara (skt)—Đồng tiền Đi Na của các xứ Trung Đông—A
coin—A gold coin (used in the Middle-East countries).
Trần Nhân Tông (1258-1308): Theo Thiền Sư Việt Nam của Thiền sư Thích
Thanh Từ, Ngài sanh năm 1258, con Vua Trần Thái Tông. Lúc thiếu thời Ngài được
vua cha cho theo học thiền với Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngày nọ Ngài hỏi Thầy
về bổn phận của một người tu thiền. Tuệ Trung đáp: “Phản quang tự kỷ bổn phận
sự, bất tùng tha đắc.” Có nghĩa là hãy soi lại chính mình là phận sự gốc, chứ
không từ bên ngoài mà được. Từ đó Ngài thông suốt và tôn Tuệ Trung Thượng Sĩ
làm thầy. Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Trần Nhân
Tông. Khi quân Mông Cổ xâm lăng nước ta, ngài đích thân cầm quân diệt giặc, đến
khi thái bình Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, rồi lui về thực tập
thiền với Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Tuy nhiên, lúc ấy Ngài vẫn còn làm cố vấn
cho con là vua Trần Anh Tông. Đến năm 1299, Ngài rời bỏ cung điện để đi vào ẩn
tu như một nhà tu khổ hạnh trong núi Yên Tử. Nơi đây Ngài thành lập Tăng đoàn
và khuyên họ nên lấy câu dạy của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ mà tu hành. Ngài được
tôn làm Sơ Tổ của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử—According to the Vietnamese Zen
Masters written by Zen Master Thích Thanh Từ, he was born in 1258 A.D., son of
King Trần Thánh Tông. When he was young, his father sent him to practice Zen
with Zen Master Tuệ Trung Thượng Sĩ. One day he asked his Master about
the obligation of a Zen practitioner. Tuệ Trung responded: “Looking inward to shine
up oneself is the main duty, not following anything outward.” Since then, he
thoroughly understood his duty as a Zen practitioner and honored Tuệ Trung as
his master. He became King when he was twenty-years of age. When the Mongolian
invaded Vietnam in 1283 and 1287, he led his armed forces to bravely defeat the
Mongolian aggressors. When the peace restored, he relinquished the throne to
his son in 1293, and spent more time to practice Zen with Tuệ Trung Thượng
Sĩ. However, he still tutored his son, the young king Trần Anh Tông. In
1299 he left the royal palace to go to Yên Tử Mountain, living and practicing
as an ascetic monk. Here he organized the Sangha and advised them to
follow the advice of Tuệ Trung Thượng Sĩ to lead their life of cultivation. He
was honored as the First Patriarch of Trúc Lâm Yên Tử Zen Sect.
Trần Sa: Nhiều vô số kể như bụi trần và cát. Một trong ba mê
hoặc mà Tông Thiên Thai lập ra gọi là trần sa, hay những chướng ngại mà Bồ Tát
gặp phải trên đường giáo hóa chúng sanh nhiều vô số kể; còn có nghĩa là pháp
môn mà Bồ Tát dùng để giáo hóa chúng sanh thông đạt có nhiều như cát bụi (nhưng
chúng sanh tâm trí mê muội không thể thông đạt mà cứ tiếp tục lăn trôi trong
luân hồi sanh tử)—Dust and sand, i.e. numberless as the atoms. T’ien-T’ai uses
the term as one of the three illusions, i.e. the trial of the Bodhisattva in
facing the vast amount of detail in knowledge and operation required for his
task of saving the world—See Tam Hoặc.
Trần Sa Hoặc: Delusion of “dust and sand.”
Trần Sát: Gunaksetra (skt).
1) Vô số thế giới như vô số nguyên tử
hay bụi trần: Innumerable worlds as innumerable atoms (dust).
2) Cõi nước: Field of
qualities—Countries.
3) Tội lỗi: Certain sins.
Trần Thái Tông (1218-1277): Ông sanh năm 1218, là vị vua đầu đời nhà Trần.
Ông lớn lên trong truyền thống văn hóa Phật Giáo. Lúc còn là ấu chúa, tâm ông
vô cùng sầu thảm vì đã từng chứng kiến cảnh Quân Sư Trần Thủ Độ, để củng cố chế
độ mới, đã thẳng tay tàn sát không gớm tay những đối thủ chính trị, kể cả những
người bà con bên phía vợ của vua (nhà họ Lý). Vào năm hai mươi tuổi, một lần
nữa Trần Thủ Độ bắt ép ông phế bỏ Lý Chiêu Hoàng vì bà nầy không sanh đẻ được,
rồi bắt ông lấy chị dâu (vợ của Trần Liễu). Một ngày năm 1238, ông rời bỏ cung
điện để đến chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử xin tu. Thiền Sư Viên Chứng, đang trụ
trì tại đây bèn nói: “Lão Tăng ở lâu nơi sơn dã, chỉ còn da bọc xương, cuộc
sống giản đơn và tâm hồn tự tại như chòm mây nổi. Còn Bệ Hạ là một đấng quân
vương, chẳng hay Ngài bỏ ngôi nhân chủ, đến tệ am nơi hoang dã nầy để làm gì?”
Vua đáp: “Trẫm còn thơ ấu đã vội mất song thân, bơ vơ đứng trên sĩ dân, không
chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước thịnh suy không
thường, cho nên Trẫm đến núi nầy chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác.” Vì
lòng từ bi mà Thầy nói: “Nếu tâm mình tỉnh lặng, không bị dính mắc, thì tức
khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài. Ngày hôm sau, Thủ Độ và đoàn tùy
tùng đến thỉnh nhà vua hồi cung. Vua lại quay sang Thiền Sư Viên Chứng khẩn
khoản khuyên lơn. Sư đáp: “Phàm làm đấng quân vương, phải lấy ý muốn của thiên
hạ làm ý muốn của mình; lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ
muốn đón Bệ Hạ trở về, bệ hạ không về sao được? Ta chỉ mong sao Bệ hạ đừng quên
lãng việc nghiên cứu kinh điển.” Vua không còn cách nào khác hơn là quay về
tiếp tục trị dân. Năm 1257, khi quân Mông Cổ xâm lăng nước ta lần thứ nhất,
đích thân nhà vua thân chinh dẹp giặc. Tuy nhiên, sau khi đuổi xong quân Mông
Cổ, ông nhận thấy hàng vạn người đã bị sát hại, ông bèn tu tập sám hối lục thời
(mỗi ngày sáu thời sám hối). Ông cũng viết nên quyển “Nghi Thức Lục Thời Sám
Hối” cho người tu tập. Đến năm 1258, ông nhường ngôi lại cho con là vua Thánh
Tông. Trong Khóa Hư Lục, vua Trần Thái Tông đã dạy rằng mọi người đều phải nên
hành trì ngũ giới và sám hối tội chướng. Trong Khóa Hư Lục, ông đã viết: “Muốn
di chuyển thoải mái trên đường bộ hay đường sông, người ta phải dùng toa xe hay
thuyền đò. Muốn rửa sạch thân tâm, người ta phải luôn tu hành sám hối như Kinh
đã dạy, dù mặc áo dơ đến cả trăm năm, mà chỉ cần giặt một ngày là áo sạch. Cũng
như vậy, dù người ta chịu khổ vì ác nghiệp chồng chất hàng trăm ngàn kiếp, chỉ
với một lần thực dạ sám hối, tội chướng có thể được rửa sạch trong một giờ hay
một ngày.” Ông mất năm 1277—He was born in 1218, was enthroned as the first
king of the Trần Dynasty. He grew up in the Buddhist culture. As the
child-king, he was deeply sorrow when he witnessed his uncle as well as his
chief political advisor, Trần Thủ Độ, conducted a total massacre towards all
political opponents, including the king’s in-law, in order to consolidate the
new dynasty. When he was twenty years old, his uncle, Thủ Độ, once again
ordered him to degrade Lý Chiêu Hoàng because she could not conceive, to
remarry his sister-in-law Thuận Thiên who was marrying and pregnant with his
elder brother Trần Liễu. He was so disappointed. On night in 1238, he fled the
palace to the Hoa Yên temple on Mount Yên Tử. Zen Master Viên Chứng, the abbot
of the temple, asked the king of what he was loking for by saying: “As an old
monk living too long in this wild mountain, I am bony and skinny, my life is
simple and my mind is peaceful as a piece of cloud floating with the wind. And
Your Majesty, as a king deserting the throne and coming to this poor temple in
the wilderness, what is your expectation?” The king replied: “As young age, my
both parents were passed away. I’m now so lonely of being above of the people,
without places for refuge. Also thinking of the past that no kingdom remains as
long as expected. I’d like to come here and practice to become a Buddha rather
than anything else.” With compassion, the master advised: “There is no Buddha
in this mountain. Buddha is only existed in one’s mind.” If the mind is calm
and free of bondage, wisdom will display, and that is the true Buddha. Whe Your
Majesty realizes it, you’re a Buddha immediately. Don’t waste your time and
energy of looking for it from the outside world.” The next day, Thủ Độ and his
entourage came up and requested that the Majesty return to the throne. The king
again turned to the master for advise. The master replied: “Generally, being a
sovereign, one must consider people’s wishes as his, as well people’s mind as
his. Now the people request Your Majesty return, you can’t repsonde negatively.
My only wish that Your Majesty continue to study the Buddha teaching.” The King
had no choice but returned to his throne. In 1257, the king led his armed
forces to fight against and defeated the invasive Mongolian. After the war, he
realized that tens of thousands of lives of the enemy had been annihilated,
thus he consistently practiced “Repentance six times a day.” He also wrote a
“Guide to Six Times of Repentance” with all rituals for everyone to practice.
In 1258, the king stepped down and reliquished the throne to his son Thánh
Tông. In the Book of Emptiness, the king explained why one should observe five
precepts and cultivation of repentance. He emphasized the importance of
repentance in His Book of Emptiness as follows: “To move conveniently on the
road or along the river, one needs utilize a wagon or a boat. To effectively
cleanse the body and mind, one must exercise repentance. As said the sutra,
‘Though a dress be dirty for hundreds of years, if cleansed, it would be clean
within one day. Similarly, if one suffers a bad karma accumulated over a
hundred or thousand lifetimes, with earnest repentance one could clear up
within an hour or a day.” He passed away in
1277.
Trần Thánh Tông (1240-1290): Ngài sanh năm 1240, con vua Thái Tổ nhà Trần
là Trần Thái Tông. Lên ngôi vua năm 1258. Ngài theo học Thiền với Đại Đăng, vị
Quốc Sư dưới thời vua cha của ngài. Vua Thánh Tông là người đã thông đạt và
giác ngộ lý thiền ngay từ khi ngài còn là quân vương, chứ ngài không tìm nơi
non cao rừng vắng, mà ngự tại triều đình vẫn ngộ đạo. Trong Thánh Đăng Lục,
ngài đã nói: “Sau ba mươi năm đập ngói, dùi rùa, đổ mồ hôi xót con mắt để tập
thiền; một khi thấu vỡ gương mặt thật, mới biết lỗ mũi xưa nay mất hết một bên.”
Qua đó chúng ta thấy Vua Thánh Tông cũng như nhiều vị Thiền sư khác, sau ba
mươi năm với đủ cách tu tập, kể cả việc đập ngói hay vùi mai rùa để cố tìm ra
Phật tánh, nhưng khi chứng ngộ, ngài mới thấy mình đã mất đi một bên mũi. Vua
Thánh Tông nói về Thiền như sau: “Thiền là dụng của chân tâm tỉnh tỉnh lặng
lặng, không đi không đến, không thêm không bớt, dù lớn hay dù nhỏ, nó thích hợp
với mọi nơi, mọi người, dù bạn hay dù thù. Thiền có thể động như mây, tĩnh như
tường bích; nó có thể nhẹ như lông, hay nặng như đá; nó có thể phơi bày lồ lộ
hay ẩn kín không dấu vết. Quả thật, theo vua Thánh Tông, thì tu thiền không trở
ngại mọi công tác ở thế gian, như vậy có ai mà không tu được. Đây là một bằng
chứng Thiền Học đời Trần rất tích cực—He was born in 1240 A.D., son of the
first King of the Tran Dynasty, King Trần Thái Tông. He studied Zen with Zen
Master Đại Đăng, who was the National Teacher under his father. King
Thánh Tông penetrated the essence of Zen doctrine and enlightened while he was
still a king. He needed not travel to a remote area on a mountain or in the
jungle to practice Zen. In the King’s Book of Records, he said: “After thirty
years of breaking tiles and drilling tortoise, being perspired for many
instance of Zen practicing; once penetrated and realized the original face, the
two nostrils in the past suddenly lost one.” Through this, we see that
the king as well as some other Zen practitioners in the past, had tried all
possible ways including breaking tiles and drilling turtle shells in order to seek
the Buddha nature. However, after the penetration of the Way, only one nostril
was left. Regarding the meditation, King Thánh Tông said in his King’s
Book of Records: “The manifestation of the true mind is always calm and quiet.
It is not going or coming; not increasing or diminsihing. It fits everywhere no
matter how large or small. It satisfies everyone, friend or foe. It might move
on as fast as a piece of cloud, or stand still as solid as a wall. It can be as
light as a feather, or as heavy as a chunk of rock. It may display itself
completely, or conceal itself without leaving a trace. To the king, apparently,
the practice of meditation does not interfere with any activities in daily
life. To the contrary, it helps people accomplish their duties and fulfill
their lives in a much better way.
Trần Thế: Worldly—Worldliness.
Trần Tình: To make known of one’s feelings.
Trần Tôn Túc Đạo Minh Thiền Sư: Zen Master Chen-Tzun-Tsu—Thiền Sư Đạo Minh sanh năm 780,
đệ tử của Hoàng Bá—Zen master T’ao-Ming was born in 780, was a disciple of
Huang-Bo.
· Một hôm tham vấn buổi chiều, sư bảo
chúng: “Các ngươi lại được chỗ bước vào chưa? Nếu chưa được chỗ bước vào, cần
được chỗ bước vào, nếu đã được chỗ bước vào, về sau chớ cô phụ lão Tăng.” Có
một vị Tăng bước ra lễ bái thưa: “Con trọn chẳng dám cô phụ Hòa Thượng.” Sư
bảo: “Ngươi trước đã cô phụ ta rồi.”—One day, Zen master T’ao-Ming said to his
congregation: “Has any one of you gained an entrance? If you haven’t gained an
entrance then that’s what you must do. If you gain an entrance then you won’t
show ingratitude toward me.” A monk bowed and said: “I don’t dare have
ingratitude toward you.” T’ao-Ming said: “You’ve already shown
ingratitude.”
· Sư lại bảo: “Lão Tăng trụ trì ở đây
chẳng từng thấy một người vô sự đi đến. Các ngươi sao chẳng lại gần?” Có một vị
Tăng mới bước lại gần. Sư bảo: “Duy Na chẳng có ở đây, ngươi tự lãnh hai mươi
gậy đi ra ngoài ba cửa.” Vị Tăng thưa: “Con lỗi ở chỗ nào?” Sư bảo: “Đã đeo
còng lại mang gông.”—T’ao-Ming said: “Since I’ve been abbot, I’ve never seen
someone without an issue come before me. Why can’t one of you come forward?” A
monk then came forward. T’ao-Ming said: “The Temple director isn’t here. So
take yourself out the front gate of the monastery and get twenty hits with the
staff.” The monk said: “What did I do wrong?” T’ao-Ming said: “Your head’s
already in a cangue and now you’ve put on manacles.”
· Một hôm sư đang đứng ngoài hành
lang, có vị Tăng đến hỏi: “Phòng Trần Tôn Túc ở chỗ nào?” Sư liền cởi giày, đè
đầu vị Tăng ấy đập. Vị Tăng ấy chạy. Sư gọi: “Đại Đức! Tăng xoay đầu nhìn lại.
Sư chỉ bảo: “Đi bên này.”—One day T’ao-Ming was standing on a corridor path in
the monastery. A monk came up to him and asked: “Where is abbot T’ao-Ming’s
room?” T’ao-Ming took off a sandal and hit the monk on top of the head. The
monk walked off. T’ao-Ming yelled: “Worthy!” The monk turned his head.
T’ao-Ming pointed and said: “It’s that way!”
· Có vị sứ thần đến viếng. Sứ thần
hỏi: “Ba cửa đều mở, từ cửa nào vào?” Sư gọi: “Thượng Thơ.” Sứ thần lên tiếng:
“Dạ!” Sư bảo: “Từ cửa tín vào.” Sứ thần nhìn lên vách thấy tượng vẽ, hỏi: “Hai
tôn giả đối mặt luận việc gì?” Sư gõ cây cột nói: “Trong ba thân cái nào chẳng
nói pháp?”—A ‘purple robed’ worthy came to visit T’ao-Ming. When he bowed,
Ta’o-Ming grabbed the string that hung from his hat and said: “What is this
called?” The monk said: “It’s called a facing heaven hat.” T’ao-Ming said: “Oh,
in that case I won’t pull it off.” Ta’o-Ming also said: “What doctrine do you
expound?” The monk said: “The consciousness-only doctrine.”
· Sư lại hỏi: “Nói thế nào?” Đại Đức
đáp: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.” Sư chỉ cánh cửa hỏi: “Cái ấy là
gì?” Đại Đức đáp: “Sắc pháp.” Sư bảo: “Trước rèm ban tử y, đối vua thuyết pháp,
tại sao không giữ năm giới? Đại Đức không đáp được—T’ao-Ming said: “What do you
say of it?” The monk said: “The three worlds are only mind. The myriad dharmas
are only consciousness.” T’ao-Ming pointed to the door screen and said: “What’s
that?” The monk said: “A form dharma.” T’ao-Ming said: “In front of the screen
you received the purple robe and expounded scripture to the emperor. Why can’t
you uphold the five precepts?” The monk couldn’t answer.
· Vào năm 877, lúc sư sắp tịch gọi môn
đồ lại nói: “Nơi đây hết duyên, ta sẽ đi vậy, rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ
98 tuổi được 76 tuổi hạ—In 877 A.D. when T’ao-Ming was near death, he summoned
the monks and said: “My karma is exhausted. I’m dying.” He then sat in a
cross-legged position and passed away. The master was ninety-eight years old
and had been a monk for seventy-six years.
Trần Trần Sát Độ:
1) Vô số quốc độ: Numberless lands.
2) Trong mỗi hạt vi trần, chứa cả một
thế giới: In every grain, or atom, there is a whole realm.
Trần Trần Tam Muội: Trong một vi trần nhập vào nhất thiết tam muội gọi là trần
trần tam muội (theo Kinh Pháp Hoa, trong một vi trần nhập vào tam muội, thành
tựu nhất thiết vi trần định, mà vi trần đó cũng không tăng lên, đối với từng
phổ hiện khó suy tính hết)—According to the Lotus Sutra, the samadhi in which,
in a moment of time, entry is made into all samadhis.
Trần Tục: Human life—World.
Trần Võng: Lưới lục trần làm vướng mắc lục căn—The net of the six
gunas, i.e. those connected with the six senses.
Trần Vọng: Không sạch là trần, không thực là vọng; trần vọng ám chỉ
tất cả cảnh giới sinh tử—Impure and false, as are all temporal things.
Trâng Tráo: Shameless.
Trật Tự: Order.
Trây Lười: Laziness.
Treû: Young.
Treo:
1) Treo vật gì: To hang up—To suspend.
2) Án treo: Sentence with reprieve.
Treo
Gương: Nêu gương—To set (give) an
example.
Treo
Ngược: To hang upside down.
Tréo: To cross.
Trèo: To climb—To climb over.
Trèo
Đèo Lặn Suối: Up hills and down dales.
Trẹo
Cổ: Trặc cổ—To crick (wrick) one’s
neck.
Trễ:
1) Trễ giờ: Tardy—Late.
2) Trễ xe: To miss (the bus, train or
boat).
Trệ: Đình trệ—In suspense.
Trên:
1) Bên trên: On (land)—Upon.
2) Trên tuổi: Over (years of
age)—Above.
3) Tầng trên: Up (stairs).
Trên
Đường Hành Đạo: While treading the way.
Trên
Trời: In the sky.
Trêu: To annoy—To provoke—To irritate—To tease.
Tri:
· Biết: Vijna (skt)—To know.
· Biết: Jnanam or Jnapti
(p)—Knowing—Understanding—Learning—Apprehension.
Tri
Ân: To be grateful.
Tri Căn:
1) Ngũ căn: Five organs of perception.
2) Bồ Tát biết rõ căn cội và khả năng
của chúng sanh nên không còn sợ hãi—To know the roots or capacities of all
beings as do Bodhisattva; therefore, they have no fear.
Tri Đạo: Người biết đạo cứu độ chúng sanh—One who knows the path to
salvation.
Tri Đạo Giả: Người biết con đường cứu độ chúng sanh, một danh hiệu của
Đức Phật—The one who knows the path to salvation, an epithet of the Buddha.
Tri Điện: Vị Tăng chăm sóc điện thờ Phật—The warden of a
temple—Supervisor of the Buddha Hall.
Tri Giả: Thể của thần ngã trong thân thể con người có thể biết được
sự vật—The knower, the cognizer, the person within who perceives.
Tri Giác: Consciousness—Perception—Apprehension.
Tri Hành: To know and to execute.
Tri Hô: To shout for help.
Tri Hữu: Close friend.
Tri Kỷ: Friend in need.
Tri Khách: Vị Tăng coi về việc tiếp khách—The director of guests in a
monastery—Guest supervisor.
Tri Khố: Khố Đầu—Người trông coi kho của tự viện—The bursar of a
monastery.
Tri Khổ Đoạn Tập: Biết được cái khổ của sống chết quả báo thì phải đoạn trừ
các nhân duyên tạo ra các mối khổ—To know the dogma of suffering and be able to
cut off its accumulation.
**
For more informatio, please see Tứ Diệu Đế.
Tri
Kiến: Nanam (p)—Jnana (skt)—Biết khi
thấy—Wisdom—Knowledge—To know by seeing—The function of knowing—becoming
aware—Intellection—Views—Doctrines.
· Tri kiến: Trí thông thường của thế
gian—Ordinary world knowledge.
· Biết: Trí tương đối: Knowledge of
relativevity.
· Trí thù thắng: Transcendental
knowledge.
Tri Kiến Ba La Mật: Parajnaparamita (skt)—Trí Tuệ Bát Nhã—Wisdom paramita.
Tri Kiến Bất Nhị: Advaya-jnatritva (skt)—Tri kiến không nghĩ đến nhị
biên—Nondualistic knowledge (the knowledge without thinking of extremes)—The
knowledge of non-duality.
Tri Kiến Phật: Buddha-jnana (p)—Tri kiến Phật hay sự hiểu biết thuần tịnh
hay cái thấy của tánh giác—Buddha’s knowledge.
Tri Kiến Tâm Linh: Spiritual knowledge.
Tri Kiến Thanh Tịnh: Purification by Knowledge and Vision—See Tứ Thánh Quả (B).
Tri Kiến Thế Tục: Worldly knowledge.
Tri Kiến Trực Giác: Cintamaya-panna (p)—Intuitional knowledge.
Tri Kiến Vô Ngôn: Nonverbal knowledge.
Tri Lễ:
1) Biết nghi thức lễ lạc: Knowing the
right modes of respect or ceremonial.
2) Tri Lễ tức ngài Pháp Trí Tôn giả,
một danh Tăng vào thế kỷ thứ mười đời Tống. Người đời sau gọi ngài là đại sư Tứ
Minh (tên của tự viện nơi ngài trụ trì). Sư là một đệ tử của tông Thiên
Thai—Chih-Li, name of a famous tenth-century monk of the Sung dynasty,
Ssu-Ming, so called after the name of his monastery, a follower of the
T’ien-T’ai school.
Tri Liêu: Người trông nom phòng ốc trong tự viện—The warden of the
monasterial abodes.
Tri Luận: Tên khác của Bát Nhã—Another name for the
prajnaparamita.
Tri Lực: Comprehension.
Tri Ngộ: Biết nhau và tiếp đãi nhau chu đáo—To know and to treat
each other well.
Tri Nhứt Thiết Chúng Sanh Trí: Trí huệ Phật biết tất cả nghiệp của chúng sanh—The
Buddha-wisdom which knows the karma of all beings.
Tri Nhứt Thiết Pháp Trí: Trí huệ Phật hiểu biết vạn hữu và phương cách cứu độ—The
perfect understanding of omniscience regarding the laws of universal
salvation—The Buddha-wisdom of knowing everything or method of salvation.
Tri Nhứt Thiết Thế Gian Trí: Toàn trí—The perfect understanding of omniscience
regarding all living beings.
Tri Pháp:
1) Tri Pháp Hiển Giáo: Người biết được
các nghĩa thâm sâu của kinh điển—In the exoteric sects, to know the deep
meaning of the sutras.
2) Tri Pháp Mật Giáo: Người biết được
sự tướng bí mật—In the esoteric sects, to know the mysteries.
Tri Quá: To know one’s fault.
Tri Sự: Karmadana (skt)—Vị sư chăm sóc hết mọi sự trong tự viện,
chỉ dưới quyền vị sư trụ trì—The director (manager) of affairs in a monastery,
next below the abbot (whose office locates on the east side of the monastery).
Tri Sự Đầu Thủ: Tri sự và Đầu thủ, hai dịch Tăng trong tự viện—Two
co-directors in a monastery, one on the east and the other on the west side of
the monastery.
1) See Tri Sự.
2) See Đầu Thủ.
Tri Thế Gian: Lokavid (skt)—Lô Ca Bị—Người biết hết các pháp của thế
gian, một trong mười danh hiệu của Đức Phật—One who knows the world, one of the
ten characteristics of a Buddha.
Tri Thức:
1) Hiểu Biết:
Knowledge—Learning—Perception—To know and perceive.
2) Những tư tưởng sai lạc của người
chưa giác ngộ: False ideas produced in the mind by common or unenlightened
knowledge.
3) Những người mình quen biết: A
friend—An intimate—Acquaintance.
Tri Thức Bất Toàn: Imperfect intellection—Đức Phật dạy: “Vô minh bị chất chứa
càng lúc càng nhiều them do bởi cái tri thức bất toàn từ vô thỉ là nguồn gốc
của tâm.”—The Buddha taught: “Ignorance accumulated over and over again owing
to imperfect intellection since the infinite past is the origin of the
mind.”
Tri Thức Chúng: A body of friends, all you friends.
Tri Thức Hữu: Thiện hữu tri thức—Người bạn thân thiết có thể giúp chúng
ta thông hiểu chân lý—A friend or an intimate who can help us to understand the
truth—For more information, please see Thiện Hữu Tri Thức in Vietnamese-English
Section.
Tri Thức Luận: Epistemological questions—Về tri thức luận, Phật giáo
không bàn đến nhiều như các triết học khác. Đối với nguồn gốc của nhận thức,
Phật giáo nhìn nhận có thế giới của cảm giác hay thế giới hiện lượng
(Pratyaksa-pramana); thế giới của suy luận hay thế giới tỷ lượng (Anumana); thế
giới của trực giác thuần túy hay thế giới thiền định (dhyana). Như vậy, các
giác quan, lý tính và kinh nghiệm nội tại sẽ cung ứng cho nội dung của tri
thức. Ngoài ra, bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể viện tới Thánh Giáo
Lượng (Agama) tức ngôn ngữ được phát ra từ thế giới của giác ngộ viên mãn
(Bodhi), nghĩa là ngôn ngữ của Phật, đấng giác ngộ—Concerning epistemological
questions, Buddhism has much more to say than any other philosophy. As
sources of cognition Buddhism recognizes the world of sensation
(Pratyaksa-pramana), the world of inference (anumana) and the world of pure
intuition (dhyana). Thus sense-data, reason and inner experience resulting from
intuition will all provide the content of knowledge. Besides these we can
appeal in every case to the Word that has been uttered from the world of
perfect enlightenment (Bodhi), i.e., the Buddha (the Enlightened).
Tri Tình: To know the situation.
Tri Túc:
· Biết đủ và thỏa mãn với những gì
mình có ngay trong lúc nầy. Tri túc là đặc điểm của hạnh phúc cá nhân. Phàm phu
thường nghĩ rằng tri túc rất khó trau dồi và phát triển. Tuy nhiên, nếu chúng
ta kiên trì dũng mãnh, và quyết tâm kiểm soát những tư tưởng bất thiện cũng như
hậu quả gây ra do bởi không biết tri túc, thì chúng ta sẽ cảm thấy luôn hạnh
phúc với những gì mình đang có. Đối với những người có trí tuệ, biết quyền
biến, tháo vát, khéo an nhẫn với cảnh đời, biết suy cùng nghĩ cạn, thì trong
cảnh ngộ nào cũng vẫn an nhiên bình thản. Với hoàn cảnh giàu sang thì biết đủ
theo cảnh giàu sang, với cảnh nghèo hèn thì biết đủ theo nghèo hèn. Thật vậy,
trong đời sống hằng ngày, chúng ta làm đủ cả mọi việc, suy tính đủ mọi phương
cách, chước mầu, thậm chí đến việc không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, miễn sao
cho mình được lợi thì thôi, còn thì tổn hại cho ai cũng không cần nghĩ đến. Thử
hỏi chúng ta làm như vậy để chi? Chẳng qua là để có cuộc sống tốt đẹp hơn, ăn
mặc, nhà cửa, cất chứa tiền bạc nhiều hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ chúng ta sẽ thấy
mặt trời mọc, đứng bóng, rồi lặn và biến mất về đêm; trăng đầy rồi khuyết, rồi
mất hẳn ánh sáng; gò cao đổi thành vực thẳm, biển cả hóa nương dâu, vân vân.
Cuộc đời xưa nay thịnh suy, đắc thất, vinh nhục, bổng trầm, còn mất, hợp tan,
chỉ là lẽ thường chớ đâu có gì được tồn tại mãi, tất cả rồi cũng về với hư không.
Thế nên người trí phải luôn biết tri túc với hoàn cảnh hiện tại—Satisfy with
what we have at this very moment—Satisfaction. Contentment is a characteristic
of the really happy individual. The ordinary people seem to think that it is
difficult to cultivate and develop contentment. However, with courage and
determination to control one’s evil inclination, as well as to understand the
consequences of these evil thoughts, one can keep the mind from being soiled
and expereince happiness through contentment. For those who have wisdom, know
how to apply themselves and are able to endure life, and are able to think
cleverly, will find peace in his fate under whatever circumstances. With
the conditions of wealth, one satisfies and is at peace with being wealth; with
the conditions of poverty, one satisfies and is at peace with being
impoverished. In fact, in our lifetime, we engage in all kinds of activities,
think and calculate every imaginable method without abandoning any plot, so
long as it is beneficial, but whether or not our actions affect others we
never care. We have been doing all these for what? For a better life, clothes,
house, and for storing more money. If we think carefully, we will see
that the sun rises, reaches its stand still, and then it will set and
disappears in the evening; a full moon will soon become half, quarter,
then lose its brightness; mountains become deep canyons; oceans become hills of
berries, etc. The way of life has always been rise and fall, success and
failure, victory and defeat, lost and found, together and apart, life and
death, etc., goes on constantly and there is absolutely nothing that remain
unchanged and eternal. People with wisdom should always satisfy with their
current circumstances.
· Đức Phật tán dương cuộc sống đơn
giản, cuộc sống đơn giản dẫn đến việc mở mang tâm trí con người. Chính vì thế
mà Đức Phật luôn thuyết giảng sự lợi ích cho các thầy Tỳ Kheo về tri túc trên
những món như sau: Y áo mà các thầy nhận được, dù thô hay dù mịn; đồ cúng dường
hay thực phẩm các thầy nhận được, dù ngon hay không ngon; nơi ở mà các thầy
nhận được, dù đơn sơ hay sang trọng. Ai mà mãn ý với ba điều trên đây có thể
giảm được lòng ham muốn và đồng thời in sâu vào tâm khảm những thói quen của
một cuộc sống đơn giản—The Buddha extols simple living as being more conducive
to the development of one’s mind. Thus, the Buddha always preaches the
self-contentment for the benefit of the Bhikkhus as follow: The robes or
clothes they receive, whether coarse or fine; alms or food they receive,
whether unpalatable or delicious; the abodes or houses they receive, whether
simple or luxurious. Those who satisfy with these three conditions can reduce
the desires, and at the same time develop the habits and values of simple
living.
Tri Túc Thiên: Tusita (skt)—Đâu Suất Đà—Tầng trời Đâu Suất, cõi trời Tri
Túc hay cõi Tịnh Độ của Đức Di Lặc, nơi mà chư Bồ Tát tái sanh vào trước khi
sanh vào cõi Phật—The fourth Devaloka, Maitreya’s heaven of full knowledge,
where all Bodhisattvas are reborn before rebirth as Buddhas.
Tri Túc Viện: Nội điện của Tri Túc Thiên—The inner court of the tusita.
Tri Vô Biên Chư Phật Trí: Biết được trí vô biên của chư Phật hay biết những lời Phật
dạy cũng như cách cứu độ chúng sanh—To have the infinite Buddha-wisdom (knowing
the Buddha-worlds and how to save the beings).
Tri Vô Ngại Chư Phật Trí: Thông hiểu tri kiến Phật—The perfect understanding of
omniscience regarding all Buddha wisdom.
Trí: Jnana or Buddhi (skt)—Nhã Na—Xà Na.
(I) Nghĩa của “Trí”—The meanings of “Jnana”
· Vidya (skt)—Kiến thức—Knowledge.
· Vijnana (skt)—Trí Huệ—Wisdom arising
from perception or knowing—Mind—Wit.
· Jnana (skt)—Trí huệ Bát Nhã—Wisdom
Paramita—Đối với đạo lý của hết thảy sự vật có khả năng đoán định phải trái
chánh tà—Decision or judgment as to phenomena or affairs and their principles,
of things and their fundamental laws.
· Đến hay đạt đến: To reach—To arrive.
· Ưu việt: Utmost—Perfect.
· Đôi khi khó mà vạch ra một cách rõ
ràng sự khác biệt giữa Buddhi và Jnana, vì cả hai đều chỉ cái trí tương đối của
thế tục cũng như trí siêu việt. Trong khi Prajna rõ ràng là cái trí siêu việt:
The difference between Buddhi and Jnana is sometimes difficult to point out
definitively, for they both signify worldly relative knowledge as well as
transcendental knowledge. While Prajna is distinctly pointing out the
transcendental wisdom.
(II) Những lời Phật dạy về “Trí” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’s
teachings on “Jnana” in the Dharmapada Sutra:
1) Ngu mà tự biết ngu,
tức là trí, ngu mà tự xưng rằng trí, chính đó mới thật là ngu—A foolish man who
knows that he is a fool, for that very reason a wise man; the fool who think
himself wise, he is indeed a real fool (Dharmapada 63).
2) Người trí dù chỉ gần
gủi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được Chánh pháp, chẳng khác gì
cái lưỡi dù mới tiếp xúc với canh trong khoảnh khắc, đã biết ngay được
mùi vị của canh—An intelligent person associates with a wise man, even for a moment,
he will quickly understand the Dharma, as the tongue tastes the flavour of soup
(Dharmapada 65).
3) Được uống nước Chánh pháp thì tâm
thanh tịnh an lạc, nên người trí thường vui mừng, ưa nghe Thánh nhơn thuyết
pháp—Those who drink the Dharma, live in happiness with a pacified mind; the
wise man ever rejoices in the Dharma expounded by the sages (Dharmapada 79).
4) Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm
cung tên lo uốn cung tên, thợ mộc lo nẩy mực đo cây, còn người trí thì lo tự
điều phục lấy mình—Irrigators guide the water to where they want, fletchers
bend the arrows, carpenters control their timber, and the wise control or
master themselves (Dharmapada 80).
5) Như ngọn núi kiên cố, chẳng bao giờ
bị gió lay, cũng như thế, những lời hủy báng hoặc tán dương chẳng bao giời làm
lay động người đại trí—As a solid rock is not shaken by the wind; likewise, the
wise are not moved by praise or blame (Dharmapada 81).
6) Như nước hồ sâu, vừa yên lặng trong
sạch, những người có trí tuệ sau khi nghe pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên
lặng—Water in a deep lake is clear and still; similarly, on hearing the
Buddha teachings, the wise become extremely serene and peaceful (Dharmapada
82).
7) Người lành thường xa lìa mà không
bàn đến những điều tham dục. Kẻ trí đã xa lìa niệm lự mừng lo, nên chẳng còn bị
lay động vì khổ lạc—Good people give up all attachments, they don’t talk about
sensual craving. The wise show neither elation nor depression; therefore, they
are not affected by happiness or sorrow (Dharmapada 83).
8) Không vị tình thiên
hạ, cũng không vị tình một người nào, người trí không làm bất cứ điều gì sai
quấy: không nên cầu con trai, sự giàu có, vương quốc bằng việc sai quấy; không
nên cầu mong thành công của mình bằng những phương tiện bất chánh. Được vậy mới
thật là người đạo đức, trí tuệ và ngay thẳng—Neither for the sake of oneself,
nor for the sake of another, a wise man does nothing wrong; he desires not son,
wealth, or kingdom by doing wrong; he seeks his own success not by unjust
means, then he is good, wise and righteous (Dharmapada 84).
9) Con thiên nga chỉ bay
được giữa không trung, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất, duy bậc
đại trí, trừ hết ma quân mới bay được khỏi thế gian nầy—Swans can only fly in
the sky, man who has supernatural powers can only go through air by their
psychic powers. The wise rise beyond the world when they have conquered all
kinds of Mara (Dharmapada 175).
Trí Ba La Mật: Prajna-paramita (skt)—Paramita wisdom—See Trí Độ.
Trí Bảo Thiền Sư: Zen Master Trí Bảo (?-1190)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Ô
Diên, Bắc Việt. Ngài xuất gia tại chùa Thanh Tước trên núi Du Hý ở Thường Lạc.
Ngài là pháp tử đời thứ 10 dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Về sau, ngài chuyên tu
phước bằng cách bắc cầu bồi lộ ở những vùng thôn dã. Ngài thị tịch năm 1190—A
Vietnamese Zen master from Ô Diên, North Vietnam. He left home to become a monk
at Thanh Tước Temple on Mount Du Hý in Thường Lạc. He was the Dharma heir of
the tenth generation of Wu-Yun-T’ung Zen Sect. Later, he focused in cultivating
merits by building bridges, fixing roads in rural areas. He passed away in
1190.
Trí Bi: Trí Đức và Bi Đức, hai trong ba đức của Phật—All-knowing
and all-pitying qualities of a Buddha, two of the three virtues or qualities of
a Buddha.
**
For more information, please see Tam Đức (D).
Trí Biện:
1) Trí tuệ và khả năng biện biệt:
Wisdom and dialectic power.
2) Sự biện biệt khôn ngoan: A wise
discrimination.
3) Sự biện biệt bằng trí tuệ: Argument
from knowledge.
Trí Cảnh: Jnana-darpanna (skt)—Vật thể, hoàn cảnh hay điều kiện bên
ngoài làm môi giới cho trí quán sát (trí là cái tâm năng quán, cảnh là pháp ở
bên ngoài ta)—The objects ( or states, or conditions) of wisdom.
Trí Chánh Giác: Buddha’s mind.
Trí Chân: Toàn chân—Perfect truth.
Trí Chiếu Sáng: Illuminated or enlightened intellect.
Trí Chử:
1) Búa hay chày trí tuệ: The wisdom
hammer (búa).
2) Tên khác của Kim Cương chùy: Another
name for the vajra or diamond club.
Trí Chứng: Dùng thực trí mà chứng đắc niết bàn—Wisdom assurance—The
wisdom which realizes nirvana.
Trí Chướng (Sở Tri Chướng): Worldly wisdom is a hindrance to
true wisdom.
Trí Cự: Ngọn đuốc trí tuệ (sự sáng suốt của trí tuệ giống như ngọn
đuốc)—A torch of wisdom.
Trí Diệu: Mật trí giúp phơi bày chân lý—Mystic knowledge which
reveals spiritual realities.
Trí Dục: Intellectual education (cultivation or culture).
Trí Đao:
1) Lưỡi kiếm trí tuệ: The sword of
knowledge.
2) Trí tuệ của người tu sắc bén như
lưỡi kiếm (có khả năng chặt đứt khổ đau phiền não): Knowledge like a sword.
Trí Đoạn: Trí đức và đoạn đức làm sáng tỏ chân lý và đoạn diệt phiền
não—Mystic wisdom which attains absolute truth and cuts off misery.
Trí Độ: Prajna paramita (skt)—Độ thứ sáu trong lục độ Ba La Mật,
trí huệ Ba La Mật có công năng đưa hành giả đến Niết Bàn—Wisdom which brings
men to nirvana, the sixth of the six paramitas.
Trí Độ Luận: Maha-Prajnaparamita Sastra (skt)—Đại Trí Độ Luận—Luận về
Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đây là một tác phẩm triết học nổi tiếng của Phật
Giáo Đại Thừa—Sastra (Commentary) on the Prajna paramita sutra. It is a famous
philosophical Mahayana work.
**
For more information, please see Đại Trí Độ Luận.
Trí Đôn: Chih-Tun 314-366—Một trong những thiền sư chính của Phật
giáo Trung Quốc vào thế kỷ thứ tư. Ông sáng lập ra phái Bát Nhã của Phật Giáo
Nguyên Thủy Trung Quốc. Trí Đôn là người đầu tiên đã đưa ra lý giải mới về một
trong những khái niệm trung tâm triết học của Trung Quốc là “Lý.” Theo truyền
thống, lý chỉ trật tự vũ trụ, nhưng Trí Đôn lý giải ngược lại, như là chân lý
cao nhất, hay nguyên lý cuối cùng, hay chân tính. Định nghĩa nầy về sau được
các trường phái Phật giáo thừa nhận. Trí Đôn còn rất nổi tiếng là đệ tử am hiểu
sâu sắc về Trang Tử và Đạo giáo—One of the most important monks of the fourth
century and founder of the so-called Prajna school of early Chinese Buddhism,
the school of Appearance As Such. Chih-Tun was the first to interpret “li,” a
central notion in Chinese philosophy. According to the classical view, “li”
means the cosmic order; however, Chih-Tun, saw “li” the supreme truth, the
ultimate principle, or “suchness” (tathata). This meaning for “li” was
adopted by other schools in the course of the development of Buddhism in China.
Chih-Tun was also known as a student of Chuang-Tzu and enjoyed great popularity
in Taoist circles.
Trí Đức: Trí và đức—Intellectual and virtue—Merit (potency) of
perfect knowledge.
Trí Giả:
(I) Nghĩa của Trí Giả—The meaning of Knower:
1) Người trí: Knower—Wise man.
2) Trí Giả hay Trí Khải: Trí Giả hay
Trí Khải, người sáng lập tông phái Thiên Thai bên Trung Quốc—Chih-Che or
Chih-K’ai, founder of the T’ien-T’ai sect in China—See Trí Khải, and Thiên Thai
Ngũ Thời Bát Giáo.
(II) Những lời Phật dạy về Trí Giả trong Kinh Pháp Cú—The
Buddha’s teachings on “the wise” in the Dharmapada Sutra:
1. Nếu gặp được người hiền trí thường
chỉ bày lầm lỗi và khiển trách mình những chỗ bất toàn, hãy nên kết thân cùng
họ và xem như bậâc trí thức đã chỉ kho tàng bảo vật. Kết thân với người trí thì
lành mà không dữ—Should you see an intelligent man who points out faults and
blames what is blame-worthy, you should associate with such a wise person. It
should be better, not worse for you to associate such a person (Dharmapada
76).
2. Những người hay khuyên răn dạy dỗ,
cản ngăn tội lỗi kẻ khác, được người lành kính yêu bao nhiêu thì bị người dữ
ghét bỏ bấy nhiêu—Those who advise, teach or dissuade one from
evil-doing, will be beloved and admired by the good, but they will be
hated by the bad (Dharmapada 77).
3. Chớ nên làm bạn với người ác, chớ
nên làm bạn với người kém hèn, hãy nên làm bạn với người lành, với người chí
khí cao thượng—Do not associate or make friends with evil friends; do not associate
with mean men. Associate with good friends; associate with noble men
(Dharmapada 78).
4. Được uống nước Chánh pháp thì tâm
thanh tịnh an lạc, nên người trí thường vui mừng, ưa nghe Thánh nhơn thuyết
pháp—Those who drink the Dharma, live in happiness with a pacified mind; the
wise man ever rejoices in the Dharma expounded by the sages (Dharmapada 79).
5. Người tưới nước lo dẫn nước, thợ làm
cung tên lo uốn cung tên, thợ mộc lo nẩy mực đo cây, còn người trí thì lo tự
điều phục lấy mình—Irrigators guide the water to where they want, fletchers
bend the arrows, carpenters control their timber, and the wise control or
master themselves (Dharmapada 80).
6. Như ngọn núi kiên cố, chẳng bao giờ
bị gió lay, cũng như thế, những lời hủy báng hoặc tán dương chẳng bao giời làm
lay động người đại trí—As a solid rock is not shaken by the wind; likewise, the
wise are not moved by praise or blame (Dharmapada 81).
7. Như nước hồ sâu, vừa yên lặng trong
sạch, những người có trí tuệ sau khi nghe pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên
lặng—Water in a deep lake is clear and still; similarly, on hearing the
Buddha teachings, the wise become extremely serene and peaceful (Dharmapada
82).
8. Người lành thường xa lìa mà không
bàn đến những điều tham dục. Kẻ trí đã xa lìa niệm lự mừng lo, nên chẳng còn bị
lay động vì khổ lạc—Good people give up all attachments, they don’t talk about
sensual craving. The wise show neither elation nor depression; therefore, they
are not affected by happiness or sorrow (Dharmapada 83).
9. Không vị tình thiên hạ, cũng không
vị tình một người nào, người trí không làm bất cứ điều gì sai quấy: không nên
cầu con trai, sự giàu có, vương quốc bằng việc sai quấy; không nên cầu mong
thành công của mình bằng những phương tiện bất chánh. Được vậy mới thật là
người đạo đức, trí tuệ và ngay thẳng—Neither for the sake of oneself, nor for
the sake of another, a wise man does nothing wrong; he desires not son, wealth,
or kingdom by doing wrong; he seeks his own success not by unjust means, then
he is good, wise and righteous (Dharmapada 84).
10. Trong nhân loại chỉ có một ít người đạt đến bến bờ kia, còn
bao nhiêu người khác thì đang bồi hồi vơ vẩn tại bờ nầy—Few are among men who
crosses and reaches the other shore; the rest of mankind only run about the
bank (Dharmapada 85).
11. Những người nào hay thuyết pháp, hay theo Chánh pháp tu
hành, thì được đạt tới bờ kia, thoát khỏi cảnh giới tà ma khó thoát—Those who
preach and act according to the teachings, are those who are crossing the realm
of passions which is so hard to cross, and those who will reach the other shore
(Dharmapada 86).
12. Người trí hãy nên rời bỏ hắc pháp (ác pháp) mà tu tập bạch
pháp (thiện pháp), xa gia đình nhỏ hẹp, xuất gia sống độc thân theo pháp tắc
Sa-môn—A wise man should abandon the way of woeful states and follows the
bright way. He should go from his home to the homeless state and live in
accordance with the rules for Sramanas (Dharmapada 87).
13. Người trí phải gột sạch những điều cấu uế trong tâm, hãy cầu
cái vui Chánh pháp, xa lìa ngũ dục mà chứng Niết bàn—A wise man should purge
himself from all the impurities of the mind, give up sensual pleasures, and
seek great delight in Nirvana (Dharmapada 88).
14. Người nào thường chính tâm tu tập các phép giác chi, xa lìa
tánh cố chấp, rời bỏ tâm nhiễm ái, diệt hết mọi phiền não để trở nên sáng suốt,
thì sẽ giải thoát và chứng đắc Niết bàn ngay trong đời hiện tại—Those
whose minds are well-trained and well-perfected in the seven factors of
enlightenment, who give up of grasping, abandon defiled minds, and eradicate
all afflictions. They are shinning ones and have completely liberated and
attained Nirvana even in this world (Dharmapada 89).
Trí Giáo: Toàn Giáo—Complete or perfect teaching.
Trí Giới: Trí giới là lý trí tương đối, đối lại với lý giới—The
realm of knowledge, in contrast with that of fundamental principles of law (Lý
giới).
Trí Hải: Tên của Hòa Thượng Trí Hải, người đã đôn đốc trùng tu chùa
Quốc Ân vào năm 1805 với sự đóng góp 300 lạng bạc của Công Chúa Long Thành, chị
vua Gia Long—Name of Most Venerable Trí Hải who supervised the reconstruction
of Quốc Ân temple in 1805 through the contribution of Princess Long Thành, an
elder sister of king Gia Long, who offered 300 ounces of silver.
Trí Hạnh Của Bậc Giác Ngộ: The knowledge of the enlightened.
Trí Hạnh Như Lai: The knowledge of Tathagata.
Trí Hỏa: Ngọn lửa trí tuệ có công năng đốt cháy khổ đau phiền
não—The fire of wisdom which burns up misery.
Trí Hoàng: Thiền sư Trí Hoàng—Zen master Chih-Huang—Theo Thiền sư
D.T. Suzuki trong Thiền Luận, Tập I, Thiền sư Trí Hoàng, chuyên học ngồi thiền
với Ngũ Tổ. Sau hai mươi năm ngồi tịnh trong am, ông tự coi như được chánh
định. Học trò của Huệ Năng là Huyền Sách nghe tiếng đồn bèn tìm đến thảo am,
hỏi: “Ông ngồi làm gì đây?” Trí Hoàng đáp: “Nhập định.” Huyền Sách hỏi: “Ông
nói ông nhập định, vậy ông hữu tâm mà nhập? Hay vô tâm mà nhập? Nếu là vô tâm
thì tất cả thế giới vô tình như cỏ cây ngói gạch đều có thể nhập định hết
thảy. Bằng hữu tâm mà nhập thì mọi giống hữu tình, hàm linh có ý thức, đều cũng
định được.” Trí Hoàng nói: “Trong khi tôi nhập định thì không biết là hữu tâm
hoặc vô tâm.” Huyền Sách lại nói: “Nếu ông không biết là hữu tâm hoặc vô tâm
thì lúc nào cũng là định, sao còn gọi là ‘xuất nhập.’ Nếu có xuất nhập thì
chẳng phải là đại định.” Trí Hoàng không đáp, lát sau hỏi: “Thầy của ông là
ai?” Huyền Sách nói: “Thầy tôi là Lục Tổ ở Tào Khê.” Trí Hoàng lại hỏi: “Lục Tổ
dạy thế nào về Thiền định?” Huyền Sách thưa: “Thầy tôi nói rằng Thiền vốn lặng
im mà huyền diệu (diệu trạm), vắng lặng mà tròn đầy (viên tịch), thể và dụng
đều như như, chẳng xuất chẳng nhập, chẳng định chẳng loạn. Thiền tánh không có
chỗ trụ, chớ trụ ở chỗ vắng lặng của Thiền. Thiền tánh chẳng sanh, chớ đâm nghĩ
về sự sanh diêt của Thiền. Tâm như hư không, nhưng đừng có suy lường về hư
không.” Trí Hoàng nghe vậy bèn đến yết kiến Tổ Huệ Năng. Tổ hỏi: “Ông là ai?”
Trí Hoàng trình hết mọi việc. Tổ nói: “Đúng như lời của Huyền Sách nói, ông cứ
để tâm ông tự nhiên như hư không, mà vẫn không một kiến giải nào về cái không
ấy, thì tâm sẽ ứng dụng tự do, không vướng mắc, dầu làm gì, động hay tịnh, vẫn
là vô tâm, và đó là lúc phàm hay Thánh đều quên hết, năng (chủ) và sở (khách)
đều dứt trọn, tánh và tướng đều như như, tức là không lúc nào chẳng là định
vậy.”—According to Zen master D.T. Suzuki in the Essays in Buddhism, Book I,
Chih-Huang was an adept in meditation, which he studied under the fifth
patriarch. After twenty years of meditation he thought he well understood the
purport of meditation or samadhi. Hsuan-Ts’e, learning his attainment, visited
him, and said: “What are you doing there?” Chih-Huang said: “I am entering into
a samadhi.” Hsuan-Ts’e said: “You speak of entering, but how do you enter into
samadhi with a thoughtful mind or with a thoughtless mind? If you say with a
thoughtless mind, all non-sentient beings such as plants or bricks could attain
samadhi. If you say with a thoughtful mind, all sentient beings could attain
it.” Chih-Huang said: “When I enter into samadhi, I am not conscious of either
being thoughtful or being thoughtless.” Hsuan-Ts’e said: “If you are conscious
of neither, you are right in samadhi all the time; why you then talk at all of
entering into it or coming out of it? If, however, there is realy entering or
coming out, it is not Great Samadhi.” Chih-Huang did not know how to answer.
After a while he asked who was Hsuan-Ts’e’s teacher and what was his
understanding of samadhi. Hsuen-Ts’e said: “Hui-Neng is my teacher, and
according to him, the ultimate truth lies mystically serene and perfectly
quiet; substance and function are not to be separated, they are of one
Suchness. The five skandhas are empty in their nature, and the six
sense-objects have no reality. The truth knows of neither entering nor going
out, neither being tranquil nor disturbed. Dhyana in essence has no fixed
abode. Without ataching yourself to an abode, be serene in dhyana. Dhyana
essence is birthless; without attaching yourself to the thought of birth and
death, thinking in dhyana. Have your mind like unto space and yet have no
thought of space.” Thus learning the sixth patriarch’s view on samadhi or
dhyana, Chih-Huang came to the master himself and asked to be further
enlightened. The patriarch said: “What Hsuan-Ts’e told you is true. Have your
mind like unto space and entertain in it no thought of emptiness. Then the
truth will have its full activity unimpeded. Every movement of yours will come
out of an innocent heart, and the ignorant and the wise will have an equal
treatment in your hands. Subject and object will lose their distinction, and
essence and appearance will be of one suchness. When a world of absolute
oneness is thus realized, you have attained to eternal
samadhi.”
Trí Hoặc: Trí tuệ và sự nghi hoặc—Wisdom and delusion.
Trí Húc Đại Sư: Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Liên Tông Thập Tam
Tổ, Trí Húc Đại Sư tự là Ngẫu Ích, người đời nhà Thanh, con của họ Chung, quê ở
Ngô Huyện. Thân phụ ngài thọ trì chú Đại Bi và Bạch Y, mộng thấy Đức Quán Thế
Âm trao cho một đứa bé, sau đó mới sanh ra ngài. Thuở niên thiếu ngài theo Nho
học, đã từng viết sách bài báng đạo Phật. Sau nhân xem được bộ sách “Trúc Song
Tùy Bút Lục” của Liên Trì Đại Sư (Tổ thứ 8 của Tịnh Độ Trung Hoa), liền tỉnh
ngộ, đốt bỏ cuốn sách của mình đã viết đi. Năm hai mươi tuổi, ngài học Kinh Địa
Tạng Bổn Nguyện, nhờ đó mà phát ý xuất trần, mỗi ngày hằng luôn niệm Phật. Niên
hiệu Thiên Khải năm đầu, ngài được 24 tuổi, sau khi nghe một Pháp Sư giảng kinh
bỗng phát nghi tình, dụng công tham cứu. Ít lâu sau, được tỏ ngộ, liền đóng cửa
nhập thất ở Ngô Giang. Thời kỳ ấy ngài đau nặng, mới quyết chí niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Sau khi bệnh vừa dứt, ngài liền kiết đàn trì chú vãng sanh một
thất, đốt ba liều hương nơi cánh tay, thệ nguyện phát lòng Bồ Đề, cầu sanh Cực
Lạc để mau chứng tròn đạo quả, sớm độ chúng sanh. Về sau Đại sư từng trụ trì
các nơi như Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường Thủy, Tân An,
rộng truyền giáo pháp Thiên Thai và môn niệm Phật. Thời bấy giờ, những nhà tu
thiền ở các nơi, phần đông đều cho rằng pháp môn Tịnh Độ là quyền giáo, cho nên
mỗi khi gặp người niệm Phật thì dạy họ nên tham cứu quán tưởng. Riêng đại sư
lại nhận định ra pháp “Trì Danh Niệm Phật” chính là môn “Tâm Tông Viên Đốn.” Có
ông Trác Tả Xa là một cư sĩ tu Thiền, từng đem những huyền lý bên Thiền gạn hỏi
Tịnh Độ, ngài đều trả lời một cách thích đáng cả. Sau đó đại sư về ẩn tu ở núi
Linh Phong. Bình thường, đại sư thường khai thị rằng pháp môn Niệm Phật không
có chi lạ kỳ đặc biệt cả, chỉ có một yếu điểm quan trọng duy nhất là Tín Hạnh
Nguyện (see Tín Hạnh Nguyện,Nhị Trì, and Tam Tụ Tịnh Giới). Vào cuối mùa Đông
năm Thuận Trị thứ 11, đại sư cảm chút bệnh nhẹ. Ngài di chúc lại mọi việc và
dặn dò các đệ tử rằng: “Sau khi ta thị tịch, các ngươi làm lễ trà tỳ xong rồi
phải tán xương cho nhuyễn, trộn chung với bột, hòa thành viên, đem chia thí cho
các loài cá chim, để kết duyên Tịnh Độ với chúng. Sang đầu năm, vào ngày 21
tháng giêng, đại sư dậy sớm, sắc diện tươi khỏe như người không bệnh. Đến đúng
ngọ, ngài ngồi thẳng trên giường mà thị tịch, thọ được 57 tuổi—According to
Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Thirteen Patriarchs of Pureland Buddhism,
Great Venerable Master Chu-Rut’s self-given name was Ou-I. He was born to the
Chung Family from Wu-Hsien region. He lived during the T’ang Dynasty. His
father had often practiced reciting the Great Compassionate and Pure White Robe
mantras. In a dream, his father saw Avalokitesvara Bodhisattva handing him a
young child. Thereafter, the Great Master was born. During his youth, he was a
student of Consucianism and wrote books derading Buddhism. After he read the
series “Trúc Song Tùy Bút Lục” written by Great Master Liên-Ch’ih (Eighth
Pureland Patriarch), he was awakened immediately and burned the books he had
written before. When he was twenty years old, he began studying the “Great Vows
of Ksitigarbha Sutra” and as a result he developed the intention of abandoning
the secular life to join the order, and he practiced Buddha Recitation
throughout each day. In the first year of T’ien-Ksi reign period, he was
twenty-four years old. After he heard a Dharma Master teaching and explaining
the Sutra, he suddenly began to have doubts and immediately investigated and
researched more Buddhist teachings to find answers for his skepticism. Not long
after, he was awakened, he immediately went into retreat in the Wu-Jiang
region. During this period, he was quite ill and became determined to practice
Buddha Recitation praying to gain rebirth in the Pureland. As soon as he was
cured, he went into a retreat for one week to practice reciting the Gaining
Rebirth Mantra. He then burned three incenses into his arm vowing to cultivate
for the Bodhi Mind, praying to gain rebirth to the Ultimate Bliss World to
attain quickly the Ultimate Enlightenment and be able to help save sentient
beings as soon as possible. He became abbot of various temples including
On-Lang, Shing-Chou, Su-Sheng, Hsing-Ksi, Ch’ang-Tsuy, and Hsing-An, as he
taught widely the teachings of T’ien-T’ai Zen and Buddha Recitation or Pureland
Buddhism. During this period, the majority of those cultivating Zen assumed the
Pureland Dharma Door to be a dependent doctrine. Therefore, each time meeting
cultivators who practiced Buddha Recitation, Zen practitioners would tell them
to examine and investigate the word “Contemplation.” Only the Great Master
accepted the Dharma practice of “Reciting the Buddha’s Name” as the path of
“Ultimate Perfection.” A lay Buddhist who practiced Zen during that time, named
Trác-Tả-Xa. He often borrowed the marvelous and magnificent Zen theories to ask
the Great Master about Pureland teachings; each time, the Great Master answered
those questions most satisfactorily. Thereafter, the Great Master retired to
the Ling-Feng Mountain. Regularly, he often taught: “There isn’t anything
extraordinary or unusual about Buddha Recitation, it has only these important
points “Deep Faith, Sincere Vow, and Diligent Practice.” (see Tín Hạnh Nguyện,
and Nhị Trì). At the end of the winter of the eleventh year of Thuận-Trị reign
period, the Great Master had a minor illness. He resigned from all his
positions and responsibilities and instructed his disciples: “After I pass away
and following my cremation, mix my ashes with flour and roll them into little
balls, and then divided them up to make donations to different kinds of birds
and fish, in order to establish and form Pureland connections for them. In the
beginning of the year of the 21th of January, the Great Master woke up early,
appearing full of vitality like a healthy person. At noon time, he sat in the
lotus position on his bed, facing the West, put his palms together, reciting
Buddha’s name to pass away. He was 57 years
old.
**For
more information, please see Tín Hạnh Nguyện, Nhị Trì, and Tam Tụ Tịnh Giới.
Trí Huệ: Jnana (skt)—Wisdom—See Trí Tuệ.
Trí Huệ Ba La Mật: Prajna-paramita (skt)—Wisdom-paramita.
1) See Bát Nhã.
2) Trí huệ Ba la mật là cửa ngõ đi vào
hào quang chư pháp, vì nhờ đó mà chúng ta đoạn trừ tận gốc rễ bóng tối của si
mê. Trong các phiền não căn bản thì si mê là thứ phiên não có gốc rễ mạnh nhất.
Một khi gốc rễ của si mê bị bật tung thì các loại phiền não khác như tham, sân,
chấp trước, mạn, nghi, tà kiến, đều dễ bị bật gốc. Nhờ có trí huệ Ba La Mật mà
chúng ta có khả năng dạy dỗ và hướng dẫn những chúng sanh si mê. Để đạt được
trí huệ Ba La Mật, hành giả phải nỗ lực quán chiếu về các sự thực vô thường, vô
ngã, và nhân duyên của vạn hữu. Một phen đào được gốc vô minh, không những hành
giả tự giải thoát tự thân, mà còn có thể giáo hóa và hướng dẫn cho những chúng
sanh si mê khiến họ thoát ra khỏi vòng kềm tỏa của sanh tử—The prajna-paramita
is a gate of Dharma-illumination; for with it, we eradicate the darkness of
ignorance. Among the basic desires and passions, ignorance has the deepest
roots. When these roots are loosened, all other desires and passions, greed,
anger, attachment, arrogance, doubt, and wrong views are also uprooted. In
order to obtain wisdom-paramita, practitioner must make a great effort to
meditate on the truths of impermanence, no-self, and the dependent origination
of all things. Once the roots of ignorance are severed, we can not only
liberate ourselves, but also teach and guide fooloish beings to break through
the imprisonment of birth and death.
3) For more information, please see Lục
Độ Ba La Mật, and Trí Tuệ in
Vietnamese- English Section.
Trí Huệ Bát Nhã: Prajna-paramita (skt)—Transcendental knowledge—See Trí Huệ
Ba La Mật.
Trí Huệ Hải: Trí tuệ của Như Lai sâu rộng giống như biển—Buddha-wisdom
deep and wide as the ocean.
Trí Huệ Không Cấu Chướng: Unfettered knowledge.
Trí Huệ Kiếm: The sword of wisdom.
Trí Huệ Kiện Toàn: Perfect knowledge.
Trí Huệ Lực: Wisdom—Insight.
Trí Huệ Môn: Cửa ngõ đi vào trí tuệ hay quyền trí là cửa vào thực
trí—The gate of Buddha-wisdom which leads to all truth.
**
For more information, please see Nhị Trí Viên Mãn.
Trí Huệ Nhật: Jnana bhaskara (The sun of knowledge.
Trí Huệ Nhị Biên: Dualistic wisdom.
Trí Huệ Phật: Tathata-jnanabuddha (skt)—Buddha-wisdom—Great wisdom.
Trí Huệ Quán: Một trong ngũ quán của Đức Quán Thế Âm, dùng trí tuệ chân
thực để quán sát lý thực tướng—One of the five types of meditation of
Kuan-Shi-Yin, insight into reality.
**
For more information, please see Ngũ Quán (3).
Trí Huệ Quang Minh: Wisdom or mental light.
Trí Huệ Quang Phật: Tên gọi tắt của Đức Phật A Di Đà (vì Đức Phật nầy có đủ
trí huệ quang minh)—Wisdom Light Buddha, an abbreviated name for Amitabha
Buddha.
**
For more information, Please see A Di Đà.
Trí Huệ Qui Ước: Conventional wisdom.
Trí Huệ Thù Thắng: Parama-panna (p)—Parama-prajna (skt)—Transcendental
wisdom—Highest wisdom.
Trí Huệ Thủy: Trí huệ thủy có công năng gột rửa tất cả những uế trược
của dục vọng—The water of wisdom, which washes away the filth of passion.
Trí Huệ Tối Hậu: Ultimate wisdom.
Trí Hữu Sư: Văn Tư Tu—Knowledge or wisdom that comes from listening to
the dharma, reflection and cultivation.
Trí Khải: Trí Khải , còn gọi là Trí Giả hay Thiên Thai Đại Sư. Tên
thật của ông là Trần Đức An, sanh năm 538 và thị tịch năm 597 sau Tây Lịch. Quê
ông ở Dĩnh Xuyên thuộc An Hội, làm tiểu năm 7 tuổi, và thọ cụ túc giới năm 20
tuổi. Thoạt tiên ông làm đệ tử ngài Huệ Tư, và được dạy riêng về pháp tu quán của
Kinh Pháp Hoa. Đến năm 575, tức vào khoảng tuổi 38, ông cùng đệ tử đến
núi Thiên Thai và sáng lập ra tông phái Thiên Thai nổi tiếng, giáo thuyết của
tông phái nầy dựa trên Kinh Pháp Hoa. Tại đây ông gặp một kỳ túc, Định Quang,
đã đến đây khoảng 40 năm về trước. Vị nầy tiếp nhận Trí Khải và dạy cho ông tất
cả những ngành học thuật của Phật giáo. Trí Khải cư ngụ trên núi nầy suốt chín
năm và thiết lập ở đây một đại Tăng viện gọi là Quốc Thanh Tự. Ông thường được
tôn hiệu là Thiên Thai Đại Sư. Tùy Dạng Đế, bấy giờ làm Tổng Quản đất
Dương Châu, phong cho đại sư tước hiệu là Trí Giả. Bởi sự nổi bật về nhân cách
và sự thâm trầm về sở học của mình, ông đạt địa vị cao nhất trong tất cả những
học giả Phật giáo Trung Hoa đương thời. Về khả năng tổ chức học thuyết Phật
giáo và dạy dỗ những người học Phật, chưa ai sánh ngang bằng ông nổi. Sự kiện
toàn của tông Thiên Thai là do ở ông, và vì vậy ông được xưng tụng như là tổ
thứ nhất của tông nầy, dù thực sự ông chỉ là vị Tổ thứ tư trong thể hệ giáo học
của học thuyết Thiên Thai. Về sau, Truyền Đăng Lục gán cho ngài Trí Khải dưới
danh mục “Thiền môn đạt giả tuy bất xuất thế, hữu danh ư thời giả” nghĩa là
những người đã đạt ngộ ở cửa Thiền tuy chẳng xuất thế nhưng có danh tiếng đương
thời. Các môn đồ phái Thiên Thai phản đối việc nầy, nhưng theo Thiền sư D.T.
Suzuki trong Thiền Luận, Tập I, thì quan niệm của Truyền Đăng Lục là hợp lý, vì
lẽ nếu bỏ phần huyền đàm luận diệu thì tông Thiên Thai là một dòng khác của đạo
Thiền, một dòng phát triển độc lập với Thiền của Tổ Sư Đạt Ma, nhưng nếu khéo
phát huy một cách thực tiễn hơn chắc chắn sẽ qui thúc ở Thiền như dưới hình
thức hiện có. Rất tiếc, khía cạnh huyền học được khai thác một cách quá đáng,
lấn qua phần thực tiễn nên các đạo sĩ Thiên Thai luôn luôn gây chiến với
Thiền, nhất là với cánh Thiền cực tả thường cương quyết tố cáo cố tật của các
ngài thích hý luận biện giải theo từ chương, hay khảo kinh điển. Tuy nhiên, dầu
sao Thiên Thai cũng là một biến thể của Thiền, và chư Tổ khai sáng ra tông ấy
có thể xứng đáng xếp vào hàng Thiền sư, mặc dầu các ngài không cùng pháp hệ với
Thạch Đầu, Dược Sơn, Mã Tổ, và Lâm Tế, vân vân—Chih-I, founder of the
T’ien-T’ai school. His real name was Ch’ên-Te-An. He was born around 538 A.D.
and died around 597 A.D. at sixty years of age. He was a native of Ying-Ch’uan
in An-Hui, became a neophyte at seven, was fully ordained at 20. At first, he
was a follower of Hui-Su,and received special instruction in the meditation of
the Lotus. In 575, at the age of 38, he and his pupils went to the T’ien-T’ai
mountain in Chekiang, where he founded his famous school on the Lotus Sutra as
containing the complete gospel of the Buddha. Here he found an old scholar,
Ting-Kuang who had come there some forty years ago. He welcomed Chi-I and gave
instructions in all branches of Buddhist learning. Chih-I lived on the mountain
for nine years and built the great monastery called Kuo-Ch’ing. He was
greatly honored by the name ‘Great Master of T’ien-T’ai.’ The Emperor Sui
Yang-Ti, who was then the Governor-General of Yang-Chou, gave him the title of
‘Chih-Chê,’ a Man of Great Wisdom. As regard the superiority of his personal
character and the depth of his learning, he stands high above all the rest of
the Buddhist scholars of China. In his power of orgainzation of Buddhist
doctrine of training of Buddhist students, no one will ever measure up to him.
The final completion of the T’ien-T’ai School is due to him, and, therefore, he
is honoredas the first patriarch of the school, though he was actually the
fourth patriarch in the lineage of learning of the T’ien-T’ai doctrine. Later,
the Transmissions of the Lamp mentioned him as “Adepts in Zen but not appearing
in the world, though well-known at the time.” This applies to some monk who
does not occupy any recognized position in an officially registered monastery.
The T’ien-T’ai followers object to see their Father Chi-I mentioned in the
Transmissions of the Lamp as “Adepts in Zen but not appearing in the world,
though well-known at the time.” But according to Zen master D.T. Suzuki in the
Essays in Zen Buddhism, Book I, the point of view from the Transmissions of the
Lamp is justifiable for the reason that the T’ien-T’ai except its metaphysics,
is another current of Zen started independently of the line of Bodhidharma, and
if this were allowed to take a more practical course of development it should
surely have resulted in Zen as we have it now. But its metaphysical side
came to be emphasized at the expense of the practical, and for this reason the
T’ien-T’ai philosophers were ever at war with the Zen, especially with the
ultra-left wing, which was inflexible in denouncing an appeal to ratiocination
and literary discoursing and sutra-learning. T’ien-T’ai is a variation of Zen
and its first promulgators may justly be classed as Zen masters, though not of
the pedigree to which belong Shih-T’ou, Yueh-Shan, Ma-Tsu, and Lin-Chi,
etc.
Trí Khôn: Intelligence.
Trí Kiếm: Trí huệ Kiếm—Lưỡi kiếm trí huệ. Trí tuệ thanh tịnh, có khả
năng cắt đứt dục vọng phiền não và dứt tuyệt sinh tử—The sword of wisdom, which
cuts away passion and severs the link of transmigration.
Trí Kính: The mirror of wisdom.
Trí Lực:
1) Trí Tuệ và Thần Lực: Knowledge and
supernatural power.
2) Năng lực của trí tuệ: Power of
knowledge.
3) Hành giả (tu thiền) có đủ năng lực
xử
dụng mật trí: The efficient use of mystic
knowledge.
Trí Lý: Nguyên tắc toàn hảo hay luật căn bản—The utmost principle,
the fundamental law.
Trí Mẫu: Giác Mẫu hay bà mẹ sanh ra trí tuệ—Wisdom-mother—The
mother of knowledge.
Trí Mệnh: To risk (venture) one’s life.
Trí Môn: Trí huệ Phật hay con đường dẫn đến giác ngộ Bồ Đề (bao gồm
tất cả các đức tự lợi)—Wisdom gate, or Buddha-wisdom, or the way of
enlightenment.
**
For more information, please see Nhị Môn (D).
Trí Môn Quang Tộ Thiền Sư: Zen master Kuang-Zuo-Zhi-Men—See Quang Tộ Trí Môn Thiền
Sư.
Trí Na: Cina (skt)—Trung Hoa—China.
Trí Na Bộc Để: Cinapati (skt).
1) Vị chúa từ Trung Hoa được nói đến
trong Tây Vực Ký: Lord from China, said in the Record of Western Lands to have
been appointed by the Han rulers.
2) Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học
Từ Điển, Cinapati là một vương quốc nhỏ nằm về phía tây bắc của Ấn Độ (gần
Lahore bây giờ) mà dân chúng của vương quốc nầy đoan chắc rằng những vị vua đầu
tiên của họ đến từ Trung Quốc: According to Eitel in the Dictionary of Chinese
Buddhist Terms: A small kingdom northwest of India (near Lahore) the
inhabitants of which asserted that their first kings had come from China.
Trí Não: Brain.
Trí Năng: Intellect.
Trí Năng Sâu Sắc: Intellectual discernment.
Trí Ngại: Sở Tri Chướng hay phiền não làm trở ngại trong việc đạt
thành trí huệ Phật (vô minh làm trở ngại giác ngộ Bồ Đề)—Obstacles to attaining
Buddha-wisdom (Original ignorance—Căn bản vô minh).
Trí Nghiễm: Vị Tổ thứ tư của trường phái Hoa Nghiêm, vào khoảng từ năm
600 đến 668 sau Tây Lịch dưới đời nhà Đường—Fourth patriarch of the Hua-Yen
school around 600-668 A.D. during the T’ang dynasty.
Trí Ngôn: Toàn ngữ hay những lời giải thích hoàn toàn—Perfect words,
words of complete explanation.
Trí Nguyệt: Jnanacandra (skt).
1) Trí tuệ sáng như ánh trăng:
Knowledge bright as the moon.
2) Trí Nguyệt là tên của một vị thái tử
người xuất gia trở thành một nhà sư vào khoảng năm 625 sau Tây Lịch:
Jnanacandra, name of a prince of Karashahr who became a monk around 625 A.D.
Trí Nhàn Hương Nghiêm Thiền Sư: Zen Master Zhi-Xian—See Hương Nghiêm Thiền Sư.
Trí Nhãn:
1) Mắt trí tuệ (không phải mắt thịt):
The eye of wisdom, not the flesh eye.
2) Trí là mắt nhìn để đạt tới chân
lý: Wisdom as an eye to attain the truth.
Trí Nhân:
1) Người có trí hay người hoàn toàn: A
perfect man.
2) Phật Thích Ca Mâu Ni: Sakyamuni
Buddha.
Trí Nhớ: Mind—Memory.
Trí Nhớ Không Linh Mẫn: Failing memory.
Trí Nhơn Trí Quả: Wisdom now produces wisdom fruit hereafter.
Trí Pháp Thân: Cái trí như như rốt ráo của thủy giác—The Dharmakaya as
wisdom, kinetic or active.
**
For more information, please see Nhị Pháp Thân.
Trí Phân Biệt: Jnana (skt)—Analytical knowledge.
Trí Quả: Trí quả hay giác ngộ Bồ Đề (loại diệu quả sinh ra do tu
hành ở nhân địa)—The fruit of knowledge, or enlightenment.
Trí Quang: Jnanaprabha (skt).
1) Ánh sáng trí tuệ (trí tuệ có thể phá
tan hôn ám): Having the light of knowledge.
2) Tên của một đệ tử của Luật Sư Giới
Hiền. Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, vào giữa thế kỷ
thứ chín, hoàng tử Tây Tạng là Ni Ma Gon đi về phía tây và xây dựng một vương
quốc mới, một trong những người con trai của ông đã trở thành tu sĩ Phật giáo
và mang tên là Trí Quang. Vào thời của Trí Quang, Mật tông đã thôn tính hết mọi
tôn giáo ở Ấn Độ. Mặc dù thế, bản thân Trí Quang không bị Mật tông thu hút.
Trái lại, ông còn viết một cuốn sách chống lại phái nầy. Các tu sĩ Mật tông Tây
Tạng cho rằng vị hoàng thân nầy phải xuống địa ngục vì tội viết cuốn sách phỉ
báng nầy. Trí Quang là con trai cả của vua Guge (Shenshung) và đã trở thành một
Tỳ Kheo. Ông đọc nhiều bộ kinh, theo chủ nghĩa duy lý và thừa kế của ông cha
một sự sùng mộ sâu xa đối với đạo Phật. Tuy nhiên, ông nhận thấy rằng chống lại
cái xấu là một nhiệm vụ rất lớn lao, những nỗ lực đơn độc của ông sẽ không kham
nổi. Do đó, ông chọn lấy 21 thanh niên Tây Tạng thông minh, cho học ở trong
nước mười năm, rồi gửi đến Kashmir để học lên cao hơn. Thế nhưng không một
người nào trong bọn họ chịu nổi khí hậu khắc nghiệt của Kashmir và tất cả đều
đã bỏ mạng, ngoại trừ Ratnabhadra (Rin-Chhen-Zang-Po) và Suprajna
(Legs-Pahi-Shes-Rab). Ratnabhadra được xem là một dịch giả vĩ đại nhất của Tây
Tạng. Khi ông kết thúc việc học trở về thì Trí Quang rất vui mừng, nhưng công
việc mà ông đang làm quả là vượt quá sức của một người. Ông đi đến kết luận là
do các du học sinh từ Tây Tạng gửi đi không chịu nổi khí hậu khắc nghiệt của Ấn
Độ, nên có một số học giả từ Ấn Độ đến Tây Tạng làm việc thì có hiệu quả hơn.
Ông bèn cử một phái đoàn sang Ấn Độ để mời A Để Sa qua Tây Tạng. Nhưng phái
đoàn nầy đã thất bại vì họ không thuyết phục nổi vị luận sư nầy đến Tây Tạng.
Trí Quang không phải là người dễ nản lòng. Ông quyết định cử một phái đoàn khác
nhưng tiền đã hết, nên ông đến tỉnh Gartog để thu góp vàng. Đây có lẽ là một
nơi có mỏ vàng, nằm ở vùng phía bắc hồ Manasarovar. Theo lời kể lại thì vua xứ
nầy đã bắt giữ ông và đòi một số tiền chuộc lớn. Khi con trai ông là
Bodhiprabha (Byang-Chub-Od) hay tin cha mình bị bắt, ông đã gom được một số
tiền tưởng là đủ để giải thoát cho cha, song số tiền đó bị xem là chưa đủ.
Trước khi quay trở về lấy thêm tiền, ông đến thăm cha trong tù, và Trí Quang đã
bảo con: “Con đã biết là ta đã già yếu rồi. Nếu không chết bây giờ thì có lẽ
cũng chỉ trong mươi năm nữa thôi. Vậy nếu con phung phí tiền bạc vì ta thì
chúng ta không thể nào mời được một học giả từ Ấn Độ qua đây. Thật đẹp đẽ biết
bao nếu ta được chết vì một mục đích cao cả và con dùng toàn bộ số vàng kia để
cử người đi Ấn Độ rước một học giả về! Hơn thế nữa, không chắc gì vị vua nầy sẽ
thả ta về sau khi nhận đủ số tiền đòi hỏi. Vì thế, con ơi, thay vì lo lắng cho
ta, con hãy cử một sứ giả đến gặp ngài A Để Sa. Ta đảm bảo rằng ông ta sẽ đồng
ý đến Tây Tạng, nhất là khi được biết về hoàn cảnh hiện nay của ta, vì ông ấy
sẽ đoái thương chúng ta. Nếu vì một lý do gì mà ông ấy không đến được thì hãy
mời một học giả khác đã từng làm việc dưới ông ta.” Thế rồi Trí Quang đặt tay
lên vai con mình, cầu chúc khi hai cha con chia tay nhau lần cuối. Sau lần ấy,
Bodhiprabha lo tìm một sứ giả là ưu bà tắc Gun-Than-Pa đi Ấn Độ, đảm đang trách
nhiệm mà cha đã giao phó. Sau khi nghe kể lại về cái chết bi thảm của Trí
Quang, vị tu sĩ hoàng gia, ngài rất cảm động và nói: “Chắc chắn là ngài Trí
Quang sẽ trở thành một Bồ Tát, một Đức Phật sẽ thành, vì ông ấy đã hy sinh bản
thân cho Chánh Pháp. Ta sẽ đáp lại nguyện vọng của ông ấy, nhưng các ngươi phải
thấy là ta đang gánh trên vai ta trách nhiệm đối với 108 đền chùa. Hơn nữa, ta
còn có nhiều việc khác phải lo. Phải mất 18 tháng ta mới rời bỏ được công việc
nầy. Chỉ đến khi đó ta mới có thể đi Tây Tạng được. Còn bây giờ thì các ngươi
cứ giữ lấy số vàng nầy.” Ratnakarasanti, tu viện trưởng, bất đắc dĩ phải để cho
A Để Sa ra đi. Trong thời gian ở lại Tây Tạng, trên 30 năm, A Để Sa đã dịch
nhiều sách và viết một tác phẩm nổi tiếng của ông tựa đề “Bồ Đề Đạo Đăng Luận.”
Bản dịch ra tiếng Tây Tạng của cuốn sách nầy hiện vẫn còn. Sau nầy,
Ratnabhadra, được Trí Quang đưa đi Ấn du học ngày trước, trở thành một đệ tử
trung thành và giúp ngài A Để Sa dịch nhiều bộ sách quan trọng: Name of a
disciple of Silabhadra. According to Prof. Bapat in the Twenty-Five Hundred
Years of Buddhism, in the middle of the ninth century A.D., the Tibetan Prince
Ni-Ma-Gon moved to the west and founded a new kingdom. One of his son became a
monk named Trí Quang (Jnanaprabha). By Jnanaprabha’s time, Tantrism had
devoured all the religions of India. In spite of this, Jnanprabha himself was
not attracted to Trantism. On the contrary, he wrote a book against it. The
Tantrics of Tibet believed that the royal ascetic went to hell for writing this
book. Jnanaprabha was the eldest son of the king of Guge (Shenshung) and had
become a monk. He had read the scriptures, was a rationalist, and had inherited
from his forefathers a great faith in Buddhism. He realized, however, that the
task of combating the evils of Tantrism was so stupendous that his
single-handed efforts would not suffice. He therefore selected 21 intelligent
Tibetan youths, educated them for for ten years in the country, and then sent
them to Kashmir for higher studies. None of these, however, could stand the
rigours of the climate in Kashmir, and all of them died except Ratnabhadra
(Rin-Chhen-Zang-Po) and Suprajna (Legs-Pahi-Shes-Rab). Ratnabhadra is
considered to be the greatest translator in Tibet. When he returned at the end
of his studies, Jnanaprabha was very delighted, but the work of reform for
which he had striven so hard was too difficult for just one individual. He came
to a conclusion that since the students from Tibet found it very difficult to
stand the climate of India, it would be better if some scholars were to come
from India and work in Tibet. He decided to send a mission to go to India to
invite Dipanakara to Tibet. The mission failed, however, for the party could
not prevail upon the master to undertake a journey to Tibet. Jnanaprabha was
not one to be daunted by failure. He decided to send another party, but funds
were lacking, so he went to the Gartog Province to collect gold. This probably
refers to a place named Gartog, which was situated to the north of the
Manasarovar lake and had a gold mine. It is recorded that the king of Gartog
put him under arrest and held him up for a big ransom. When the news of
Jnanaprabha’s arrest reached his son, Bodhiprabha (Byang-Chub-Od), he thought
that he had collected enough money to effect his release. The amount, however,
proved inadequate, but before he could go back to obtain more money, he went to
see his father in prison. Jnanaprabha said to his son: “My son! You know I am
grown old. Even if I do not die immediately, I am likely to do so within
the next ten years. So if you squander money on me, we shall not be able to
send for a scholar from India. How splendid it would be if I were to die for
the sake of the great cause and you could send all the gold to India to fetch
the scholar! Moreover, it is not certain that the king will release me even
after he has received the stipulated amount of gold. So, my son, instead of
worrying about me, you had better send an emissary to Atisa. I am sure he will
agree to come to Tibet, especially when he hears about my present plight, for
he will take pity on us. If for some reason he cannot come, then you should
send for some other scholar who has worked under him.” Thus Jnanaprabha put his
hand on his son and blessed him as he took leave of him for the last time.
After the last meeting with his father, Bodhiprabha sent Upasaka Gun-Than-Po
who had lived in India for two years to go to India to invite Atisa Dipankara.
After Dipankara was told about Jnanaprabha’s tragic story (the death of the
royal ascetic), he was very moved and said: “There is no doubt that Jnanaprabha
was a Bodhisattva, the Buddha to be, because he had sacrificed himself for the
Dharma. I will fulfill his desire, but you must realize that the heavy
responsibility for 108 temples rests on my shoulders. I have to be relieved of
these duties. Then only shall I be able to go to Tibet. In the meantime, you
must keep this gold.” Dipankara informed Ratnakarasanti, the Chief Abbot of the
Mahavihara, about his intentions. Ratnakarasanti was first reluctant to let him
go, but eventually he allowed Dipankara to go to Tibet. When he stayed in
Tibet, more than thirty years, Atisa translated many books and wrote his famous
work titled “Bodhipatha-pradipa.” The Tibetan translation of this book is still
extant. Later, the great master Ratnabhadra, who had been sent by Jnanaprabha
to Kashmir, became Atisa’s staunchest devotees and assisted him in translating
many important books.
Trí Quang Minh: See Trí Huệ Quang minh.
Trí Sa: Tisya (skt)—Đế Sa.
1) Một vị cổ Phật: An ancient Buddha.
2) Cha của ngài Xá Lợi Phất: The father
of Sariputra.
Trí Siêu Việt: Prajan (skt)—Transcendental knowledge.
Trí Sơn: Trí tuệ cao tuyệt như núi—The mountain of
knowledge—Knowledge exalted as a mountain.
Trí Tác Vi: Trí tác vi là trí làm chướng ngại cho sự thành tựu giác
ngộ trong nhà Thiền—Intellection is knowledge that obstructs
enlightenment in Zen.
Trí Tam Muội: Samaya wisdom—The characteristic of a Buddha’s or
Bodhisattva’s wisdom.
Trí Tạng:
1) Trí tuệ quảng đại của Phật, bao hàm
hết thảy chư pháp—The treasury of Buddha-wisdom.
2) Tên húy của Ngài Bất Không Tam Tạng:
The posthumous title of Amogha—See Bất Không Tam Tạng.
Trí Tạng Tây Đường Thiền Sư: Zen master Zhi-T’sang-Hsi-T’ang—Thiền sư Trí Tạng Tây
Đường sanh năm 735 tại Kiền Hóa, là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất—Zen master
Zhi-T’sang-Hsi-T’ang was born in 735 in Qian-Hua, was a disciple of
Ma-Tsu-T’ao-Yi.
· Một hôm Mã Tổ sai sư đến Trường An
dâng thơ cho Quốc Sư Huệ Trung. Quốc Sư hỏi: “Thầy ngươi nói pháp gì?” Sư từ
bên Đông sang bên Tây đứng. Quốc sư hỏi: “Chỉ cái ấy hay còn cái gì khác?” Sư
trở lại bên Đông đứng. Quốc sư bảo: “Cái đó là của Mã Sư, còn ngươi thế nào?”
Sư thưa: “Đã trình tương tợ với Hòa Thượng.”—One day Ma-Tsu dispatched
Zhi-T’sang to Chang-An to deliver a letter to the National Teacher
Nan-Yang-Hui-Zhong. The national Teacher asked him: “What Dharma does your
teacher convey to people?” Zhi-T’sang walked from the east side to the west
side and stood there. The National teacher said: “Is that all?” Zhi-T’sang then
walked from the west side to the east side. The National Teacher said: “This is
Ma-Tsu’s way. What do you do?” Zhi-T’sang said: “I showed it to you already.”
· Một lần, Mã Tổ hỏi sư: “Sao con chẳng
xem kinh?” Sư thưa: “Kinh đâu có khác.” Mã Tổ nói: “Tuy nhiên như thế, con về
sau vì người cần phải xem.” Sư thưa: “Con bệnh cần phải trị dưỡng, đâu dám nói
vì người.” Mã Tổ bảo: “Con lúc lớn tuổi sẽ làm Phật pháp hưng thạnh ở đời.”—One
day Ma-Tsu asked Zhe-T’sang: “Why don’t you read sutras?” Zhi-T’sang said:
“Aren’t they all the same?” Ma-Tsu said: “Although that’s true, still you
should do so for the sake of people whom you will teach later on.” Zhi-T’sang
said: “I think Zhi-T’sang must cure his own illness. Then he can talk to
others.” Ma-Tsu said: “Late in your life, you’ll be known throughout the
world.” Zhi-T’sang bowed.
· Khi sư đã trụ trì Tây Đường, một cư
sĩ hỏi sư: “Có thiên đường, địa ngục chăng?” Sư đáp: “Có.” Vị cư sĩ lại hỏi:
“Có Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo chăng?” Sư đáp: “Có.” Người ấy hỏi nhiều vấn đề
nữa, sư đều đáp ‘có.’ Người ấy thưa: “Hòa Thượng nói thế e lầm chăng?” Trí Tạng
hỏi: “Khi ông hỏi các vị tôn túc khác thì họ nói gì?” Vị cư sĩ đáp: “Con đã hỏi
Hòa Thượng Cảnh Sơn.” Sư hỏi: “Hòa Thượng Cảnh Sơn nói với ông thế nào?” Vị cư
sĩ đáp: “Ngài nói tất cả đều không.” Sư hỏi vị cư sĩ: “Ông có vợ con gì không?”
Vị ấy đáp: “Có.” Sư hỏi tiếp: “Hòa Thượng Cảnh Sơn có vợ chăng?” Vị ấy
đáp: “Không.” Sư nói: “Như vậy Hòa Thượng Cảnh Sơn nói không là phải.” Người ấy
lễ tạ lui ra—After Zhi-T’sang became an abbot of the Western Hall (in Chinese,
Hsi-T’ang), a lay person asked him: “Is there a heaven and hell?” Zhi-T’sang
said: “There is.” The lay person then asked: “Is there really a Buddha, Dharma,
and Sangha, the three Jewels?” Zhi-T’sang said: “There are.” The lay person
then asked several other questions, and to each Zhi-T’sang answered, “There
are.” The lay person said: “Is the Master sure there’s no mistake about this?”
Zhi-T’sang said: “When you visited other teachers, what did they say?” The lay
person said: “I once visited Master Jing-Shan.” Zhi-T’sang said: “What did
Jing-Shan say to you?” The lay person said: “He said that there wasn’t a single
thing.” Zhi-T’sang said: “Do you have a wife and children?” The lay person
said: “Yes.” Zhi-T’sang said: “Does Master Jing-Shan have a wife and
children?” The lay person said: “No.” Zhi-T’sang said: “Then it’s okay for
Jing-Shan to say there isn’t a single thing.” The lay person bowed, thanked
Zhi-T’sang, and then went away.
· Thiền sư Trí Tạng thị tịch năm 814,
được vua ban hiệu “Đại Tuyên Giáo Thiền Sư.”—Zen master Zhi-T’sang died in 814.
He received the posthumous title “Zen Master Great Expounder of the
Teaching.”
Trí Tâm: Tâm có trí tuệ hay một người khôn ngoan với một cái tâm
toàn hảo—The mind of knowledge; a wise man, with the utmost or a perfect mind.
Trí Tập: Mái chèo trí tuệ, có công năng đưa chúng sanh vượt qua
biển sanh tử để đến niết bàn—Oar of wisdom, that rows across to nirvana.
Trí Tha Tâm Thông: The Intuitive knowledge of the minds of all other beings.
**
For more information, please see Tha Tâm Trí, Lục Thông, Ten Kinds of
Wisdom, and Tứ Thập Bát nguyện.
Trí Thành: Thành lũy của mật trí hay Phật quả—The city of mystic
wisdom, Buddhahood.
Trí Thân: Prajnakaya (skt)—Trí tuệ viên minh được coi như là pháp
thân của Phật, đây là một trong mười thân Phật—Wisdom-body, the Tathagata, one
of the ten bodies of a Thus Come One.
**
For more information, please see Thập Thân Phật.
Trí Thiền Sư: Zen Master Trí—Thiền sư Việt Nam, quê ở Phong Châu, Bắc
Việt. Ngài là dòng dõi của vua Lê Đại Hành. Ông nội ngài là Lê Thuận Tông, là
một quan chức lớn của triều Lý. Ngài thi đậu Tiến Sĩ và được bổ làm Cung Hầu
Thư Gia trong triều. Năm 27 tuổi, ngài xuất gia làm đệ tử của Thiền sư Giới
Không. Sau khi trở thành pháp tử đời thứ 16 của dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi,
ngài đi đến núi Từ Sơn và trụ trong rừng sâu để tu tập khổ hạnh và thiền định
trong sáu năm liền. Sau đó ngài xuống chân núi cất am Phù Môn giảng pháp cho
đến khi ngài thị tịch. Cả hai ông Tô Hiến Thành và Ngô Hòa Nghĩa dều là đệ tử
tại gia của ngài—A Vietnamese zen master from Phong Châu, North Vietnam. He was
a descendant of King Lê Đại Hành. His grandfather named Lê Thuận Tông, a high
official in the royal court during the Lý Dynasty. He passed the Doctorate
Degree in Philosophy and was assigned as a royal official with the rank of
“Cung Hầu Thư Gia.” At the age of 27, he left home and became a disciple of Zen
master Giới Không. After becoming the dharma heir of the sixteenth generation
of the Vinitaruci Zen Sect, he went to Mount Từ Sơn and stayed in the deep
jungle to practice ascetics and meditation for six years. Then he went to the
mountain foot to build a small temple named Phù Môn and stayed there to preach
Buddha Dharma until he passed away. It should be noted that both Tô Hiến Thành
and Ngô Hòa Nghĩa were his lay disciples.
Trí Thông Minh: Intelligence.
Trí Thủ: Tay biết việc hay tay phải—The knowing hand or the right
hand.
Trí Thức:
· Trí thức:
Intellectual—Knowledge—Learning—Acquaintance.
· Trí và Thức: Jnana and Vijnana
(skt)—Trí là sự vô chấp, còn thức là bị ràng buộc vào một thế giới bên ngoài
của các đặc thù—Jnana is non-attachment, whereas vijnana is attached to an
external world of particulars.
Trí Thường Qui Tông Thiền Sư: Thiền sư Trí Thường Qui Tông quê ở Giang Linh (nay thuộc
tỉnh Hồ Bắc), là đệ tử của Thiền Sư Mã Tổ Đạo Nhất—Zen master
Zhi-Chang-Kui-Zong was from Jiang-Ling (now in Hu-bei Province), was a disciple
of Zen master Ma-Tsu-T’ao-Yi.
· Một hôm sư thượng đường dạy chúng:
“Các bậc cổ đức từ trước không phải chẳng hiểu biết, các ngài là bậc cao thượng
chẳng đồng hạng thường. Người thời nay không thể tự thành tự lập, để tháng ngày
qua suông. Các ngươi chớ lầm dụng tâm, không ai thế được ngươi, cũng không có
chỗ ngươi dụng tâm. Chớ đến người khác tìm, từ trước chỉ nương người khác mà
tìm hiểu, nói ra đều kẹt, ánh sáng không thấy suốt, chỉ vì trước mắt có
vật.”—Master Zhi-Chang Kui-Shan entered the hall and addressed the monks,
saying: “The virtuous of former times were not without knowledge and
understanding. Those great adepts were not of the common stream. People these days
are unable to be self-empowered, nor can they stand alone. They just idly pass
the time. All of you here, don’t make the error of employing your mind. No one
can do it for you. Moreover, there is no place where mind can be used. Don’t be
seeking it somewhere else. Up to now you have been acting in accordance with
someone else’s understanding. Your own speech is completely obstructed. The
light does not shine through. There are obstructions blocking your vision.”
· Có vị Tăng hỏi sư: “Thế nào là huyền
chỉ?” Sư đáp: “Không người hay hội.” Vị Tăng lại hỏi: “Người hướng về thì sao?”
Sư nói: “Có hướng tức trái.” Vị Tăng lại hỏi: “Người chẳng hướng thì sao?”Sư
đáp: “Đi! Không có chỗ cho ngươi dụng tâm.” Vị Tăng hỏi: “Đâu không có cửa
phương tiện khiến học nhơn được vào?” Sư đáp: “Quan Âm sức diệu trí hay cứu khổ
thế gian.” Vị Tăng lại hỏi: “Thế nào là sức diệu trí Quan Âm?” Sư gõ cái đỉnh
ba tiếng, hỏi: “Ngươi nghe chăng?” Vị Tăng đáp: “Nghe.” Sư nói: “Sao ta chẳng
nghe?” Vị Tăng không đáp được. Sư cầm gậy đuổi ra—A monk asked Zen master
Zhi-Chang: “What is the essential mystery?” Zhi-Chang said: “No one can
understand it.” The monk said: “How about those who seek it?” Zhi-Chang said:
“Those who seek it miss it completely.” The monk asked: “How about those who
don’t seek it?” Zhi-Chang said: “Go! There’s no place for you to use your
mind.” The monk said: “Then, is there no expedient gate through which you can
help me to enter?” Zhi-Chang said: “Kuan-Yin’s sublime wisdom can save the
world from suffering.” The monk said: “What is Kuan-Yin’s sublime wisdom?” The
master struck the top of the incense urn three times with his staff and said:
“Did you hear that or not?” The monk said: “I heard it.” Zhi-Chang said: “Why
didn’t I hear it?” The monk was silent. The master then took his staff and got
down from the seat.
· Sư thượng đường dạy chúng: “Nay tôi
muốn nói thiền, các ngươi tất cả lại gần đây.” Đại chúng tiến đến gần. Sư bảo:
“Các ngươi nghe, hạnh Quan Âm khéo hiện các nơi chốn.” Vị Tăng hỏi: “Thế nào là
hạnh Quan Âm?” Sư khảy móng tay, hỏi: “”Các ngươi có nghe chăng?” Đại chúng
đáp: “Nghe.” Sư nói: “Một bọn hướng trong ấy tìm cái gì?” Sư cầm gậy đuổi ra,
rồi cười lớn, đoạn đi vào phương trượng—Zhi-Chang entered the hall and
addressed the monks, saying: “I want to speak about Zen. All of you gather
around.” The monks gathered closely around Zhi-Chang. Zhi-Chang said: “Listen
to Bodhisattva Kuan-Yin’s practice. Its goodness extends everywhere.” Someone
asked: “What is Kuan-Yin’s practice?” Zhi-Chang pointed with his finger and
said: “Do you still hear it?” The monk said: “We hear it.” Zhi-Chang said:
“What is this pack of fools looking for?” He took his staff and chased the
monks out of the hall. With a big laugh he went back to the abbot’s quarters.
· Một vị Tăng đến từ biệt sư. Sư hỏi:
“Đi đâu?” Vị Tăng đáp: “Đi các nơi học ngũ vị thiền.” Sư nói: “Các nơi có ngũ
vị thiền, ta trong ấy chỉ có nhất vị thiền.” Vị Tăng hỏi: “Thế nào là nhất vị
thiền?” Sư liền đánh. Vị Tăng bỗng nhiên đại ngộ, thưa: “Ngưng, con biết rồi.”
Sư nói: “Nói! Nói!” Vị Tăng ngập ngừng trả lời. Sư lại đánh đuổi ra—A monk was
leaving the monastery. Zhi-Chang asked him: “Where are you going?” The monk
said: “I’m going everywhere to study the five flavors of Zen.” Zhi-Chang said:
“Everywhere else has five Zen flavors. Here I only have one-flavored Zen.” The
monk said: “What is one-flavored Zen?” Zhi-Chang hit him. The monk said:
“I understand! I understand!” Zhi-Chang said: “Speak! Speak!” The monk
hesitated. Zhi-Chang hit him again. The monk later went to Huang-Bo and told
him about this previous exchange with Zhi-Chang. Huang-Bo entered the hall and
addressed the monks, saying: “Great Teacher Ma brought forth eighty-four
people. But if some worthy asks them a question every one of them just wets his
pants. Only Zhi-Chang is up to snuff!”
· Thích sử Giang Châu là Lý Bột đến
hỏi sư: “trong kinh nói: ‘Hạt cải để trong núi Tu Di,’ Bột không nghi. Lại nói:
‘Núi Tu Di để trong hạt cải,’ phải là dối chăng?” Sư gạn lại: “Người ta đồn Sử
quân đọc hết muôn quyển sách phải chăng?” Thích Sử đáp: “Đúng vậy.” Sư nói: “Rờ
từ đầu đến chân bằng cây dừa lớn, muôn quyển sách để chỗ nào?” Lý Bột cúi đầu
lặng thinh—Governor Li-Bo of Jiang-Chou said to Zhi-Chang: “In the scripture it
says that a mustard seed fits inside Mount Sumeru. This I don’t doubt. But it
also says that Mount Sumeru fits inside a mustard seed. I’m afraid this is just
foolish talk.” Zhe-Chang said: “I’ve heard that Your Excellency has read
thousands of scriptures. Is this so or not?” The governor said: “Yes, it is
true.” Zhe-Chang said: “From top to bottom your head is about the size of a
coconut. Where did all those scriptures go?” The governor could only bow his
head in deference.
· Sau khi sư thị tịch, sư được vua ban
hiệu “Chí Chơn Thiền Sư”—After his death, he received the posthumous title “Zen
Master Arrive at Truth.”
Trí Tích: Jnanakara (skt).
1) Sự tích tụ trí huệ: Accumulation of
knowledge.
2) Một vị Bồ Tát được nói đến trong
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Là con trưởng của Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Trí
Tích là quyến thuộc của Đức Đa Bảo Như Lai: A Bodhisattva mentioned in the
Wonder Lotus Sutra (Aksobhya Prajnakuta). The eldest son of Mahabhijna. He is
in the retinue of Prabhutratna.
Trí Tịnh: Jnana-pavana (skt)—Purifying knowledge.
Trí Tịnh Tướng:
1) Trí Tuệ và sự thanh tịnh: Wisdom and
purity.
2) Trí thanh tịnh: Pure-wisdom
aspect—Pure wisdom.
Trí Trí: Nhất Thiết Trí của Đức Phật—Wisdom of wisdom.
**
For more information, please see Ngũ Trí.
Trí Túc: Một trong nhị túc, trí túc là Ba La Mật thứ sáu trong lục
Ba La Mật—One of the two feet, the foot of wisdom consisting of the sixth
paramita in the six paramitas—See Lục Độ Ba La Mật (6).
Trí Tuệ: Jnana and Prajna (skt).
(A) Nghĩa của Trí Tuệ—The meanings of wisdom:
1) Sự hiểu biết về vạn hữu và thực
chứng chân lý—Knowledge of things and realization of truth.
a) Trí: Jnana (skt)—Sự hiểu biết về vạn
hữu—Knowledge of things.
b) Tuệ: Prajna (skt)—Thực chứng chân
lý—The realization of truth—Trí tuệ dựa vào chánh kiến và chánh tư duy: Wisdom
is based on right understanding and right thought.
(B) Phân loại Trí—Categories of wisdom:
a) Hai loại trí tuệ—There are two
kinds:
1) Quyền đạo trí: Partial, temporary,
or relative knowledge of reality.
2) Bát Nhã trí: Prajna wisdom—The
absolute truth or reality instead of the seeming.
** For more information, please see Nhị Trí.
b) Nhị Trí Viên Mãn: Two kinds of
Perfect and Complete Tathagata-wisdom—See Nhị Trí Viên Mãn.
c) Tam Trí: Three kinds of wisdom—See
Tam Trí.
d) Tứ Trí: Four kinds of wisdom—See Tứ
Trí.
e) Ngũ Trí: Five kinds of wisdom—See
Ngũ Trí.
Trí Tuệ Bát Nhã: Prajna-paramita (skt)—Transcendental knowledge—See Trí Huệ
Ba La Mật.
Trí Tuệ Kim Cang Bồ Tát: Prajna-bodhisattva (skt)—See Bát Nhã Bồ Tát.
Trí Tuệ Lực: Wisdom—Insight.
Trí Tuệ Nông Cạn: The two-finger (narrow) wisdom.
Trí Tuệ Phương Tiện: Prajnopaya (skt)—Knowledge and means.
Trí Tuệ Quang Phật: See Trí Huệ Quang Phật.
Trí Tuệ Tâm Linh: Spiritual wisdom (insight).
Trí Tuệ Thế Gian: Temporal wisdom.
Trí Tuệ Tối Thượng: The supreme wisdom—To be full of wisdom.
Trí Tuệ Xuất Thế Gian: Supernatural wisdom.
Trí Tương Đối: Paratantra (skt)—Y tha khởi tính, duyên khởi tướng—The
knowledge of relativity.
Trí Tướng: Hào quang hay ánh sáng trí tuệ chiếu tỏa từ mặt Phật
(tướng mạo trí tuệ của Phật hiển hiện ra bên ngoài)—Human intelligence—Wise
appearance—The wisdom-light shining from the Buddha’s face.
Trí Tướng Tôn Giả: Nhị Tổ của tông Hoa Nghiêm—The second patriarch of the
Hua-Yen sect.
Trí Tượng:
1) Trí Tuệ hay Bát Nhã giống như một
con voi: Prajna or wisdom likened to an elephant.
2) Danh hiệu của Phật: A title of Budha.
3) Tên của một vị sư Ấn Độ: Name of an
Indian monk.
4) Tên khác của Kinh Niết Bàn: Another
name for Nirvana Sutra.
5) Tên khác của Kinh Bát Nhã Ba La Mật
Đa: Another name for the Prajna-Paramita Sutra.
Trí Uyển Chuyển: Flexible wisdom.
Trí Vô Ngôn: Nonverbal knowledge.
Trí Vô Sư: Giới Định Huệ—Teacherless knowledge—Knowledge that comes
from practicing the precepts, concentration and wisdom.
Trí Xảo: Cunning—Clever.
Trì: Dhara or Dhr (skt)—To pull—To lay hold of—To grasp—To
keep—To control—To maintain.
Trì Anh Lạc: Maladhari (skt)—
1) Đeo chuỗi Anh Lạc: Wearing a
chaplet.
2) Tên của một loài nữ quỷ: Name of a
raksasi, or demoness.
Trì Bát Thiền Sư: Zen Master Trì Bát (1049-1117)—Thiền sư Việt Nam, quê ở
Luy Lâu. Ngài thích Phật giáo từ khi còn nhỏ. Lúc 20 tuổi, ngài xuất gia và trở
thành đệ tử , và thọ giới cụ túc với Thiền sư Sùng Phạm tại chùa Pháp Vân. Ngài
trở thành Pháp tử đời thứ 12 dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sau khi Thầy thị
tịch, ngài trở thành du Tăng khất sĩ để tầm cầu chân lý. Về sau, ngài trụ tại
chùa Tổ Phong trên núi Thạch Thất. Lý Thường Kiệt là một trong những đệ tử tại
gia nổi tiếng của ngài. Hầu hết cuộc đời ngài, ngài chấn hưng và hoằng hóa Phật
giáo tại Bắc Việt. Ngài thị tịch năm 1117—A Vietnamese Zen master from
Luy Lâu, North Vietnam. He favored Buddhism when he was very young. At the age
of 20, he left home, became a disciple and received complete precepts with Zen
Master Sùng Phạm at Pháp Vân Temple. He became the Dharma heir of the
Vinitaruci Zen Sect. After the latter’s death, he became a wandering monk in
search of the truth. Later, he stayed at Tổ Phong Temple on Mount
Thạch Thất. Lý Thường Kiệt was one of his most outstanding lay disciples. He
spent most of his life to revive and expand Buddhism in North Vietnam. He
passed away in 1117.
Trì Biên Sơn: Nemimdhara (skt)—Tiếng Phạn gọi là Ni Dân Đà La, tức bảy
núi Kim Sơn Trì bao quanh núi Tu Di—The outermost of the seven mountain circles
around Mount Meru.
Trì Bổn:
1) Gìn giữ căn bản: Holding to the root
or fundamental.
2) Địa Thần, chuyên chở vạn sự vạn vật:
Ruler of the earth, which is the root and source of all things.
Trì Chấp Kim Cang: Vajradhara or Vajrapani (skt).
1) Còn gọi là Trì Kim Cang, là vị Bồ
Tát tỏ rõ trí lực không gì phá nổi của Kim Cang Bộ Bồ Tát. Ngài thường cầm cây
chùy kim cương loại một chẻ, hoặc ba, hoặc năm chẻ—A Bodhisattva who holds a
vajra or thunderbolt, of these there are several different kinds, based on
numbers of prongs on their thunderbolt (one, three, or five).
2) Tên của vua Trời Đế Thích: Name for
Indra.
Trì Chí: Patient.
Trì Chú: To chant Mantras or Dharanis, chanting of mantras.
Trì Cú Thần Chú: Người trì chú Đà La Ni—One who holds or retains the words
of the dharani.
Trì Danh: Thụ trì và niệm tưởng danh hiệu của Đức Phật A Di Đà
(người niệm Phật gọi là trì danh hành giả. Trì danh là nắm giữ danh hiệu Phật
trong tâm trí mình)—Oral recitation method—“Holding the name” method—To hold on
or rely on the name of Amitabha.
Trì Danh Ký Thập: Niệm Phật đếm từ một đến mười lần—Decimal recording
recitation.
Trì Danh Lễ Bái: Vừa niệm vừa lạy—“Bowing to the Buddha” recitation.
Trì Danh Liên Hoa: Vừa niệm vừa quán tưởng hoa sen—“Lotus blossom”
recitation.
Trì Danh Phản Văn: Vừa niệm vừa nghe—“Reflecting the name” recitation.
Trì Danh Sổ Châu: Vừa niệm vừa lần chuỗi—“Counting rosary beads” recitation.
Trì Danh Tùy Tức: Niệm Phật nương theo hơi thở—“Breath by breath”
recitation.
Trì Địa: Dharanimdhara (skt)—Tên của một vị Bồ tát người được Phật
thọ ký là tương lai của Ngài Quán Âm—Holder or ruler of the earth or land—Name
of a bodhisattva, whom the Buddha predicted as the future of
Avalokitesvara.
Trì Địa Trụ: Trụ thứ nhì trong Thập Trụ—The second ground of the ten
grounds—See Thập Trụ (2).
Trì Độn: Slow and stupid—Dull.
Trì Giới: Giữ giới có hai loại---Morality—To uphold the precepts—To
practice morality—To keep the commandments or rules—To observe
commandments—There are two kinds:
1) Chỉ trì: Tránh làm các việc
ác—Prohibitive or restraining from evils.
2) Tác trì: Làm các việc
thiện—Constructive or constraining to goodness.
**For
more information, please see Lục Độ Ba La Mật (2) in Vietnamese-English
Section.
Trì Giới Ba La Mật: Sila-paramita (skt)—Giữ tròn giới luật, một trong lục Ba
la mật—Trì giới Ba la mật còn là cửa ngõ đi vào hào quang chư pháp, vì nhờ đó
mà chúng ta xa lìa thế giới nhiễm trược, và cũng nhờ đó mà chúng ta có thể
hướng dẫn những chúng sanh hay buông lung phá giới—Precept paramita—Morality
paramita—keeping the moral law—One of the six paramita—The Sila-paramita is a
gate of Dharma-illumination; for with it, we distantly depart from the
hardships of evil worlds, and we teach and guide precept-breaking living
beings.
** For more information, please see
Lục Độ Ba La Mật in Vietnamese-English Section.
Trì Giới Phạm Hạnh: Brahma-carya (skt)—To remain unmarried and to keep
commandments.
Trì Giữ Thiện Pháp: Observance of good law (good method—good ways) or the
moral rule of the Universe.
Trì Hoãn: To retard—To linger—To delay.
Trì Kim Cang: See Trì Chấp Kim Cang.
Trì Luật: Giữ gìn giới luật—A keeper or observer of the discipline.
Trì Minh: Tên khác của Đà La Ni, hay Chân Ngôn—The
dharani-illuminant, i.e. the effective “true words” or magical term.
Trì Minh Tạng: Vidyadhara-pitaka (skt)—Pháp Tạng Trì Minh hay tất cả kinh
điển của Chân Ngôn Đà La Ni—The canon of the dharanis.
Trì Minh Tiên: Vị Tiên tụng trì Đà La Ni để thành tựu thần thông—The
magician who possesses the dharani-illuminant.
Trì Nghi: To doubt—To suspect.
Trì Ngưu Giới: Những người trì giữ giới của loài trâu bò, có một loại
ngoại đạo tin rằng để tạo nhân sinh vào cõi trời thì phải hành trì ngưu giới,
phải khổ hạnh như loài trâu, phải nhắm mắt cúi đầu ăn cỏ và hành xử như
trâu—Keepers of the law of oxen, an ascetic sect who ate and acted like
oxen.
Trì Niệm: Trì giữ chánh pháp vào trong ký ức—To hold in memory.
Trì Phạm: Trì giữ và vi phạm giới luật—Maintaining and
transgressing.
1) Trì giữ: Gìn giữ giới luật bằng hai
cách—Keeping the commandments by two ways.
a) Chỉ trì: Phép chỉ ác hay ngưng làm
những việc ác, như trì giữ ngũ giới, cho đến cụ túc giới—Ceasing to do wrong,
i.e. maintaining the five basic commandments, or 250 commandments.
b) Tác trì: Các phép tác thiện, hay làm
những điều đúng, như lễ bái, sám hối, và sống đời phạm hạnh, vân vân—Doing what
is right, e.g. worship, the monastic life, etc.
2) Hủy phạm: Hủy phạm có hai
loại—Transgression is also of two kinds.
a) Tác phạm: Manh động tam nghiệp để
xúc phạm phép chỉ trì, hay tích cực làm điều ác—Positive in doing evil.
b) Chỉ phạm: Trễ nải tam nghiệp không
tu thiện nghiệp tác trì, hay tiêu cực trong thiện nghiệp—Negative in not doing
good.
Trì Pháp Giả: Người trì giữ và bảo hộ Phật pháp—A keeper or protector of
the Buddha-law.
Trì Quốc Giả: Vị vua cai trị trong một vương quốc—A sovereign, ruler of
a kingdom.
Trì Quốc Thiên: Dhrtarastra (skt)—See Trì Quốc Thiên Vương.
Trì Quốc Thiên Vương: Dhrtarastra (skt)—Tên của Đông Phương Thiên Vương, một
trong tứ thiên vương, áo trắng, trấn giữ phía đông—One of the four
deva-guardian or maharajas, controlling or guarding the eastern quarter,
of white color.
Trì Song Sơn: Yugamdhara (skt)—Dãy núi đầu tiên trong bảy dãy núi bao
quanh núi Tu Di—The first of the seven concentric mountains around Mount Meru.
Trì Thế Bồ Tát: Bodhisattva Ruler of the World—Theo Kinh Duy Ma Cật, trong
thời Phật còn tại thế, lúc cư sĩ Duy Ma Cật có bệnh, Đức Phật liền nhờ Trì Thế
Bồ Tát đến thăm bệnh cư sĩ—According to the Vimalakirti Sutra, once Upasaka
Vimalakirti was sick, the Buddha asked Bodhisattva Ruler of the World to
call on Vimalakirti to enquire his health.
· Phật
bảo Bồ Tát Trì Thế: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật dùm ta.”—The Buddha
then said to the Bodhisattva Ruler of the World: “You call on Vimalakirti to
enquire after his health on my behalf.”
· Bồ
Tát Trì Thế bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh ông. Vì
sao? Nhớ lại lúc trước, con ở nơi tịnh thất, bấy giờ Ma Ba Tuần đem một muôn
hai ngàn Thiên nữ giống như trời Đế Thích, trổi nhạc đờn ca đi đến chỗ con ở,
Ma cùng với quyến thuộc cúi đầu làm lễ dưới chân con, chấp tay cung kính đứng
sang một bên. Trong ý con cho là trời Đế Thích nên bảo rằng: “Lành thay, mới
đến Kiều Thi Ca! Dù là có phước chớ nên buông lung. Ông nên quán ngũ dục là vô
thường để cầu cội lành, ở nơi thân mạng, tài sản mà tu Pháp bền chắc.”—Ruler of
the Word replied: “World Honoured One, I am not qualified to call on him and
enquire after his health. I still remember that once as I was staying in
a vihara, a demon like Indra appeared followed by twelve thousand goddesses
(devakanya) playing music and singing songs. After bowing their heads at
my feet they brought their palms together and stood at my side. I mistook
the demon for Sakra and said to him: ‘Welcome, Sakra, although you have won
merits, you should guard against passion (arising from music, song and
sex). You should look into the five desires (for the objects of the five
senses) in your practice of morality. You should look into the
impermanence of body, life and wealth in your quest of indestructible Dharma
(i.e. boundless body, endless life and inexhaustible spiritual wealth..’
· Ma
vương nói với con: “Thưa Chánh sĩ! Xin ngài nhận một muôn hai ngàn Thiên nữ nầy
dùng để hầu hạ quét tước.” Con nói rằng: “Nầy Kiều Thi Ca! Ông đừng cho vật phi
pháp nầy, tôi là kẻ Sa Môn Thích tử, việc ấy không phải việc của tôi.” Nói chưa
dứt lời, bỗng ông Duy Ma Cật đến nói với con: “Đây chẳng phải là Đế Thích, mà
là Ma đến khuấy nhiễu ông đấy!” Ông lại bảo ma rằng: “Các vị Thiên nữ nầy nên
đem cho ta, như ta đây mới nên thọ.”—He said: ‘Bodhisattva, please take these
twelve thousand goddesses who will serve you.’ I replied: ’Sakra, please do not
make to a monk this unclean offering which does not suit me.’ “Even before I
had finished speaking, Vimalakirti came and said: ‘He is not Sakra; he is
a demon who comes to disturb you.’ He then said to the demon: ‘You can give me
these girls and I will keep them.’
· Ma
sợ hãi nghĩ rằng: “Có lẽ ông Duy Ma Cật đến khuấy rối ta chăng?” Ma muốn ẩn
hình mà không thể ẩn, rán hết thần lực, cũng không đi được. Liền nghe giữa hư
không có tiếng rằng: “Nầy Ba Tuần! Hãy đem Thiên nữ cho ông Duy Ma Cật thì mới
đi được. Ma vì sợ hãi, nên miễn cưởng cho—The demon was frightened, and being
afraid that Vimalakirti might give him trouble, he tried to make himself
invisible but failed, and in spite of his use of supernatural powers he could
not go away. Suddenly a voice was heard in the air, saying: ‘Demon,
give him the girls and then you can go.’ Being scared, he gave the girls.’
· Khi
ấy ông Duy Ma Cật bảo các Thiên nữ rằng: “Ma đã đem các ngươi cho ta rồi, nay
các ngươi đều phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rồi ông theo căn
cơ của Thiên nữ mà nói Pháp để cho phát ý đạo, và bảo rằng ‘các ngươi đã phát ý
đạo, có Pháp vui để tự vui chớ nên vui theo ngũ dục nữa.’” Thiên nữ hỏi: “Thế
nào là Pháp vui?”—To Vimalakirti who said to them: ‘The demon has given you to
me. You can now develop a mind set on the quest of supreme
enlightenment.’ “Vimalakirti then expounded the Dharma to them urging them to
seek the truth. He declared: ‘You have now set your minds on the quest
for the truth and can experience joy in the Dharma instead of in the five
worldly pleasures (arising from the objects of the five senses).’ “They asked
him: ‘What is this joy in the Dharma?’
· Ông
đáp: “Vui thường tin Phật; vui muốn nghe pháp; vui cúng dường Tăng; vui lìa ngũ
dục; vui quán ngũ ấm như oán tặc; vui quán thân tứ đại như rắn độc; vui quán
nội nhập (sáu căn) như không; vui gìn giữ đạo ý; vui lợi ích chúng sanh;
vui cung kính cúng dường bực sư trưởng; vui nhẫn nhục nhu hòa; vui siêng nhóm
căn lành; vui thiền định chẳng loạn; vui rời cấu nhiễm đặng trí tuệ sáng suốt;
vui mở rộng tâm Bồ Đề; vui hàng phục các ma; vui đoạn phiền não; vui thanh tịnh
cõi nước Phật; vui thành tựu các tướng tốt mà tu các công đức; vui trang nghiêm
đạo tràng; vui nghe pháp thâm diệu mà không sợ; vui ba môn giải thoát mà không
vui phi thời; vui gần bạn đồng học; vui ở chung với người không phải đồng học
mà lòng thương không chướng ngại; vui giúp đỡ ác tri thức; vui gần thiện tri
thức; vui tâm hoan hỷ thanh tịnh; vui tu vô lượng Pháp đạo phẩm. Đó là
Pháp vui của Bồ Tát—“He replied: ‘Joy in having faith in the Buddha, joy in
listening to the Dharma, joy in making offerings to the Sangha, and joy in
forsaking the five worldly pleasures; joy in finding out that the five
aggregates are like deadly enemies, that the four elements (that make the body)
are like poisonous snakes, and that the sense organs and their objects are
empty like space; joy in following and upholding the truth; joy in being
beneficial to living beings; joy in revering and making offerings to your
masters; joy in spreading the practice of charity (dana); joy in firmly keeping
the rules of discipline (sila); joy in forbearance (ksanti); joy in unflinching
zeal (virya) to sow all excellent roots; joy in unperturbed serenity (dhyana);
joy in wiping out all defilement that screens clear wisdom (prajna); joy in
expanding the enlightened (bodhi) mind; joy in overcoming all demons; joy in
eradicating all troubles (klesa); joy in purifying the Buddha land; joy in
winning merits from excellent physical marks; joy in embellishing the
bodhimandala (the holy site); joy in fearlessness to hear (and understand ) the
profound Dharma; joy in the three perfect doors to nirvana (i.e. voidness,
formlessness and inactivity) as contrasted with their incomplete counterparts
(which still cling to the notion of objective realization); joy of being with
those studying the same Dharma and joy in the freedom from hindrance when
amongst those who do not study it; joy to guide and convert evil men and to be
with men of good counsel; joy in thestat of purity and cleanness; joy in the
practice of countless conditions contributory to enlightenment. All this
is the Bodhisattva joy in the Dharma.’
· Khi
ấy Ma Ba Tuần bảo các Thiên nữ rằng: “Ta muốn cùng các ngươi trở về Thiên
cung.”—At that time, the demon said to the girls: ‘I want you all to return
with me to our palace.’
· Các
Thiên nữ đáp: “Ông đã đem chúng tôi cho cư sĩ, chúng tôi có pháp vui, chúng tôi
vui lắm, không còn muốn vui theo ngũ dục nữa.”—The girls replied: ‘While we are
here with the venerable upasaka, we delight in the joy of the Dharma; we no
longer want the five kinds of worldly pleasures.’
· Ma
liền thưa với ông Duy Ma Cật rằng: “Xin ngài nên xả các Thiên nữ nầy; người đem
tất cả vật của mình để bố thí cho kẻ khác, đó mới là Bồ Tát—The demon then said
to Vimalakirti: ‘Will the upasaka give away all these girls, as he who gives
away everything to others is a Bodhisattva?’
· Ông
Duy Ma Cật nói: “Ta đã xả rồi, ngươi hãy đem đi. Như thế ta đã làm cho tất cả
chúng sanh đặng phát nguyện đầy đủ.”—Vimalakirti said: ‘I now give up all of
them and you can take them away so that all living beings can fulfill their
vows to realize the Dharma.’
· Lúc
ấy các Thiên nữ hỏi ông Duy Ma Cật rằng: “Chúng tôi làm thế nào ở nơi cung
ma?”—The girls then asked Vimalakirti: ‘What should we do while staying at the
demon’s palace?’
· Ông
Duy Ma Cật đáp: “Này các chị, có Pháp môn tên là Vô Tận Đăng, các chị nên học.
Vô tận đăng là ví như một ngọn đèn mồi đốt trăm ngàn ngọn đèn, chỗ tối đều
sáng, sáng mãi không cùng tận. Như thế đó các chị! Vả lại một vị Bồ Tát mở mang
dẫn dắt trăm ngàn chúng sanh phát tâm Bồ Đề, đạo tâm của mình cũng chẳng bị
tiêu mất, tùy nói Pháp gì đều thêm lợi ích cho các Pháp lành, đó gọi là Vô Tận
Đăng. Các chị dầu ở cung ma mà dùng Pháp môn Vô Tận Đăng nầy làm cho vô số
Thiên nữ phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác, đó là báo ơn Phật, cũng là
làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.”—Vimalakirti replied: ‘Sisters, there is a
Dharma called the Inexhaustible Lamp which you should study and
practice. For instance, a lamp can (be used to) light up hundreds and
thousands of other lamps; darkness will thus be bright and this brightness will
be inexhaustible. So, sisters, a Bodhisattva should guide and convert
hundreds and thousands of living beings so that they all develop the mind set
on supreme enlightenment; thus his deep thought (of enlightening others) is,
likewise, inexhaustible. His expounding of the Dharma will then increase
in all excellent Dharmas; this is called the Inexhaustible Lamp. Although
you will be staying at the demon’s palace you should use this Inexhaustible
Lamp to guide countless sons and daughters of devas to develop their minds set
on supreme enlightenment, in order to repay your debt of gratitude to the
Buddha, and also for the benefit of all living beings.’
· Bấy
giờ các Thiên nữ cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi theo Ma Ba Tuần
trở về Thiên cung, bỗng nhiên biến mất không còn thấy nữa—The devas ‘ daughters
bowed their heads at Vimalakirti’s feet and followed the demon to return to his
palace; and all of a sudden they vanished.”
· Bạch
Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật có thần lực tự tại và trí tuệ biện tài như thế, nên con
không kham lãnh đến thăm bệnh ông—World Honoured One, since Vimalakirti
possesses such supernatural power, wisdom and eloquence, I am not qualified to
call on him to enquire after his health.”
Trì Thủy: Jatimdhara (skt)—Một vị lương y đã điều chỉnh toa thuốc và
thức ăn trong các mùa cho bệnh nhân, sau nầy tái sanh làm Tịnh Phạn Vương—A
physician who adjusted prescriptions and diet to the seasons; reborn as
Suddhodana.
Trì Tố: Trì trai hay ăn chay và không ăn sau giờ ngọ (từ 11 đến 1
giờ chiều)—To keep to vegetarian diet—Vegetarian—To keep the fast, i.e. not to
eat after noon.
Trì Trai: See Trì Tố.
Trì Trục Sơn: Isadhara (skt)—Trì trục Sơn có tên tiếng Phạn là Y Sa Đà
La Sơn, vòng núi thứ nhì trong bảy vòng bao quanh núi Tu Di, có hình như trục
bánh xe—The second of the seven concentric mountains round Mount Meru, rounded
like a hub.
Trì Tức Niệm: Một trong ngũ đình tâm quán, quán hay kiểm soát hơi thở để
định tâm—One of the five-fold procedures for quieting the mind, the
contemplation in which the breathing is controlled—See Ngũ Đình Tâm Quán.
Trĩ: Chim trĩ (gà rừng)—A pheasant—A parapet.
Trĩ Cứu Lâm Hỏa: Chim trĩ đang bận rộn dập tắt lửa rừng, nên được thần lửa
thương xót và cứu độ (ý nói muốn được chư Phật thương xót cứu độ, thì trước hết
tự mình phải cứu lấy mình, phải tự mình dập tắt những ngọn lửa dục độc hại nơi
chính mình trước đã)—The pheasant which busied itself in putting out the forest
on fire and was pitied and saved by the fire-god.
Trị:
1) Giá trị: Valued at—Worth.
2) Trị Bệnh: To cure—To treat—To heal a
disease.
3) Cai Trị: To rule—To govern.
4) Trị Tội: To punish.
5) Trị vì: To rule or to govern.
Trị An: To maintain order.
Trị Gia: To manage one’s home.
Trị Liệu: Therapeutic—Therapies.
Trị Quốc: To rule (govern) a country.
Trích: To copy out—To extract—To excerpt.
Trích Dịch: To extract a passage from a book and translate it.
Trích Đăng: To extract a passage from a book and insert it in a
newspaper.
Trích Giảng: To extract and explain.
Trích Yếu: Subject.
Trịch:
1) Ném liệng hay loại bỏ: To throw
away—To reject—To cast away.
2) Rất nặng: Very heavy.
Trịch Ác Nhân: Loại bỏ kẻ ác—To cast away, or reject, wicked man.
Trịch Chỉ Đa: Chikdha (skt)—Vùng đất mà bây giờ là Chitor hay Chittore,
thuộc miền Trung Ấn—The modern Chitor, or Chittore, in Central India.
Trịch Thượng: Lofty tone.
Triền:
(A) Nghĩa của Triền—The meanings of Bonds or entanglements:
1) Triền dốc: Slope of a hill or
mountain.
2) Cột trói: To bind with cords—Bonds.
3) Tên khác của phiền não: Dục vọng và
phiền não trói buộc thân tâm người khiến cho người không được tự tại—Another
name for afflictions; the passions and delusions which binds human body and
minds.
(B) Phân loại Triền—Categories of bonds or entanglements:
1) Bát Triền hay tám thứ trói buộc:
Eight entanglements or bonds—See Bát Triền in Vietnamese-English Section.
2) Thập Triền hay mười thứ trói buộc:
Ten entanglements or bonds.
Triền Báo: Quả báo của sự trói buộc trong luân hồi sanh tử—The
retribution of transmigration-bondage.
Triền Miên: Continously—Ceaselessly—Incessantly.
Triền Phược: Trói buộc hay thập triền tứ phược—Bondage—Ten
entanglements and four bonds.
**
For more information, please see Thập Triền Tứ Phược.
Triền Vô Minh: Sự trói buộc của vô minh—The bondage of unenlightenment.
Triển:
1) Phát triển—To develop—To evolve.
2) Tiến triển---To progress.
3) Triển khai: To extend—To expand—To
stretch.
Triển Chuyển Lực: Khả năng phát triển hay mở rộng ra—Powers of extension or
expansion.
Triển Hạn: To extend a time limit (dead line).
Triển Khai: To open out.
Triển Lãm: To show—To exhibit.
Triển Vọng: Outlook—Expectation—Prospect.
Triện: Seal (ấn triện).
Triết Học: Philosophy.
Triết Lý Cao Siêu: Transcendental doctrines.
Triết Gia: Philosopher—Sage.
Triết Học: Philosophy.
Triết Thuyết: Doctrine.
Triệt:
1) Thấu triệt—To know
thoroughly—Throughout—To penetrate.
2) Trước đây: Previous.
Triệt Đeå: Thoroughly—Entirely—Completely.
Triệt Để Chống Lại: To be vehement in contradicting.
Triệt Hạ: To demolish—To destroy—To pull down.
Triệt Tâm: Thấu suốt tâm cang—To penetrate or reach the heart or
mind.
Triệt Thoái: To withdraw—To evacuate—To fall back.
Triệt Tiêu: To cancel—To annul.
Triêu: Buổi sáng—Morning.
Triêu Lộ: Giọt sương mai dễ tan, dùng để ví với đời người chóng
tàn—Morning dew, e.g. man’s life as transient.
Triều:
1) Đi đến: Towards.
2) Thủy triều—Tide—Tidal.
3) See Triều Đại.
Triều Cống: To pay tribute.
Triều Đại: Dynasty.
Triều Lên: Rising tide.
Triều Sơn: Tôn thờ tự viện, hay đặc biệt là vị Đạt Lai Lạt Ma—To
worship towards the hills, pay court to a noted monastery, especially pay court
to a Dalai Lama.
Triều Thự: Buổi sáng và buổi tối—Morning and evening.
Triều Tiên: Nước Đại Hàn—Korea.
Triều Xuống: Falling tide.
Triệu:
1) Triệu hồi: To beckon—To summon—To
call back—To evoke.
2) Một triệu: Million.
3) Triệu thỉnh: To invite with
respect—To invite, especially the Buddhas or Bodhisattvas to worship.
Triệu Châu: Chao-Chou.
1) See Triệu Châu Tòng Thẩm.
2) Tên một tự viện vào thời nhà Đường,
nơi mà Triệu châu được danh hiệu nầy: A monastery during the T’ang dynasty,
where Chou-Chou got his pseudonym.
Triệu Châu Tòng Thẩm: Zhao-Chou-T’sung-Shen—Triệu Châu Tòng Thẩm là môn đồ và
người kế vị Pháp của Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện. Ông là một thiền sư nổi
tiếng và quan trọng vào bậc nhất thời nhà Đường. Công án “Không” của ông là một
công án nổi tiếng trong tất cả mọi công án. Người ta nói rằng Triệu Châu đạt
kiến tánh lúc 18 tuổi và giác ngộ viên mãn lúc 54 tuổi. Đến năm 58 tuổi ông đã
đi du phương khắp Trung Quốc, ở lại với nhiều sư xuất sắc và tham dự “pháp
chiến” với họ cho đến năm 80 tuổi, ông mới chính thức mở một ngôi chùa và bắt
đầu dạy chúng. Ông tiếp tục dạy môn đệ cho đến khi chết lúc 120 tuổi. Triệu
Châu có 13 người kế vị Pháp, nhưng vì có ít người bằng được ông về chiều sâu
kinh nghiệm, nên chỉ vài thế hệ sau là dòng Thiền của ông bị tàn lụi. Triệu
Châu có một lối dạy học trò rất đặc biệt, mà người ta gọi là “Thiền trên miệng
và trên môi Triệu Châu.” Giọng trầm trầm, gần như là thì thào. Ông thường đưa
ra những câu trả lời ngắn và rõ ràng, nhưng những lời ông nói có một sức mạnh
lớn. Người ta nói những lời ấy có thể chọc thủng những ý nghĩ và tình cảm mù
quáng của học trò như một mũi gươm nhọn. Triệu Châu được nhắc tới trong những
thí dụ 1, 7, 11, 14, 19, 31, và 37 trong Vô Môn Quan; cũng như những thí dụ 2,
9, 30, 41, 45, 52, 57, 58, 59, 64, 80, và 96 trong Bích Nham Lục—Zhao-Chou
T’sung-Shen was a student and dharma successor of Nan-Chuan P’u-Yuan. He was a
renowned and most important master of the T’ang dynasty. His “Sunnyata” is the
bestknown of all koans. Chao-Chou is said to have attained “Beholding the
Buddha-nature” at the age of eighteen and complete awakening at fifty-four. From
fifty-four to eighty he made pilgrimages about China, staying with prominent
masters and engaging in “Dharma dueling” with them. Not until he was eighty did
he formally open a monastery and began to teach. He then continued to instruct
students until his death, at one hundred and twenty. Zhao-Chou had thirteen
dharma successors, but since there were few who equaled or surpassed him in
profundity of experience, his lineage died out after a few generations.
Zhao-Chou had a very special way of instructing his disciples that people
called “Zhao-Chou’s lip and mouth Ch’an.” In a soft voice, often almost
whispering, he answered his students’ questions with short, simple
pronouncements. His words were, however, very powerful; it is said they were
able to cut through the deluded feeling and thinking of his disciples like a
sharp sword. His name appears in examples 1, 7, 11, 14, 19, 31 and 37 of the
Wu-Men-Kuan; and in examples 2, 9, 30, 41, 45, 52, 57, 58, 64, 80, and 96 of
the Pi-Yen-Lu.
· Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Nam
Tuyền, lúc ấy Nam Tuyền đang nằm nghỉ mà vẫn hỏi: “Vừa rời chỗ nào?” Triệu Châu
thưa: “Vừa rời Đoan Tượng.” Nam Tuyền hỏi: “Thấy Đoan Tượng chăng?” Triệu Châu
thưa: “Chẳng thấy Đoan Tượng, chỉ thấy Như Lai nằm.” Nam Tuyền hỏi tiếp: “Ngươi
là sa di có thầy hay không?” Triệu Châu thưa: “Có Thầy.” Nam Tuyền lại hỏi:
“Thầy ở chỗ nào?” Triệu Châu bèn bước tới trước mặt Nam Tuyền nói: “Giữa mùa
đông rất lạnh, ngưỡng mong tôn thể Hòa Thượng được muôn phước.” Nam Tuyền khen
ngợi liền nhận vào chúng—Upon their first meeting, Nan-Chuan, who was lying
down and resting, asked Zhao-Chou: “Where have you come from?” Zhao-Chou said:
“I’ve come from Rui-Chuan (Omen Figure). Nan-Chuan said: “Did you see the
standing omen’s figure?” Zhao-Chou said: “No, but I’ve seen a reclining
Tathagata.” Nan-Chuan got up and asked: “As a novice monk, do you have a
teacher or not?” Zhao-Chou replied: “I have a teacher.” Nan-Chuan said: “Who is
your teacher?” Zhao-Chou stepped in front of Nan-Chuan, bowed and said: “In the
freezing winter-cold, a prostrate monk only asks for the master’s blessings.”
Nan-Chuan approved Zhao-Chou’s answer and permitted him to enter the monk’s
hall.
· Một ngày nọ Triệu Châu hỏi Nam
Tuyền: “Thế nào là đạo?” Nam Tuyền đáp: “Tâm bình thường là đạo.” Triệu Châu
lại hỏi: “Lại có thể nhằm tiến đến chăng?” Nam Tuyền đáp: “Nghĩ nhằm tiến đến
đã là sai rồi.” Triệu Châu lại hỏi: “Nếu không nghĩ thì làm sao biết được là
đạo?” Nam Tuyền nói: “Đạo chẳng thuộc biết, cũng chẳng thuộc chẳng biết; biết
là vọng, chẳng biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không
thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy.” Ngay câu nói nầy Triệu Châu
ngộ lý. Sau đó triệu Châu đi đến đàn Lưu Ly tại Tung Nhạc thọ giới, thọ giới
xong, sư trở về tiếp tục tu tập với Thiền Sư Nam Tuyền—One day, Zhao-Chou asked
Nan-Chuan: “What is the Way?” Nan-Chuan said: “Everyday mind is the Way.”
Zhao-Chou said: “Does it have a disposition?” Nan-Chuan said: “If it has the
slightest intention, then it is crooked.” Zhao-Chou said: “When a person has no
disposition, then how can he know that this is the Way?” Nan-Chuan said: “The
Way is not subject to knowledge, nor is it subject to no-knowledge. Knowledge
is delusive. No-knowledge is nihilistic. When the uncontrived way is really
attained, it is like great emptiness, vast and expansive. So how could there be
baneful right and wrong?” At these words Zhao-Chou was awakened. Thereafter
Zhao-Chou traveled to Mount Song where he received ordination. He then returned
to continue his practice under Nan-Chuan.
· Một ngày khác Triệu Châu hỏi Nam
Tuyền: “Như vậy những người có kiến thức khi chết họ sẽ đi về đâu không?” Nam
Tuyền đáp: “Đến nhà Đàn Việt dưới núi mà làm con trâu đi.” Triệu Châu bèn nói:
“Cảm ơn lời Thầy chỉ giáo.” Nam Tuyền nói: “Đêm qua canh ba trăng soi
cửa.”—Another day Zhao-Chou asked Nan-Chuan: “Where do people with knowledge go
when they die?” Nan-Chuan said: “They go to be bull water buffaloes down at the
Tans’ and Yues’ houses at the base of the mountain.” Zhao-Chou said: “Thank you
for your instruction.” Nan-Chuan said: “Last night during the third hour the
moon reached the window.”
· Triệu Châu đến gặp Hoàng Bá. Hoàng
Bá thấy sư đến liền đóng cửa phương trượng. Sư lấy một que củi đang cháy, chạy
vào Pháp đường la to: “Cháy! Cháy!” Hoàng Bá mở cửa, nắm sư đứng lại bảo: “Nói!
Nói!” Triệu Châu bảo: “Cướp qua rồi mới trương cung.”—Zhao-Chou went to see
Huang-Bo. When Huang-Bo saw him coming he closed the door to his room. Zhao-Chou
picked up a piece of flaming firewood from the stove, and walking into the
Dharma hall, he yelled: “Fire! Fire!” Huang-Bo threw open his door, and
grabbing Zhao-Chou he said: “Speak! Speak!” Zhao-Chou said: “After the thief
has run off you’ve drawn your bow.”
· Một lần khác Triệu Châu đến Thiên
Hoàng gặp Đạo Ngộ. Sư vừa đến nơi thì Đạo Ngộ đã la lớn: “Mũi tên Nam Tuyền
đến.” Sư bảo: “Xem tên!” Đạo Ngộ nói: “Trật.” Sư bảo: “Trúng.”—Zhao also went
to T’ian-Huang Tao-Wu’s place. Just when Zhao-Chou entered the hall, Tao-Wu
yelled: “Here comes an arrow from Nan-Chuan.” Zhao-Chou said: “See the arrow!”
Tao-Wu said: “It already passed.” Zhao-Chou said: “Bulls-eye!”
· Triệu Châu thượng đường dạy chúng:
“Phật vàng không độ được lò đúc. Phật gỗ không độ được lửa. Phật đất không độ
được nước. Phật thật ngồi ở trong. Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Phật tánh trọn
chỉ là y phục đắp vào thân, cũng gọi là phiền não, thực tế lý địa để ở chỗ nào?
Một tâm chẳng sanh, muôn pháp không lỗi. Ngươi cứ nghiên cứu lý nầy, ngồi quán
xét hai mươi hay ba mươi năm, nếu chẳng hội thì chặt đầu lão Tăng đi! Nhọc nhằn
nắm bắt mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp nhất như. Đã
chẳng từ ngoài được thì câu chấp làm gì? Giống in như con dê gặp vật gì cũng
liếm cũng nhai. Lão Tăng thấy Hòa Thượng Dược Sơn có người hỏi, Ngài liền bảo
“Ngậm lấy miệng chó.” Lão Tăng cũng dạy “Ngậm miệng chó.” Chấp ngã thì nhơ,
không chấp ngã thì sạch, giống như con chó săn tìm kiếm vật gì để ăn. Phật pháp
ở chỗ nào? Ngàn muôn người thảy đều tìm Phật, mà trong đó muốn tìm một đạo nhân
không có. Nếu cùng vua KHÔNG làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh khó trị. Khi chưa có
thế giới, trước đã có tánh nầy, khi thế giới hoại diệt, tánh này vẫn còn đó.
Một phen được thấy Lão Tăng, sau lại chẳng phải người khác, chỉ là chủ nhơn
nầy. Cái đó lại hướng ngoài tìm làm gì? Khi ấy chớ xoa đầu moi óc, nếu xoa đầu
moi óc liền mất vậy—Zhao-Chou entered the hall and addressed the monks, saying:
“A metal Buddha does not withstand the furnace. A wooden Buddha does not
withstand the fire. A mud Buddha does not withstand water. The genuine Buddha
sits within you. “Bodhi” and “Nirvana,” “True Thusness” and
“Buddha-nature” these things are just clothes stuck to the body and they
are known as “afflictions.” Where is the actual ground-truth
revealed? “Big mind is unborn. The myriad dharmas are flawless. Try
sitting for twenty or thirty years, and if you still don’t understand
then cut off my head! The empty flowers of delusion and dreams, disciples work
so hard to grab them! When nothing deviates from mind, then the myriad dharmas
are but one thusness. Since it can’t be attained from outside, what will you
try to grasp? You’re like goats, haphazardly picking up just anything and
keeping it in your mouth! I heard Yao-Shan said: “People ask me to reveal it,
but when I teach, it is like something taken from a dog’s mouth. What I teach
is like something taken from a dog’s mouth. Take what I say as dirty. Don’t
take what I say as clean. Don’t be like a hound always looking for something to
eat.” Where is the Buddhadharma? Thousands of fellows are seeking Buddha, but
if you go looking among them for a person of the Way you can’r find one. If you
are going to be a disciple of Buddha then don’t let the mind’s disease be so
hard to cure. This nature existed before the appearance of the world. If the
world ends, this will not end. From the time I saw my true self, there hasn't
been anyone else. There's just the one in charge. So what is there to be sought
elsewhere? At the moment you have this, don't turn your head or shuffle your
brains! If you turn your head or shuffle your brains it will be
lost!"
· Một vị Tăng mới đến tự viện, nói:
“Con mới đến xin thầy chỉ giáo.” Triệu Châu hỏi: “Ngươi ăn chưa?” Vị Tăng đáp:
“Dạ rồi!” Triệu Châu nói: “Đi rửa chén bát đi.” Nghe xong những lời nầy Tăng
liền giác ngộ. Thế ra cái ngộ thường tục biết chừng nào!—A new monk came to the
monastery. He said to Zhao-Chou: “I’ve just arrived here. I asked the master to
provide me instruction.” Zhao-Chou said: “Have you eaten?” The monk said: “Yes,
I’ve eaten.” Zhao-Chou said: “Go wash your bowl.” Upon hearing these words the
monk was enlightened. This is enough to show what a commonplace thing
enlightenment is!
· Triệu Châu thượng đường thuyết pháp:
“Đạo chẳng khó, chỉ hiềm lựa chọn, vừa có nói năng là lựa chọn, là minh bạch.
Lão Tăng chẳng ở trong minh bạch, các ngươi lại tiếc giữ chăng?” Có vị Tăng
đứng ra hỏi: “Đã chẳng ở trong minh bạch thì tiếc giữ cái gì?” Triệu Châu bảo:
“Ta cũng chẳng biết.” Vị Tăng nói: “Hòa Thượng đã chẳng biết, vì sao chẳng ở
trong minh bạch?” Triệu Châu nói: “Hỏi thì được. Lễ bái xong lui ra.”—Zen
master Zhao-Chou entered the hall to address the monks: “Attaining the Way is
not difficult, just disdain choosing. As soon as words are present there is
choosing, there is understanding. It’s not to be found in understanding. Is
understanding the thing you uphold and sustain?” A monk asked: “Since it is not
found in understanding, what is to be upheld and sustained?” Zhao-Chou said: “I
don’t know.” The monk said: “Since the master doesn’t know what it is, how can
you say it isn’t within understanding?” Zhao-Chou said: “Ask and you have an
answer, then bow and withdraw.”
· Có vị Tăng hỏi: “Cây có Phật tánh
không?” Triệu Châu đáp: “Có.” Vị Tăng lại hỏi: “Như vậy thì bao giờ nó thành
Phật?” Triệu Châu đáp: “Khi nào đại hư không rơi xuống địa cầu.” Vị Tăng lại
hỏi: “Khi nào thì hư không rơi xuống địa cầu?” Triệu Châu đáp: “Khi nào cái cây
thành Phật.”—A monk asked: “Does a tree in the garden have Buddha-nature?”
Chao-Chou said: “Yes.” The monk asked: “When will it become a Buddha?”
Zhao-Chou said: “When the great void falls to earth.” The monk asked: “When
will the great void fall to earth?” Zhao-Chou said: “When a tree become a
Buddha.”
· Có một vị Tăng hỏi: “Thế nào là câu
nói cùng tuyệt?” Thay cho lời đáp thỏa đáng, Triệu Châu chỉ nói: “Phải.” Vị
Tăng không nhận ra ý nghĩa của chữ ‘phải,’ tưởng là sư chưa đáp, bèn hỏi lại.
Sư hét to: “Bộ tôi điếc hay sao?”—A monk asked Zhao-Chou: “What is the one
ultimate word of truth?” Instead of giving any specific answer he made a simple
response saying “Yes.” The monk who naturally failed to see any sense in this
kind of response asked for a second time, and to this the master roared back:
“I am not deaf!”
· Như trên chúng ta thấy cuộc đời của
Triệu Châu là một bức minh họa đặc biệt thú vị cho một sự khẳng định không
ngừng được các Thầy Thiền nhắc đi nhắc lại. Đại giác chỉ là khởi đầu cho bước
tiến thật sự trên con đường hành thiền. Triệu Châu đã trải qua đại giác sâu từ
năm ông 18 tuổi, nhưng ông vẫn tiếp tục tu học với Thầy Nam Tuyền trong suốt
bốn mươi năm nữa. Sau khi thầy thị tịch, ông lên đường chu du để tìm hiểu sâu
hơn ở những thầy khác. Theo truyền thuyết thì ông đã tham vấn với hơn 80 người
kế vị Pháp của Mã Tổ Đạo Nhất (vai ông nội của ông trong Thiền). Đến năm 80
tuổi, ông mới trụ lại tại một ngôi chùa nhỏ ở làng Triệu Châu, nơi ông hướng
dẫn những đệ tử tụ tập chung quanh ông để tu tập thiền định cho đến khi thị
tịch là năm ông 120 tuổi—As we see above, the life story of Zhao-Chou is an
especially good example of what Ch’an masters repeatedly stress, that
enlightenment is only the beginning of real training on the path of Ch’an.
Zhao-Chou had already experienced profound enlightenment at the age of 18;
following that he trained himself for forty years under his master Nan-Chuan.
After his master passed away, he set about wandering in order to deepen his
experience further through “Zen” with other Ch’an masters. It is said that
during this period he sought out as many as eighty of the dharma successors of
Ma-Tsu-Tao-I (his grandfather in Ch’an). Finally, at the age of 80, he settled
in a small Ch’an monastery in the town of Zhao-Chou. There at last students gathered
around him and he led them on the path of Ch’an until his death at the age of
120.
· Ngày mồng hai tháng mười một năm
897, sư nằm nghiêng bên phải mà thị tịch, thọ 120 tuổi. Sư được vua ban hiệu
“Chơn Tế Đại Sư”—On the second day of the eleventh month in the year 897,
Zhao-Chou lay down on his right side and passed away. He was 120 years old. He
received the posthumous title “Great Teacher Truth’s Limit.”
Triệu Chứng: Symptom.
Triệu Hồi: To recall.
Triệu Hồn: Triệu thỉnh vong hồn của người chết—To call back the
spirit of the dead.
Triệu Tái Vĩnh Kiếp: Kiếp không ngừng kéo dài đến hàng triệu năm (Kiếp vượt ra
ngoài số có thể đếm được)—The perpetual aeon of millions of years, the kalpa
beyond numbers.
Triệu Tập: To convoke an assembly—To summon—To call together.
Triệu Thỉnh: See Triệu (3).
Triệu Thỉnh Đồng Tử: Vị đồng tử thứ năm bên trái của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, người có nhiệm vụ triệu thỉnh mọi chúng sanh đi đến giác ngộ—The inviter,
possibly etymologically connected with achavaka; he is the youth fifth on the
left of Manjusri in his group of the Garbhadhatu, and is supposed to invite all
the living to enlightenment.
Trinh: Chaste—Lucky.
Trinh Bạch: Chaste—Pure.
Trinh Thực: Pure and true.
Trình:
1) Đệ trình: To submit (proof or
proposal).
2) Trình báo: To report.
3) Trình bày: To show—To produce.
Trình Diễn: To perform—To act.
Trình Diễn Bề Ngoài: Outward show.
Trình Diện: To present (report) oneself.
Trình Độ: Level—Standard—Degree.
Trịnh Trọng: Ceremonious—Formal.
Trìu Mến: Tender—Sympathetic.
Trĩu Nặng: Very heavy.
Trò Chuyện: To talk---To chat—To converse.
Trò Cười: Joke—Jest.
Trò Đời: Ways of the world.
Trò Quỷ Thuật: Magic tricks.
Trò Vui: Merry-making feasts.
Troû: To point—To show with the
forefinger.
Troï: To board—To lodge.
Tróc: To peel (scale—come) off.
Trọc:
1) Shaven.
2) Bald.
Trói: To fasten—To tie—To bind.
Trói Buộc: Chaining or bondage—Mọi sự trói buộc là do tâm sinh ra,
tức là, thế giới của những hình tướng hư ngụy nầy là cấu trúc của tâm—All kinds
bondage are mind-made, that is, this world of faulty appearances is the
construction of the mind.
Tròn Trèm: About.
Trọn: Whole—Entire—All.
Trọn Đạo: To fulfill one’s duty.
1) Làm một tín đồ: one’s Buddhist duty
toward the Triratna (Tam Bảo).
2) Làm cha: One’s parternal duty.
3) Làm cha mẹ: One’s parental duty.
4) Làm mẹ: One’s maternal duty.
Trọn Đời: Entire life—Whole life.
Trọn Đời Làm Lành, Lành Còn Chưa Đủ;
Một Ngày Làm Ác, Ác Tự Có Dư:
Good deeds performed during our whole life are not enough; bad deeds performed
in just one day are already too many.
Trọn Lời: To keep one’s promise (words).
Trọn Quyền: Full power.
Trọn Vẹn: Complete—Whole—Entire.
Trong Đời: During one’s life.
Trong Khoảng: Between.
Trong Kiếp Luân Hồi Sanh Tử, Ác
Nghiệp Dễ Nhiễm, Duyên Lành Khó Tạo:
In the cycle of births and deaths, evil deeds (transgressions) are easy to
commit, wholesome deeds are difficult to perform.
Trong Kiếp Luân Hồi Sanh Tử Trong Vô
Lượng Kiếp, Chúng Ta Đã Chịu Quá Nhiều Khổ Đau: In the cycle of births and deaths in immeasurable eons, we
truly undergo immense pain and suffering.
Trong Kiếp Luân Hồi Sanh Tử, Duyên
Lành Khó Gieo, Việc Ác Dễ Trồng:
In the cycle of births and deaths, good deeds are difficult to perfprm (sow),
while bad deeds are easy to commit.
Trong Kiếp Nầy: In this present life.
Trong Lịch Sử: In history.
Trong Lúc Ấy: In the meantime—Meanwhile.
Trong Một Niệm: In the space of one thought.
Trong Sạch: Clean—Clear—Pure.
Trong Sáng: Clear—Bright.
Trong Suốt: Clear—Transparent.
Trong Thời Gian Ấy: In that span of time.
Trong Thời Phật Còn Tại Thế: During the lifetime of Buddha Sakyamuni.
Trong Thời Phật Còn Tại Thế (Chánh
Pháp), Trăm Người Tu Có Tới Bảy Tám Chục Người Chứng; Trong Thời Tượng Pháp,
Trăm Ngàn Người Tu May Mắn Còn Có Một Hai Người Chứng; Trong Thời Mạt Pháp,
Trăm Ngàn Người Tu, Khó Có Lấy Một Người Chứng Đắc: During the lifetime of Buddha Sakyamuni, seventy or eighty
out of hundred practitioners will attain the way; during the period of
Semblance Dharma, out of hundreds of thousands of practitioners perhaps one or
two will attain the way; During the period of Ending-Age Dharma, there
would be none attaining the way out of hundreds of thousands of practitioners.
Trong Trắng: Chaste.
Trong Trẻo:
1) Limpid—Clear (water).
2) Unclouded—Clear (sky).
Trong Vắt: Very clear—Transparent—Limpid.
Trong Vòng: Within.
Trong Ý Nghĩa Ấy: In a sense.
Tròng: Noose—Trap.
Tròng Trành: To rock.
Trọng:
1) Kính trọng: To venerate—To honour-To
respect.
2) Nặng: Heavy—Weighty.
3) Nghiêm trọng: Serious—Grave.
4) Xem trọng: To regard respectfully—To
lay stress upon.
Trọng Các Giảng Đường: Khu giảng đường hai tầng ở Tỳ Xá Ly, nơi Đức Phật thường
trú ngụ—The double-storeyed hall at Vaisali where the Buddha stayed.
Trọng Cấm: Strictly forbidden.
Trọng Chướng: Những chướng ngại nghiêm trọng trong việc giác ngộ, như vô
minh, phiền não, tội nghiệp, quả báo, hay hậu quả của những tiền khiên—Serous
hindrances to enlightenment, e.g. ignorance, delusion, sin, retribution, or the
results of one’s previous lives—See Tam Chướng.
Trọng Đãi: To treat kindly (very well).
Trọng Đại: Important.
Trọng Hậu: generous.
Trọng Hình: Heavy penalty.
Trọng Hỏa: Những kẻ theo đạo thờ Thần lửa—Those who pay respect to
the god of fire.
Trọng Không: Hư không ngoài hư không, chỉ khoảng không bao la vô
tận—The double space, i.e. the space beyond space, the void beyond the void.
Trọng Nghiệp: Garuka (p)—Weighty karma—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận (Vi Diệu
Pháp), trọng nghiệp có nghĩa là hành động hay nghiệp nặng, nghiệp nghiêm trọng,
có thể thiện hay bất thiện, không thể thay thế được trong yếu tố tái sanh. Được
gọi là trọng nghiệp vì nó chắc chắn sanh quả trong kiếp hiện tại hay ngay kiếp
kế tiếp. Nếu không có một trọng nghiệp nào làm điều kiện cho sự tái sanh trong
kiếp liền đó, thì “Cận Nghiệp là nghiệp dẫn dắt thọ sanh—According to the
Abhidharma, weighty karma, wholesome or unwholesome, is a weighty or serious
action, or karma of such powerful moral weight that it cannot be replaced by
any other karma as the determinant of rebirth. It is so called because it
produces its effect for certain in this life or in the next life. When there is
no weighty karma to condition the future birth a death-proximate (asanna) karma
might operate.
a) Nếu là thiện thì đây là loại nghiệp
có tính cách tinh thần như trường hợp các tầng thiền, ngoài khẩu và thân
nghiệp. Người đắc tứ thiền sắc giới chẳng hạn thì hưởng quả vị của thiền ấy
trong kiếp hiện tại, hay trong kiếp kế tiếp—On the wholesome side, this karma
is the attainment of the jhanas, other than speech and body karmas.
b) Nếu là bất thiện nghiệp có năm loại
trọng nghiệp đi cùng với tà kiến chối bỏ đạo đức luân lý—On the unwholesome
side, it is the five heinous crimes together with a fixed wrong view that
denies the basis for morality:
· Gây thương tích cho một vị Phật: Như
Đề Bà Đạt Đa phải mất hết thần lực và tái sanh vào ác đạo vì tội đã làm chảy
máu thân Phật—Causing the wounding of a Buddha, i.e. Devadatta lost his psychic
powers and was born in a woeful state because he wounded the Buddha.
· Chia rẽ Tăng Già: Như Đề Bà Đạt Đa
phải đọa vào ác đạo vì đã gây chia rẽ trong Tăng đoàn—Maliciously creating a
schism in the Sangha, i.e Devadatta who was reborn in a woeful state because he
caused a schism in the Sangha.
· Sát hại một vị A La Hán: Murdering
an Arahant.
· Giết Cha: Đức Phật đã lưu ý các đệ
tử rằng nếu không phạm tội giết cha thì vua A Xà Thế đã đắc quả Tu Đà
Hườn. Trong trường hợp nầy trọng nghiệp bất thiện được gây ra trước, và ngăn
cản sự tiến bộ tinh thần về sau nầy—Parricide (killing one’s own father). As
the Buddha remarked, King Ajatasatru would have attained the first state of
sainthood if he had not committed parricide. In this case, the powerful evil
karma obstructed his spiritual attainment.
· Giết Mẹ: Matricide (killing one’s
own mother).
c) Nếu một người hành và đắc thiền, sau
đó phạm nhằm một trong những trọng tội thì nghiệp đã tạo trước đó sẽ bị nghiệp
bất thiện có năng lực hùng mạnh nầy ngăn trở. Kiếp sống kế đó sẽ do nghiệp xấu
tạo duyên. Thí dụ như em họ của Phật là Đề Bà Đạt Đa, vì tham vọng mà tạo nên
trọng tội làm đả thương Phật và chia rẽ Tăng Già, nên phải mất hết thần thông
và tái sanh vào cõi địa ngục—If someone were to develop the jhanas and
later were to commit one of the heinous crimes, his good karma would be obliterated
by the evil deed, and the latter would generate rebirth into a state of misery.
For example, the Buddha’s ambitious cousin Devadatta lost his psychic powers
and was reborn in hell for wounding the Buddha and causing a schism in the
Sangha.
d) Nếu một người trước đã phạm trọng
tội, sau đó dù tinh tấn tu hành vẫn khó đắc quả vì nghiệp xấu cản trở.
Vua A Xà Thế sau khi nghe Phật nói Kinh Samannaphala, có thể đã chứng đắc quả
Tu Đà Hườn nếu không phạm trọng tội giết cha, là vua Bình Sa Vương, nên ông
không thể thành tựu đạo quả—If someone were first to commit one of the heinous
crimes, he could not later reach a sublime or supermundane attainment, because
the evil karma would create an insurmountable obstruction. Thus King
Ajatasattu, while listening to the Buddha’s speak the Samannaphala Sutra, the
Discourse on the Fruits of Recluseship, had all the other conditions for
reaching stream-entry, but because he had killed his father, King Bimbisara, he
could not attain the path and fruit.
Trọng Quan: Những trở ngại nghiêm trọng trong thiền định và giác
ngộ—The grave barriers to meditation and enlightenment.
Trọng Sơn: Phiền não chất chồng như núi nặng—The heavy mountain of
delusion.
Trọng Tài: referee—Arbitrator—Umpire.
Trọng Tam Tam Muội: Không không tam muội—Vô tướng tam muội—Vô nguyện vô nguyện
tam muội---Double Three Samadhi—A more advanced meditation—All three samadhis
are the same with doublepractice—See Tam Tam Muội.
Trọng Tâm: Center of gravity.
Trọng Thể: Solemnly.
Trọng Thương: Severe wound.
Trọng Thưởng: To reward generously.
Trọng Tội: Grave offence.
Trọng Trách: Heavy responsibility.
Trọng Trọng: Lập đi lập lại, như nhiều màn Đế Võng—Repeated—Again and
again, manifold, e.g. the multi-meshed net of Indra.
Trọng Tụng: Geya (skt)—Còn gọi là Trọng Chỉ Dạ, phần vần tụng đi tụng
lại trong bài kinh—Repetition in verse of a prose section.
Trọng Tuổi: Aged.
Trọng Vọng: Reverencing.
Trọng Yếu: Important—Crucial importance of something.
Trót: To have done something by mistake.
Trố Mắt: To look with wide-open eyes.
Trổ: To make an opening (hole) with a chisel.
Trổ Bông: To blossom—To bloom—To flower—To burst into flower.
Trổ Tài: To show off (display) one’s talent.
Trốc Gốc: Uprooted.
Trôi: To drift.
Trôi Xuôi Dòng: To drift down stream.
Trôi Chảy: Flowing—Fluent.
Trôi Giạt Vào Bờ: To drift on shore.
Trôi Lình Bình: To drift slowly.
Trôi Nổi: Moving about without guided—Adrift.
Trôi Qua: To go by—To pass.
Trối: To make the last recommendations (words).
Trồi: To rise—To emerge.
Trổi: To surpass—To prevail over.
Trội: To surpass—To excel.
Trộm Cắp: To steal.
Trộm “Đầu Hói” (Tặc Trụ) Tăng Ni nhận của cúng dường mà không chịu tu hành là phản
bội đàn na tín thí. Phật gọi những kẻ nầy là những tên trộm “Đầu hói.” Những kẻ
tội phạm nầy phải chịu vô vàn khổ đau để đền tội—Bald-headed thief—A monk or
nun who does not cultivate while receiving offerings from the laity, has
betrayed the latter’s trust and, in fact, stolen the offerings. The Buddha
referred to such monks or nuns as “Bald-headed thieves.” They have to be reborn
in lower paths to repay what they owe now.
Trộm Nghĩ: To think discreetly (in secret).
Trốn: To run away—To flee—To escape—To hide.
Trốn Thoát: To get away—To escape successfully.
Trốn Tránh: To elude—To evade.
Trốn Trách Nhiệm: To avoid (escape) responsibility.
Trộn: To mingle—To mix—To compound.
Trông: To look at—To see.
Trông Cậy: To rely on—To depend on.
Trông Chờ: To await—To wait for—To expect.
Trông Chừng: To keep watching over (someone or something).
Trông Coi: To watch over—To look after.
Trông Đợi: See Trông Chờ.
Trông Nhờ: See Trông Cậy.
Trông Nom: To superintend—To oversee—To supervise.
Trông Ơn: To count on a favour.
Trồng Dưa Được Dưa, Trồng Đậu Được
Đậu Là Lẽ Đương Nhiên; Đã Gieo Chông Gai, Đừng Mong Đến Mùa Gặt Lúa Nếp: If you plant melons, you reap melons; if you plant beans
you reap beans. This is the natural course of events. Having sown thorns, do
not expect to harvest wheat and rice.
Trơ
Như Đá: Indifferent—Insensible.
Trơ
Trẽn: Shameless—Impudent.
Trơ
Trọi: Alone.
Trơ
Trơ: Unmoved—Motionless—Still.
Trớ
Trêu: Irony.
Trở
Chứng: To change one’s conduct.
Trở
Cờ: To reverse one’s opinion.
Trở
Giọng: To change one’s tune.
Trở
Hướng: To change in direction.
Trở
Lại: To come (go—get) back—To return.
Trở
Lực: Impediment—Hindrance---Obstacle.
Trở
Mặt: To change (turn) about.
Trở
Nên An Định: Become stable and calm.
Trở
Nên Cao Quý: To enoble.
Trở Nên Cởi Mở: To become open.
Trở Nên Điên Đảo Mộng Tưởng: To have nightmare and to become confused.
Trở Nên Điên Loạn: To become crazy.
Trở Nên Gầy Gò: To grow thin.
Trở Nên Rộng Lượng: To become kind and full of pity.
Trở Nên Sáng Tạo: To become creative.
Trở Nên Tẻ Nhạt: To become very dull.
Trở Nên Thanh Tịnh: To become serene.
Trở Nên Thoải Mái: To become comfortable
Trở Nên Thuần Tính Nhân Ái: To become benevolent.
Trở Nên Toàn Bích: To become perfect.
Trở Nên Xanh Xao: To turn pale
Trở Thành: To transform—To grow—to become.
Trở Thành Nô Lệ Cho Lạc Thú Thế Gian: Become slaves to sensual pleasures.
Trở Thành Phật Tử Tại Gia Thuần
Thành: Để trở thành một Phật tử thuần
thành, ngoài việc giữ ngũ giới hay thập thiện, chúng ta cần phải có những
tiêu chuẩn sau đây—To become a devoted (good) Buddhist, beside keeping five or
ten basic precepts, one must meet the following criteria:
1) Thọ tam quy trì ngũ giới hay bất cứ
giới luật nào dành cho Phật tử tại gia: To take refuge in the Triratna and to
keep the basic five precepts or any other precepts for laypeople.
2) Luôn tín tâm nghe chánh pháp: Always
hear the truth with a faith mind.
3) Làm lành: To do good deeds.
4) Lánh dữ: Not to do evil deeds.
5) Tôn kính người già: To venerate
(respect) the elderly.
6) Thương mến người trẻ: Love and care
for the young.
7) An ủi vổ về người lâm hoạn nạn:
Comfort those who encounter calamities.
8) Thanh tịnh thân tâm: Purify the body
and mind.
Trở Về: To come (go) back—To return.
Trở Về Cực Lạc Nơi Quê Cũ; Thoát
Kiếp Trần Gian Luống Đọa Đày:
Return to the Land of Ultimate Bliss where the home was; liberate from the
earthly life, the suffering world.
Trơï:
1) Trợ Giúp: Help—Assist—Aid.
2) Đồ Phụ Trợ: Auxiliary.
Trợ Âm: To assist in signing or intoning.
Trợ Bần: Chẩn bần—To relieve the poor.
Trợ Cấp: To subsidize.
Trợ Đạo: Đạo phẩm có thể giúp cho thiền quán, luật nghi và quả
đức—Auxiliary means which help meditation, auxiliary discipline, and aid to
faith or virtue.
Trợ Giáo: Assistant teacher.
Trợ Lực: To assist (help) someone.
Trợ Lý: To assist—To aid.
Trợ Nghiệp: Auxiliary karma.
1) Tụng kinh hộ niệm giúp người quá cố
vãng sanh Tịnh Độ: reciting a sutra to help a death person to reach the Pure
Land.
2) Thờ phượng, tán thán và cúng dường
trợ giúp chánh nghiệp, như tin nơi Phật A Di Đà, thường tưởng niệm đến Ngài, và
thường niệm hồng danh của Ngài: Worship, praise, and offering, as additional to
direct karma, i.e. faith in Amitabha, expressed by constant thought of him and
calling on his name.
Trợ Niệm: Suportive Recitation—Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong
Niệm Phật Thập Yếu, người bệnh từ khi đau nặng cho đến lúc sắp tắt hơi, thân
bằng quyến thuộc phải bình tĩnh đừng khóc lóc. Có kẻ tuy không khóc nhưng lại
lộ nét bi thương sầu thảm, đó cũng là điều không nên. Bởi lúc bấy giờ bệnh nhân
đã đi đến ngã rẽ phân chia giữa quỷ, người, phàm, Thánh; sự khẩn yếu nguy hiểm
khác thường, như ngàn cân treo dưới sợi tóc. Khi ấy duy chỉ có nhất tâm trợ
niệm Phật là điều thiết yếu. Người dù có chí nguyện vãng sanh, mà bị quyến
thuộc thương khóc làm cho khơi động niệm tình ái, tất phải bị đọa lạc luân hồi,
công tu cũng đành luống uổng! Lại khi bệnh nhân gần qua đời, tự họ muốn tắm
gội, thay y phục hay đổi chỗ nằm, thì có thể thuận theo, song phải nhẹ nhàng
cẩn thận mà làm. Như họ không chịu, hoặc á khẩu không nói được, không nên miễn
cưỡng mà làm. Bởi người sắp chết thân thể thường đau nhức, nếu ép di động, đổi
chỗ nằm hoặc tắm rửa, thay y phục thì bệnh nhân càng đau đớn thêm. Nhiều người
tu hành phát nguyện cầu về Cực Lạc, nhưng khi lâm chung vì bị quyến thuộc di
động nhiễu loạn, phá mất chánh niệm, nên không được vãng sanh, việc nầy xảy ra
rất thường. Hoặc kẻ mạng chung có thể sanh về cõi lành, nhưng bị người khác
không biết, xúc chạm thân thể, sửa đổi tay chân làm cho đau đớn, nên sanh lòng
giận tức. Do một niệm đó, liền đọa vào ác đạo, làm rồng, rắn, cọp, beo, hoặc
các loài độc khác. Như vua A Xà Thế tu nhiều phước lành, khi lâm chung bị người
hầu cận ngủ gục làm rớt cây quạt trên mặt, nên giận rồi chết bị đọa làm rắn
mãng xà. Gương nầy không phải là đáng sợ lắm sao? Người bệnh khi lâm chung hoặc
ngồi, hoặc nằm, đều tùy tiện, chớ nên gắng gượng. Nếu cảm thấy suy nhược chỉ có
thể nằm, mà muốn xem cho ra vẻ, gắng gượng ngồi dậy, là điều nguy hại không nên
làm. Hoặc theo lẽ, phải nằm nghiêng bên mặt hướng về tây, nhưng vì thân thể đau
nhức phải nằm ngửa, hay nằm nghiêng bên trái hướng về đông, cũng cứ để tự nhiên
chớ nên gắng gượng. Đây chính bệnh nhân phải hiểu như vậy mà tự xử. Còn người
thân thuộc cũng phải hiểu lẽ nầy, chẳng nên cầu danh, bắt người bệnh nằm
nghiêng bên mặt hướng về tây, hay đỡ dậy mặc áo tràng sửa thế ngồi kiết già.
Đâu biết rằng chỉ vì cầu chút hư danh, mà khiến cho người chết phải đọa tam đồ,
chịu vô lượng sự khổ! Lúc bệnh nhân sắp sửa mãn phần, sự trợ niệm là điều rất
cần thiết. Bởi khi ấy, người bệnh từ tinh thần đến thể chất đều yếu kém mê mờ,
khó bề tự chủ. Đừng nói kẻ bình nhựt chưa tu không giữ nổi câu niệm Phật được
lâu bền; mà ngay cả người bình nhựt lấy câu niệm Phật làm thường khóa, nếu không
nhờ sức trợ niệm cũng khó mong đắc lực. Cách thức trợ niệm phải theo những điều
kiện dưới đây—Family members and relatives of a dying person shold always
remain calm, without weeping or lamenting, from the time that person becomes
gravely ill until his last moments. Some people, while not crying, still show
sorrow and emotion on their faces. This, too, should be avoided, the crossroads
which separate the living from the dead, and the mundane from the
transcendental. The critical importance and danger of this moment can be
compared to a mass of thousand pounds hanging under a hair, his fate is
determined by a hair’s breadth! At this time, the most important thing is to
practice supportive recitation. Even though a person may have set his mind on
rebirth in the Pure Land, if family members weep and lament, thus arousing
deep-seated feeling of love-attachment, he will certainly sink into the cycle
of Birth and Death, wasting all his efforts in cultivation! When a patient on
the verge of death wishes to bathe, dress in different garments, or change his
position or sleep quarters, we may comply, while exercising caution and
acting in gentle, careful manner at all times. If the patient refuses, or
cannot give his consent because he has become mute, we certainly should not go
against his wishes. This is because the patient on the verge of death is
generally in great physical pain. If he is forced to move, bathe or change
clothing, he may experience even greater pain. There are numerous cases of
cultivators who had sought rebirth in the Pure Land but failed to achieve this
goal because their relatives moved them around, disturbing them and destroying
their right thought. This unfortunate development occurs very often. There are
also cases of individuals who might have achieved rebirth in the higher realms.
However, out of ignorance, others made them suffer physically, by rearranging
the positions of their hands and feet, for instance, making them irritated and
angry. Because of this one thought of anger, they immediately sank into the
evil realms. As an extreme example, King Ajatasatru had earned numerous merits
and blessings through cultivation. However, at the time of death, one of his
attendants dozed off and inadvertently dropped a paper fan onto the king’s face.
He became so furious that he expired on the spot, to be reborn, it is said, as
a pathon. This example should serve as a warning to all of us. At the time of
death, the cultivator himself should either lie down or sit up, according to
what comes naturally, without forcing himself. If he feels weak and can only
lie down, forcing himself to sit up for appearances’ sake, is dangerous and
should be discouraged. Likewise, even though, according to Pure Land tradition,
he should lie on his right side facing west; if, because of pain, he can only
lie on his back or on his left side facing east, he should act naturally and
not force himself. The patient and his family should understand all this and
act accordingly. Supportive recitation by family members or Dharma friends is
most necessary when a patient is on the verge of death. This is because, at
that time, he is weak in body and mind and no longer master of himself. In such
trying circumstances, not only is it difficult for those who have not
cultivated in daily life to focus on Amitabha Buddha, even individuals who have
regularly recited the Buddha’s name may find it difficult to do so in all
earnestness, unless there is supportive recitation. Such recitation should
closely follow the guidelines set out below:
1) Thỉnh tượng Phật A Di Đà tiếp dẫn để
trước bệnh nhân, khiến cho họ trông thấy. Cắm một bình hoa tươi và đốt lò hương
nhẹ, khói thơm vừa thoang thoảng để giúp dẫn khởi chánh niệm cho bệnh nhân. Nên
nhớ khói chỉ nhẹ thôi, đừng để nhiều vì e ngột ngạt khó thở cho cả bệnh nhân
lẫn người xung quanh—Respectfully place a standing Amitabha Buddha statue in
front of the patient, so that he can Iee it clearly. Place some fresh flowers
in a vase and burn light incense with a soft fragrance. This will help the patient
develop right thought. A reminder: the incense should not be overpowering, to
avoid choking the patient and everyone around.
2) Người trợ niệm tùy theo nhiều ít nên
luân phiên mà niệm. Ít thì mỗi lần một hoặc hai người, chia thành ba phiên. Nhiều
thì mỗi phiên có thể độ sáu hay tám người. Nên nhớ lúc ấy bệnh nhân sức yếu,
rất cần không khí thanh sạch, nếu để cho người ta vào đông, hoặc kẻ trợ niệm
quá nhiều, tất sẽ làm cho người bệnh ngột ngạt xao động, có hại hơn là có lợi.
Lại nữa, các phiên phải canh theo đồng hồ mà im lặng luân chuyển nhau hộ niệm,
để cho câu niệm Phật tiếp tục không gián đoạn, đừng kêu gọi nhau lớn tiếng. Mỗi
phiên niệm lâu chừng một giờ—Those who come to practice supportive recitation
should take turns. It should be remembered that the patient, in his weakened
state, requires a lot of fresh air to breathe. If too many persons come and go
or participate in the recitation session, the patient may have difficulty
breathing and become agitated, resulting in more harm than benefit. Therefore,
participants should consult their watches and silently take turns reciting, so
that recitation can continue uninterrupted. They should not call to one another
aloud. Each session should last about an hour.
3) Theo ngài Ấn Quang, nên niệm bốn chữ
A Di Đà Phật để cho bệnh nhân dễ thâu nhận trong khi tinh thần thể chất quá suy
yếu. Nhưng ý kiến của Hoằng Nhất đại sư, thì muốn niệm bốn chữ hay sáu chữ, tốt
hơn nên hỏi bệnh nhân, để thuận với thói quen ưa thích thuở bình nhật của người
bệnh, khiến cho họ có thể niệm thầm theo. Nếu trái với thói quen ưa thích, tức
là phá mất chánh niệm của người bệnh, tất mình cũng có tội. Lại cách trợ niệm,
không nên niệm to tiếng quá, vì mình sẽ tổn hơi khó bền; không nên niệm nhỏ
quá, vì e người bệnh tinh thần lờ lạc khó thâu nhận. Cũng chẳng nên niệm quá
mau, bởi làm cho bệnh nhơn đã không nghe nhận được rõ ràng, lại không thể theo
kịp; chẳng nên niệm quá chậm, bởi có lỗi tiếng niệm rời rạc khiến người bệnh
khó liên tục nhiếp tâm. Đại khái tiếng niệm phải không cao không thấp, chẳng
chậm chẳng mau, mỗi chữ mỗi câu đều rành rẽ rõ ràng, khiến cho câu niệm trải
qua tai đi sâu vào tâm thức của người bệnh, như thế mới đắc lực. Lại có điều
nên chú ý, khi bệnh nhân tâm thức quá hôn trầm, niệm ở ngoài tất họ nghe không
rõ. Trong trường hợp ấy, phải kê sát miệng vào tai họ mà niệm, mới có thể khiến
cho người bệnh được minh tâm—According to Elder Master Yin-Kuang, the short
recitation from Amitabh Buddha should be used, so that the patient can easily
register the name in his Alaya consciousness, at a time when both his mind and
body are very weak. However, according to Elder Master Hung-I, we should ask
the patient and use the form he prefers, either short or long, to conform to
his everyday practice. In this way, the patient can silently recite along with
the supportive recitation party. To go counter to his like and habits may
destroy his right thought and create an offense on our part. Furthermore, we
should not practice supportive recitation in too loud a voice, as we will
expend too much energy and be unable to keep on for very long. On the other
hand, neither should we recite in too low a voice, lest the patient, in his
weakened state, be unable to register the words. Generally speaking, recitation
should not be too loud or too low, too slow or too fast. Each utterance should
be clear and distinct so that it can pass through the ear and penetrate deep
into the patient’s Alaya consciousness. One caveat: if the patient is too
weak or is in a coma, he will not be able to hear external recitation. In such
a case, w should recite into the patient’s ear. This helps the patient keep his
mind clear and steady.
4) Về pháp khí để dùng trong khi trợ
niệm, thông thường nên dùng khánh nhỏ, bởi tiếng mõ âm thanh đục, không bằng
tiếng khánh trong trẻo, dễ khiến cho bệnh nhân tâm thần thanh tịnh. Nhưng việc
nầy cũng tùy, vì theo kinh nghiệm riêng, Hoằng Nhứt đại sư đã dạy: “Những kẻ
suy yếu thần kinh rất sợ nghe tiếng khánh và mõ nhỏ. Bởi âm thanh của mấy thứ
nầy chát chúa đinh tai, kích thích thần kinh, khiến cho người bệnh tâm thần
không an. Theo thiển ý, chỉ nên niệm suông là thỏa đáng hơn hết. Hoặc nếu có,
thì chỉ nên đánh thứ chuông mõ lớn. Những món nầy âm thanh hùng tráng, khiến
cho người bệnh sanh niệm nghiêm kính, hơn là đánh khánh và mõ nhỏ. Thứ mõ âm
thanh đục cũng không nên đánh, vì làm cho bệnh nhân tâm thần hôn trược. Tuy
nhiên, sở thích của mỗi người không đồng, tốt nhứt là nên hỏi trước bệnh nhân.
Nếu có chỗ nào không hợp, phải tùy cơ ứng biến, chớ nên cố chấp—With regard to
percussion instruments, it is generally better to use the small hand bell,
instead of the wooden fish gong with its bass tone. The hand bell, with its
clear, limpid sound, can help the patient develop a pure and calm mind.
However, this may not apply in all cases. For instance, an Elder Master once
taught, “It is best to recite the Buddha’s name by itself without musical
accompaniment, but since each person’s preferences are different, it is best to
ask the patient in advance. If some details do not suit him, we should adapt to
the circumstances and not be
inflexible.
Trời: Nơi chư thiên cư ngụ, trên cõi người, nhưng còn phải chịu
luân hồi sanh tử—Heaven—The realm of the gods—Gods—Devas—Celestial—Heavenly
beings—Heavenly beings are believed to inhabit the heavens above the human
realm, but are still unenlightened and still bound to Samsara (luân hồi) and
subject to birth and death.
Trời Biến Tịnh: Heaven of Universal Purity.
Trời Cực Sắc: Ultimate Form Heaven.
Trời Đại Phạm: Heaven of Great Brahma Lord.
Trời Đao Lợi: Trayastrimsa (skt)—Tavatimsa (p).
1) Thiên xứ thứ hai trong sáu cõi trời
dục giới, còn gọi là Ba Mươi Ba Tầng Trời. Một trong những cổ thần Ấn Độ, thần
trời là vị thần đã chiến đấu với ma quân bằng kim cang chùy. Trời Đao Lợi dưới
trời Trimurti, trời Phạm thiên, trời Visnu và Siva. Phật giáo nhận trời Đao Lợi
như vị thần hộ pháp, tuy nhiên, vị trời nầy vẫn kém hơn Phật hay bất cứ ai đã
đạt được giác ngộ—The second level heaven of six heavens of desire, also called
Heaven of Thirty-Three—The palace of Trayastrimsa Heaven—One of the ancient
gods of India, the god of the sky who fights the demons with his vijra, or
thunderbolt. He is inferior to the Trimurti, Brahma, Visnu, and Siva, having
taken the place of Varuna, or sky. Buddhism adopted him as its defender,
though, like all the gods, he is considered inferior to a Buddha or any who
have attained bodhi. His wife is Indrani.
2) Theo Tỳ Kheo Bồ Đề trong Vi Diệu
Pháp, vì truyền thuyết có ba mươi ba vị do Sakka lãnh đạo, tự hiến đời mình cho
lợi ích của người khác, nên cả ba mươi ba vị đều được sanh vào cõi nầy và ngự
trị trong cung Vejayanta tại kinh đô Sudassana—According to Bhikkhu Bodhi in
Abhidhamma, Tavatimsa is so named because, according to legend, a group of
thirty-three noble-minded men who dedicated their lives to the welfare of
others were reborn here as the presiding deity and this thirty-two assistants.
The chief of this realm is Sakka, also known as Indra, who resides in the
Vejayanta Palace in the realm’s capital city, Sudassana.
Trời Đâu Suất: Nơi xuất hiện Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật—Tushita Heaven—The
Heaven-World in which the Buddha-to-be, Maitreya, waits for his coming—See Đâu
Suất Thiên.
Trời Đế Thích: Thiên Đế Thích—Sakra-devanam-indra (skt)—God Indra—Thỉnh
thoảng trời Đế Thích cũng là những người hộ pháp trong Phật giáo—He or she
sometimes was incorporated into Buddhism as a guardian of Buddhist teachings.
Trời Hóa Lạc: Nimmanarati (p)—Cõi trời Dục giới nơi mà chư Thiên có khả
năng tạo ra những thú vui bằng tư tưởng, tùy theo sở thích của họ—The realm of
Heaven of Desire where the gods have the power to create objects of sensual
enjoyment by thought, in accordance with their desires.
Trời Phạm Chúng: Heaven of Multitudes of Brahma.
Trời Phạm Phụ: Heaven of Ministers of Brahma.
Trời Phạm Thiên: The World of Brahmas.
Trời Phi Tưởng: No-Thought Heaven.
Trời Phước Sanh: Birth of Blessing Heaven.
Trời Quang Âm: Heaven of Light Sound.
Trời Sắc Cứu Cánh: Ultimate Form Heaven.
Trời Tha Hóa: Paranimmitavasavatti (p)—Cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, những vị
trời đó có khả năng đem những vật mà người khác tạo nên đặt dưới quyền điều
khiển của mình—Heaven of Comfort Gained Through Others’ Transformation, who do
not create objects of sensual enjoyment themselves, but they control the
objects of enjoyment for their use by their attendants.
Trời Thiên Đế: Heaven King.
Trời Thiện Kiến: Good-View Heaven.
Trời Thiểu Quang: Heaven of Lesser Light.
Trời Thiểu Tịnh: Heaven of Lesser Purity.
Trời Trường Thọ: Long-Life Heaven.
Trời Tu Ma Diệm: Suyama Heaven.
Trời Vô Lượng Quang: Heaven of Limitless Light.
Trời Vô Lượng Tịnh: Heaven of Limitless Purity.
Trời Vô Não: No-Affliction Heaven.
Trời Vô Nhiệt: Nơi không còn sức nóng của lo âu phiền não nữa---Heatless
Heaven—No-Heat Heaven—No heat from worries and affliction.
Trời Vô Sắc: Akanista.
Trợn Mắt: To roll one’s eyes.
Trợt: To slip.
Trổ Nghiệp: Theo Phật giáo, nghiệp thiện hay bất thiện, chẳng bao giờ
biến mất cho đến khi nào kết quả chín mùi; tuy nhiên, thanh tịnh nghiệp có thể
xãy ra bằng cách nhận lỗi, sửa lỗi và cố gắng làm những chuyện thiện lành—Karma
ripens—According to the Buddhist theory, karma, wholesome or unwholesome, never
disappears until its result ripens; however, the purification of accumulated
negative karma is possible by declaring, confessing and stopping committing of
non-virtuous actions.
Trộm Cắp: Dinnadana (p)—Stealing.
(A) Nghĩa của trộm cắp—The meanings of Dinnadana:
1) Không trộm cắp có nghĩa là không
được lấy bất cứ thứ gì của người khác: Not to steal means one should not steal
anything from others.
2) Không được tước đoạt quyền lợi của
người khác: Not to steal also means that one should not rob other’s rights.
(B) Năm điều kiện cần thiết để thành lập một nghiệp trộm cắp—The
consequences of stealing. Five conditions that are necessary for the completion
of the evil of stealing.
1) Một vật sở hữu của người khác:
Another’s property.
2) Biết đó là vật sở hữu của người
khác: Knowledge that it is so.
3) Cố ý muốn đoạt vật ấy làm sở hữu của
mình: Intention of stealing.
4) Cố gắng trộm cắp: Effort to steal.
5) Thật sự trộm cắp hay sự trộm cắp
được thực hiện bằng hành động: Actual removal.
(C) Quả báo của trộm cắp—The consequences of stealing:
· Nghèo nàn: Poverty.
· Khốn khổ: Misery.
· Thất vọng: Disappointment.
· Làm thân nô lệ: Dependent
livelihood.
Trốn Tránh: Escapism.
Trống Trời: Khi nào những vị trời bị đắm nhiễm ngũ dục thì trống liền
trổi dậy để cảnh cáo họ rằng mọi việc chóng phai, vui sướng luôn mang lại những
hạt giống khổ đau—Celestial drum—Drum of the teaching—Heavenly drum—Whenever
the gods become deluded and caught in the quagmire of the five desires, a
celestial drum suddenly sounds to warn them that all things are evanescent;
pleasure brings with it the seed of suffering.
Tru Di: To exterminate.
Tru Di Tam Tộc: To exterminate three generations.
Truù:
1) Ban ngày: Day—Daytime—Daylight.
2) Trú ngụ: Sthiti (skt)—To abide—To
dwell—To stay—To settle.
Trú Ám Lâm:
1) Khu rừng mà ban ngày cũng tối ám như
ban đêm: The grove of daylight darkness.
2) Tên gọi nghĩa địa: A cemetery.
Trú Ấn: To find shelter—To take refuge—To shelter oneslef.
Trú Chân: To stay.
Trú Dạ Lục Thời: The six periods of the day and night.
Trú Manh: Day-blindness.
Trù:
1) Nhà bếp: A kitchen.
2) Trù mật: Đông đặc—Dense—Thick-set.
3) Trù tính—To calculate—To devise—To
plan.
Trù Định: To plan.
Trù Lâm: Rừng dầy—Dục vọng của chúng sanh được ví như khu rừng dầy,
một khi đã lạc vào thì khó lòng mà thoát ra được—A thick or dense forest, e.g.
the passions, etc.
Trù Lượng: Reckoning—To reckon and measure.
Trù Rủa: To curse.
Truï:
1) Sthiti (skt)—Ngụ tại—To stay—To
abide—To dwell—To settle—To stop.
2) Cây cột: A post—A pillar.
Trụ Chỗ Vô Ngại: To dwell in the abode of nonattachment and nonobstruction.
Trụ Địa: Nơi trụ vào chân lý, thí dụ như bằng niềm tin tự tin nơi
giáo pháp và những quả vị—Dwelling place; abiding place in the Truth, i.e. the
acquirement by faith of a self believing in the dharma and producing its
fruits.
Trụ Định: Fixed, certain, firmly settled—See Lục Chủng Quyết Định.
Trụ Định Bồ Tát: Bồ Tát sau khi tu lục độ hành trong ba a tăng kỳ kiếp, thì
còn phải tu trong 100 đại kiếp nữa mới có thể thành tựu viên mãn. Các giai đoạn
tu hành trong 100 đại kiếp nầy được gọi là “Trụ Định.” Trụ định là an trụ ở sáu
loại quyết định—A Bodhisattva firmly fixed, or abiding in certainty. After a
Bodhisattva has completed three great asamkhyeya kalpas he has still one
hundred great kalpas to complete. This period is called abiding in fixity or
firmness, divided into sixth kinds:
1) Thiện Thú Định: Quyết định sanh ở
thiện đạo trời, người—Certainty of being born in a good gati such as in the
deva realms or in the realms of human beings.
2) Quyết định sanh vào nơi quý tộc:
Certainty of being born in a noble family.
3) Quyết định sanh ra có đầy đủ lục căn
không tàn khuyết: Certainty of being born with a good body.
4) Quyết định sanh làm người nam:
Certainty of being born as a man.
5) Quyết định có được túc mệnh thông:
Certainty of being born knowing the abiding places of his transmigrations.
6) Quyết định tạo tác thiện nghiệp bền
vững không thoái chuyển: Certainty of being born knowing the abiding character
of his good work.
** For more information, please Lục Chủng
Quyết Định.
Trụ Kiếp: Vivarta siddha kalpa (skt)—Thời kỳ mà các loài hữu tình
yên ổn tồn trụ (một trong bốn trung kiếp, thành, trụ, hoại, không)—The abiding
or existing kalpa; the kalpa of human existence.
**
For more information, please see Tứ Kiếp.
Trụ Nơi Chánh Định: To dwell in Correct Samadhi.
Trụ Pháp Vị: To abide in place in the Dharma.
Trụ Quả: Trụ nơi quả vị đạt được, như việc Thánh giả Thanh Văn và
Duyên Giác an trụ quả đã chứng được mà không cầu tiến lên quả vị
Phật—Abiding in the fruit, i.e. sravakas and pratyeka-buddhas who rest
satisfied in their attainments and do not strive for Buddhahood.
Trụ Quả Duyên Giác: Những vị Duyên Giác sau khi chứng quả thì an trụ chứ không
cầu tiến lên quả vị Phật—Pratyeka-buddhas who rest satisfied in their
attainments and do not strive for Buddhahood.
Trụ Quả La Hán: Những vị A La Hán sau khi chứng quả thì an trụ chứ không
cầu tiến lên quả vị Phật—Arahants who rest satisfied in their arahanthood and
do not strive for Buddhahood.
Trụ Quả Thanh Văn: Những vị Thanh Văn sau khi chứng quả thì an trụ chứ không
cầu tiến lên quả vị Phật—Sravakas who rest satisfied in their attainments and
do not strive for Buddhahood.
Trụ Sơn: Trụ trì chùa—To dwell on a mountain—To be in residence on
a mountain—To be a temple master.
Trụ Tháp: Tháp trong tự viện—A pogoda.
Trụ Trì:
1) To dwell and control.
2) An trụ ở đời mà hộ trì Phật pháp:
Resident superintendent; to maintain, or firmly hold to faith in the Buddha.
3) Vị Tăng hay Ni trụ trì một tự viện:
Abbot—Abbess—A monk or nun who is head of a monastery (convent).
Trụ Trượng Tử: Cây gậy—A staff—A crutch.
Trụ Tướng: Sthiti (skt)—Một trong bốn tướng sanh, trụ, hoại,
diệt—Abiding, being the state of existence, one of the four characteristics of
all beings and things, i.e. birth, existence, change or decay, and death or
cessation.
Trụ Vị:
1) Nơi trụ: Trụ vị, một trong thập trụ
Bồ Tát, sau khi qua “tín vị” thì trụ lại để phát triển tu tập—Abiding place,
one of the ten stages, resting and developing places or abodes of the
Bodhisattva, which is entered after the stage of belief has been passed.
2) Trụ lại một nơi: To abide in a
place.
Trụ Xứ Bất Tịnh: Dirty place of residence.
Truân Na: Curna (skt)—Cát bụi—Dust—Sand.
Trúc:
1) Thiên Trúc (Trúc Độ): Ấn Độ—India.
2) Venu (skt)—Bamboo.
Trúc Đàm Ma La: Dharmaraksa (skt)—Indu-Dharmaraksa (skt)—Trúc Pháp Hộ hay
Trúc Đàm Ma La sát (họ Trúc, tên Đàm Ma La Sát)—Người nước Nguyệt Chi, biết 36
thứ tiếng, đã dịch 175 tác phẩm vào khoảng 266-317 sau Tây Lịch—A native of
Tukhara, who knew thirty-six languages and translated some 175 works around
266-317 A.D.
Trúc Đàm Ma La Sát: See Trúc Đàm Ma La.
Trúc Kinh: Kinh điển Phật Giáo Ấn Độ—Indian, i.e. Buddhist, sutras.
Trúc Lâm: Một nơi nổi tiếng gần thành Vương Xá, được vua Bình Sa
Vương của xứ Ma Kiệt Đà cúng dường cho Phật, bây giờ là Rajdir, thuộc
bang Bihar Ấn Độ—Bamboo Grove—Bamboo Forest—A famous place of retreat near
Rajagriha given to the Buddha by King Bimbisara of Magadha, now Rajgir, Bihar,
India.
Trúc Lâm Tịnh Xá: Venuvana (skt)—Trúc Lâm Tự—Trúc Viên—Trúc Uyển—See
Bamboo-Grove Vihara.
1) Theo Eitel trong Trung Anh Phật Giáo
Từ Điển, Trúc Lâm Tịnh Xá được vua Bình Sa Vương xây lên cho các Sa môn, về sau
ông dâng cho Phật—Bamboo Forest Monastery or “Bamboo-grove,” a park called
Karanda-venuvana, near Rajagrha, made by Bimbisara for a group of ascetics,
later given by him to Sakyamuni.
2) Lại có thuyết khác cho rằng Trúc Lâm
Tịnh Xá được trưởng giả Ca-Lan-Đà xây lên và hiến cho Phật—Another version
says that the park was built by Karanda and later was given to Sakyamuni
Buddha.
Trúc Lâm Tự: Tên của một chùa nổi tiếng ở Huế, Trung Việt. Chùa do Tỳ
Kheo Ni Diệu Trường xây dựng năm 1903. Chùa được trùng tu toàn diện năm 1931.
Trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo, chùa Trúc Lâm đã góp vai trò phát khởi
Phật giáo Việt Nam. Nhiều danh Tăng và Ni đã xuất thân từ chùa Trúc Lâm như Hòa
Thượng Mật Khế, là giảng sư đầu tiên của Hội An Nam Phật Học, Hòa Thượng Mật
Thể, tác giả của quyển Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, và Sư Bà Diệu Không, người
có công trong việc chấn hưng Ni Bộ—Name of a famous temple in Huế, Central
Vietnam. The temple was built in 1903 by Nun Diệu Trường. In 1931, the temple
was rebuilt on a large scale. In the cause of reinforcing Vietnamese Buddhism,
Trúc Lâm temple played a starting role. Many famous monks and nuns were
from Trúc Lâm, i.e., Most Venerable Mật Khế, the first lecturer of An Nam
Buddhist Association, Most Venerable Mật Thể, the author of Vietnam Buddhist
History, Nun Diệu Không, who helped organizing the Nun Order in Vietnam.
Trúc Pháp Lan: Dharmaraksa or Indu-dharmaranya (skt)—Họ Trúc tên Pháp
Lan, người đã dịch 5 bộ kinh vào khoảng những năm 68-70 sau Tây Lịch, và cũng
là người mà người ta lầm tưởng đã cùng Ngài Ca Diếp Ma Đằng vào Trung Quốc dịch
Kinh Tứ Thập Nhị Chương—Indu-Dharmaranya, who translated five works in 68-70
A.D., and to whom with Kasyapa Matanga the translation of the sutra of 42
sections is wrongly attributed.
Trúc Pháp Lực: Dharmabala (skt)—Người đã dịch bộ Kinh Trường Thiên A Di
Đà vào khoảng năm 419 sau Tây Lịch, bây giờ đã thất lạc—Translator of the
larger Sukhavati-vyuha in around 419 A.D., now lost.
Trục: Xua đuổi—To expel—To exorcise—To drive away.
Trục Trặc: To go (work—run) wrong or badly.
Trục Xe: Axle.
Trui: To harden
Trùm Khắp: Vibhu (skt)—Being
everywhere—Far-extending—All-pervading—Omnipresent.
Trung: Madhya (skt).
1) Trung Tâm: Middle—Central—Medium.
2) Trung Bình: The mean.
3) Bên Trong: Within.
4) Trung Thành: Loyal.
Trung A Hàm: Majjhima-Nikaya—The Midle Length Discourses in the Pali
Canon—The middle Agama.
Trung Ấm: Còn gọi là Trung Hữu là sự hiện hữu giữa lúc chết và lúc
đầu thai, giai đoạn thay đổi từ bảy đến 49 ngày—The intermediate existence
between death and reincarnation, a stage varying from seven to forty-nine days,
when the karma-body will certainly be reborn.
**
For more information, please see
Antara-bhava in Sanskrit/Pali-
Vietnamese Section.
Trung Ấm Pháp Sự: Những phương cách được gia đình người chết áp dụng khoảng
49 ngày giữa lúc chết và lúc đầu thai, để bảo đảm cho người chết được tái sanh
vào cõi tốt hơn---The means used by the deceased’s family for ensuring a
favorable reincarnation during the intermediate stage, between death and
reincarnation.
Trung Ấn: Trung tâm Ấn Độ—Central India.
Trung Bát: Một trong năm loại bất hoàn. Đây là thân trung hữu của các
bậc Thánh đi thẳng vào Niết Bàn—One of the five kinds of those who never recede
but go on to parinirvana.
Trung Biên Luận: Tên đủ là Biện Trung Biên Luận, được Ngài Thiên Thân Bồ
Tát biên soạn, ngài Huyền Trang dịch ra ba quyển, ngài Trần Chân Đế dịch ra hai
quyển. Bộ luận giải thích về Trung Luận—A treatise by Vasubandhu, translated by
Hsuan-Tsang in three books and by Chen-Chen-Ti in two books. It is an explanation
of the Madhyanta-vibhaga-sastra, said to have ben given by Maitreya to Asanga.
Trung Bối: Theo Kinh Vô Lượng Thọ, thì đây là những người sẽ tái sanh
vào trung phẩm Tịnh Độ—According to the Infinite Life Sutra, this is the middle
class of those in the next life in the Pure Land—See Cửu Phẩm Liên Hoa and Cửu
Phẩm An Dưỡng.
Trung Bối Quán: Quán vãng sanh Trung Phẩm (thượng, trung, và hạ sanh)—The
meditation on the middle class of the Pure Land—See Cửu Phẩm Liên Hoa and Cửu
Phẩm An Dưỡng.
Trung Bối Sanh: See Trung Bối.
Trung Can: Loyal.
Trung Căn: Căn tính trung bình, không quá thông minh hay ngu
đần—Medium (moderate) capacity—Neither clever nor dull—See Tam Căn.
Trung Châu: Mỗi châu dưới chân núi Tu Di đều có hai châu phụ gọi là
“trung châu”—Each of the four great continents at the foot of Mount Sumeru has
two middling continents.
Trung Chính: Upright—Just.
Trung Dung: Happy medium.
Trung Đài: Tên của vị Phật ở trung tâm Liên Hoa (Tỳ Lô Giá Na)—The
name of a Buddha in the center of a lotus (Vairocana).
Trung Đài Bát Diệp Viện: Điện Sen tám Cánh—The court of the eight-petalled lotus in
the middle of the Garbhadhatu, with Vairocana (Tỳ Lô Giá Na) in the center and
four Buddhas and four Bodhisattvas on the eight petals:
(A) Phật Tỳ Lô Giá Na ở giữa: Vairocana Buddha in the center.
(B) Bốn vị Phật trên bốn cánh chính-- Four Buddhas on the four
petals:
1) Đông phương A Súc Bệ Phật: Aksobya
in the East.
2) Nam phương Nam Phật: Ratnasambhava
in the South.
3) Tây Phương A Di Đà Phật: Amitabha in
the West.
4) Bắc phương Bất Không Phật:
Amoghasiddhi in the North.
(C) Bốn vị Bồ Tát trên bốn cánh phụ—Four Bodhisattvas in the
four petals:
1) Đông Nam Phổ Hiền Bồ Tát:
Samantabhadra in the Southeast.
2) Tây Nam Văn Thù: Manjusri in the
Southwest.
3) Tây Bắc Quán thế Âm: Avalokitesvara
in the Northwest.
4) Đông Bắc Di Lặc: Maitreya in the
Northeast.
Trung Đạo: Madhya or Madhyama (skt).
· Con đường giữa mà Phật Thích Ca Mâu
Ni đã tìm ra, khuyên người nên từ bỏ nhị biên, tránh làm các điều ác, làm các
điều lành và giữ tâm thanh tịnh. Trung Đạo có nghĩa là “bất nhị (không hai)”.
Trung Đạo vượt trên hữu vô, nhưng chứa đựng tất cả. Đức Phật dạy: “Khi phân
biệt bị loại bỏ thì trung đạo được đạt đến, vì chân lý không nằm trong sự cực
đoan mà là trong trung đạo.”—Middle way—The “mean” between two extremes
(between realism and nihilism, or eternal substantial existence and
annihilation or between), the idea of a realm of mind or spirit beyond the
terminology of substance (hữu) or nothing (vô); however, it includes both
existence and non-existence—Middle path—Sakyamuni Buddha discovered the Middle
Path which advises people to give up extremes, to keep away from bad deeds, to
do good and to purify the mind—The Eightfold Noble Path. The Buddha taught:
“When discrimination is done away with, the middle way is reached, for the
Truth does not lie in the extreme alternatives but in the middle position.”
· Học thuyết về Trung Đạo khởi thủy có
nghĩa là con đường giữa của hai thái cực lạc quan và bi quan. Địa vị chính giữa
như vậy lại là thái cực thứ ba, không nghiêng theo bên đường nầy hay bên đường
kia là ý chỉ của Phật. Chắc chắn như vậy, vì Đức Phật bắt đầu bằng con
đường giữa nầy coi như một bước tiến duy nhất cao hơn những cực đoan thông
thường kia. Tuy nhiên, từng cấp hướng thượng của nấc thang biện chứng sẽ nâng
dần chúng ta lên cao mãi cho đến lúc đạt tới giai đoạn loại hẳn thiên kiến của
phản đề về ‘hữu’ và ‘vô,’ và siêu việt chúng bằng một tổng đề về duy tâm luận.
Trung Đạo cũng có ý vị như là Chân Lý Tối Cao—The doctrine of the Middle Path
means in the first instance the middle path between the two extremes of
optimism and pessimism. Such a middle position is a third extreme, tending
neither one way nor the other is what the Buddha wanted to say. The Buddha
certainly began with this middle as only one step higher than the
ordinary extremes. A gradual ascent of the dialectical ladder, however, will bring us higher and higher until a stage is attained wherein the
antithetic onesidedness of ens and non-ens is denied and transcended by
an idealistic synthesis. In this case the Middle Path has a similar purport as
the Highest Truth.
· Theo Kinh Giáo Thọ Ca Chiên Diên,
Đức Phật đã nói với tôn giả Ca Diếp: “Nầy ông Ca Diếp! ‘Là’ là một cực đoan,
‘không là’ cũng là một cực đoan. Cái được coi là trung đạo thì không thể sờ
thấy, không thể so sánh, không nơi chốn, không hiển hiện, không thể giải thích.
Ông Ca Diếp, đó chính là trung đạo. Trung đạo là sự cảm nhận Thực Tại.” Những
sự cực đoan trở thành những con đường không có lối thoát của chủ thuyết vĩnh
hằng và đoạn diệt. Có những người chỉ bám víu vào ‘vô,’ hoặc có những người chỉ
bám víu vào ‘hữu.’ Đức Phật đã xử dụng thuyết Trung Đạo để vạch ra chân lý mọi
sự vật trên thế giới nầy không phải là ‘hữu’ tuyệt đối, mà cũng không phải là
‘vô’ tuyệt đối. Kỳ thật, mọi vật đều có sanh có diệt, tạo nên sự chuyển hóa
liên tục không ngừng. Trung Đạo có nghĩa là thực tại siêu việt đối với những
cách lý luận nhị phân của lý trí và thực tại không thể bị hạn định hoặc đóng
khung trong những lựa chọn ‘là,’ ‘không là.’—In the Katyayanavavade sutra, the
Buddha told Maha-Kasyapa: “Kasyapa! ‘It is one extreme alternative, not is’ is
another extreme alternative. That which is the madhyama position is intangible,
incomparable, without any position, non-appearing, incomprehensible. That is
what is meant by madhyama position. Kasyapa! It is perception of Reality.” Extremes
become the dead ends of eternalism and annihilism. There are those who cling
exclusively to nonbeing and there are others who cling exclusively to being. By
his doctrine of Middle Way (madhyama pratipat), the Buddha meant to show the
truth that things are neither absolute being nor absolute nonbeing, but are
arising and perishing, forming continuous becoming, and that Reality is
transcendent to thought and cannot be caught up in the dichotomies of the
mind.
Trung Đạo Ấn Pháp Giới: The doctrine of the “mean” is the dharmadhatu or the
spiritual universe.
Trung Đạo Đệ Nhứt Nghĩa: Chư pháp chẳng qua đều ở trong trung đạo nên gọi là đệ
nhứt nghĩa—The “mean” is the first and the chief of all principles, nothing is
outside it.
Trung
Đạo Giáo: See Trung Đạo Tông.
Trung Đạo Không: Cái “không của cửa phương tiện. Đây là từ ngữ của trường
phái Thông Giáo—The “void” of the means. This is the term of the Intermediate
Schools.
**
For more information, please see
Bất Đản Không.
Trung Đạo Quán: Một trong tam quán của tông Thiên Thai, quán lý trung đạo
để đoạn hoặc vô minh—One of the T’ien-T’ai three kinds of meditation, on the
doctrine of the mean to get rid of the illusion of phenomena.
Trung Đạo Thực Tướng: Thực tướng của chư pháp là phi hữu phi không (đây là trung
đạo phi hữu phi không)—The reality of the “means” is neither substance
(existent), nor void (non-existent), but is a reality which is neither, or a
mean between the two extremes of materialism and nihilism.
Trung Đạo Tông: Theo Pháp Tướng Tông, thời kỳ giáo thuyết thứ ba của Đức
Phật, vạch ra lối Trung Đạo giữa hai thái cực, chân lý tuyệt đối không bị đóng
khung trong hai thái cực sự và lý—The third period of the Buddha’s teaching,
according to the Dharmalaksana, giving the via media between the two extremes,
the absolute as not confined to the phenomenal or the noumenal.
Trung Đạo Ứng Bổn: Theo nghĩa của hai giáo Biệt Viên, lấy trung đạo viên thực
làm căn bản của ứng hóa thân—The “mean” as the basic principle in the special
and perfect teachings of the doctrine of the transformation body.
Trung Đẳng: Middle class.
Trung Đế: Đế thứ ba trong Tam Đế do trường phái Thiên Thai đặt ra.
Trung Đế có nghĩa là trung chính tuyệt đối, bất ly nhị biên, bất tức nhị biên
(không xa lìa hai bên, mà cũng chẳng phải là hai bên)—The third of the three
postulates of the T’ien-T’ai school.
Trung Giá Y: See Trung Y.
Trung Gian: Medium.
Trung Gián Định: Còn gọi là Trung Gián Tam Muội, Trung Gián Tịnh Lự hay
Trung Gián Thiền—Trung gián tam muội là thiền định của Đại Phạm Thiên Vương
chứng được giai đoạn thiền định giữa sắc giới và vô sắc giới—An intermediate
dhyana stage between two dhyana-heavens (form and formlessness).
**For
more information, please see Tầm Tứ.
Trung Gián Tam Muội: See Trung Gián Định.
Trung Gián Thiền: See Trung Gián Định.
Trung Gián Tịnh Lự: See Trung Gián Định.
Trung Giới Nhi (Mà) Phàm Phu Tán
Thán Như Lai: Theo Kinh Phạm Võng trong Trường
Bộ Kinh, phàm phu thường tán thán Như Lai vì những thành tựu trung
giới—According to the Brahmajala Sutta in the Long Discourses of the Buddha,
ordinary people often praise the Tathagata for these average matters:
1) Trong khi một số Sa Môn, Bà La Môn,
dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống làm hại các hạt
giống và cây cối. Như các hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ nhành cây sanh,
hạt giống từ đất sanh, hạt giống từ chiết cây sanh, và hạt giống từ hạt cây
sanh. Còn Sa Môn Cồ Đàm thì không làm hại hột giống hay cây cối nào: Whereas,
some ascetics and Brahmins, feeding on the food of the faithful, are addicted
to the destruction of such seeds as are propagated from roots, from stems, from
joints, from cuttings, from seeds, the ascetic Gotama refrains from such
destruction.
2) Trong khi một số Sa Môn, Bà La Môn,
dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống cất chứa và thọ
hưởng các đồ vật, Như cất chứa các món ăn, đồ uống, vải, xe cộ, đồ nằm, hương
liệu, và mỹ vị. Còn sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ không cất chứa các vật trên:
Whereas some ascetics and Brahmins, feeding on the food of the faithful, remain
addicted to the enjoyment of stored-up goods such as food, drink, clothing,
carriage, beds, pefumes, meat, the acetic Gotama refrains from such enjoyment.
3) Trong khi một số Sa Môn, Bà La Môn,
dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống theo các du hý không
chân chánh như múa, hát, nhạc, kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, tụng chú, đánh trống,
diễn các tuồng thần tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu trâu, đấu bò đực, đấu
dê, đấu cừu, đấu gà, đấu chim cun cút, đấu gậy, đấu quyền, đấu vật, đánh giặc,
dàn trận, thao dượt, diễn binh. Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ các loại du hý
không chân chánh như trên: Whereas some ascetics and Brahmins remain addicted
to attending such shows as dancing, singing, music, displays, recitations,
hand-music, cymbals and drums, fairy shows, acrobatic and conjuring tricks,
combats of elephants, buffaloes, bulls, goats, rams, cocks and quail, fighting
with staves, boxing, wrestling, sham-fights, parades, manoeuvers and military
reviews, the ascetic Gotama refrains from such displays.
4) Trong khi một số Sa môn, Bà La Môn,
dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống đánh bài và theo các
trò giải trí như cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi
trên đất, chỉ bước vào những ô có quyền bước, trò chơi quăng thẻ rồi chụp nhưng
không cho sụp đống thẻ, chơi súc sắc, chơi khăn, lấy tay làm viết, chơi
banh, chơi thổi kèn bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ, chơi đoán chữ viết
thiếu trên không hay trên lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước bộ điệu. Còn
sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ đánh bài và các loại giải trí như trên: Whereas some
ascetics and Brahmins remain addicted to such games and idle pursuits as
eight-or ten-row chess, chess in the air, hopscotch, spillikins, dicing,
hitting sticks, hand-pictures, ball-games, blowing through toy pipes, playing
with toy ploughs, turning someersaults, playing with toy windmills, measures,
carriages and bows, guessing letters, guessing thoughts, mimicking deformities,
the ascetic Gotama refrains from such idle pursuit.
5) Trong khi một số Sa Môn, Bà La Môn,
dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, cũng vẫn sống dùng các giường cao
và giường lớn như ghế bành, ghế dài, nệm trải giường bằng len, vải trải giường nhiều
tấm nhiều màu, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các
con thú, mền bằng lông thú cả hai phía, mền bằng lông thú một phía, mền có đính
ngọc, mền bằng lụa, tấm thảm lớn có thể chứa mười sáu người múa, nệm voi, nệm
ngựa, nệm xe, nệm bằng da sơn dương khâu lại với nhau, nệm bằng da sơn dương
gọi là kadali, tấm khảm với lầu che phía trên, ghế dài có đồ gối chân màu đỏ.
Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ không dùng các giường cao và giường lớn như trên:
Whereas some ascetics and Brahmins remain addicted to high and wide beds and
long chairs, couches adorned with animal figures, fleecy or variegated
coverlets, coverlets with hair on both sides or one side, silk coverlets,
embroidered with gems or without, elephant-rugs, horse-rugs, or chariot-rugs,
choice spreads of antelope-hide, couches with awnings, or with red cushions at
both ends, the ascetics Gotama refrains from such high and wide beds.
6) Trong khi một số Sa Môn, Bà La Môn,
dầu đã dùng các món cúng dường của tín thí, cũng vẫn sống dùng các đồ mỹ phẩm.
Như thoa dầu, đấm bóp, tắm, đập tay chân cho mềm dẻo, gương, kem đánh mặt, vòng
hoa và phấn son, phấn mặt, sáp mặt, vòng đeo tay, tóc giả, gậy cầm tay, ống
thuốc, gươm, lọng, dép thêu, khăn đầu, ngọc, phất trần, vải trắng có viền tu
dài. Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ không dùng các loại trang sức và mỹ phẩm như
trên: Whereas some ascetics and Brahmins remain adicted to such forms of
self-adornment and embellishment as rubbing the body with perfumes, massaging,
bathing in scented water, shampooing, using mirrors, ointments, garlands,
scents, unguents, cosmetics, bracelets, headbands, fancy sticks, bottles,
swords, sunshades, decorated sandals, turbans, gems, yak-tail fans,
long-fringed white robes, the ascetic Gotama refrains from such self-adornment.
7) Trong khi một số Sa môn, Bà La Môn,
dầu đã dùng các món đồ ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống nói những câu
chuyện vô ích, tầm thường như câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm,
câu chuyện về đại thần, binh lính, câu chuyện hãi hùng, chiến tranh, câu chuyện
về đồ ăn, đồ uống, vải mặc, giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, hương liệu, câu
chuyện về bà con, xe cộ, làng xóm, thị tứ, thành phố, quốc độ, câu chuyện về
đàn bà, đàn ông, câu chuyện về vị anh hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện
tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, câu
chuyện về hiện trạng của thế giới, hiện trạng của đại dương, câu chuyện về sự
hiện hữu và sự không hiện hữu. Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ không nói những câu
chuyện vô ích, tầm thường kể trên: Whereas some ascetics and Brahmins remain
addicted to such unedifying conversation as about kings, robbers, ministers,
armies, dangers, wars, food, drink, clothes, beds, garlands, perfumes,
relatives, carriages, villages, towns, and cities, countries, women, heroes,
street gossip and well gossip, talk of the departed, desultory chat,
speculations about land and sea, talk about being and non-being, the ascetic
Gotama refrains from such conversation.
8) Trong khi một số Sa Môn, Bà La Môn,
dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống bàn luận tranh chấp,
như nói: ‘Ngươi không biết pháp và luật này, tôi biết pháp và luật nầy.’ ‘Sao
ngươi có thể biết pháp và luật nầy?’ ‘Ngươi đã phạm vào tà kiến, ta mới thật đúng
chánh kiến; lời nói của ta mới tương ưng, lời nói của ngươi không tương ưng;
những điều đáng nói trước ngươi lại nói sau; những điều đáng nói sau ngươi lại
nói trước;’ ‘chủ kiến của ngươi đã bị bài bác;’ ‘câu nói của ngươi đã bị thách
đấu;’ ‘ngươi đã bị thuyết bại.’ ‘Hãy đến mà giải vây lời nói ấy; nếu có thể
được, gắng thoát ra khỏi lối bí.’ Còn Sa môn Cồ Đàm thì từ bỏ những cuộc biện
luận tranh chấp đã kể trên: Whereas some ascetics and Brahmins remain addicted
to disputation such as: ‘You don’t understand this doctrine and discipline—I
do!’ ‘How could you understand this doctrine and discipline?’ ‘Your way is all
wrong—Mine is right!’ ‘I am consistent-- you aren’t!’ ‘You said last what you
have said first, and you said first what you should have said last!’ ‘What you
took so long to think up has been refuted!’ ‘Your argument has been overthrown,
you’re defeated!’ ‘Go on, save your doctrine – get out of that if you can!’ The
ascetic Gotama refrains from such disputation.
9) Trong khi một số Sa Môn, Bà La Môn
dầu đã dùng các đồ ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống cho đưa các tin
tức, hoặc tự đứng làm môi giới, như cho các vua chúa, đại thần, các vị Sát Đế
Lợi, Bà La Môn, gia chủ, cho các thanh niên và nói rằng: “Hãy đi đến chỗ ấy,
hãy đi lại chỗ kia; mang cái nầy lại, đem cái nầy đến chỗ kia.” Còn Sa môn Cồ
Đàm thì từ bỏ không cho đưa các tin tức và tự đứng làm môi giới: Whereas some
ascetics and Brahmins remain addicted to such things as running errands and
messages, such as for kings, ministers, nobles, Brahmins, householders and
young men who say: “Go here – go there! Take this there–bring that from there!’
The acetic Gotama refrains from such errand-running.
10) Trong khi một số Sa môn, Bà La Môn, dầu đã dùng các món ăn
do tín thí cúng dường, vẫn còn sống lừa đảo, nói lời siểm nịnh như trên:
Whereas some ascetics and Brahmins remain addicted to deception, patter,
hinting, belittling, and are always on the make for further gains, the ascetic
Gotama refrains from such deception.
Trung Hiếu: Loyal and pious.
Trung Hòa: Neutrality.
Trung Hối: Repenting or recanting midway (doubting and falling away).
Trung Hưng: Restoration.
Trung Hữu: Antara-bhava—Một trong bốn thứ “hữu,” quả báo trong khoảng
giữa đời hiện tại và vị lai (giữa lúc chết và lúc tái sanh)—One of the four
kinds of bhava, the intermediate state of existence between death and
reincarnation.
**
For more information, please see
Antara-bhava in Sanskrit/Pali-
Vietnamese Section and Thân
Trung Ấm in Vietnamese-English
Section.
Trung Hữu Chi Lữ: Một chúng hữu tình đang tìm nơi tái sanh—An unsettled
being in search of a new habitat or reincarnation.
Trung Kiên: Loyal—Faithful.
Trung Kiếp: Một thời kỳ 336 triệu năm, bốn trung kiếp làm thành một
đại kiếp—Middling kalpa—A period of 336.000.000 years (four middling kalpas
make on great kalpa—Thành+Trụ+Hoại+Không= A great kalpa).
Trung Lộ: Trung đạo—Middle Path.
Trung Luận: Madhyamika-Sastra (skt)—Tên đầy đủ là Trung Quán Luận, do
Bồ tát Long Thọ biên soạn và Thanh Mục Bồ tát chú thích, Cưu Ma La Thập đời Tần
dịch sang Hoa Ngữ. Đây là một trong ba bộ luận căn bản của tông Tam Luận. Luận
nầy chủ trương trung đạo triệt để, chống lại luận cứ “hữu” “không” hoặc nhị
biên “sanh” và “vô sanh.” Theo Ngài Long Thọ thì trung đạo là chân tánh của vạn
hữu, không sanh không diệt, không hiện hữu, không phi hiện hữu—The
Madhyamika-sastra, attributed to the Bodhisattva Nagarjuna as creator, and
Nilakasus as compiler, translated into Chinese by Kumarajiva in 409 A.D. It is
the principal work of the Madhyamika, or Middle School. The teaching of
this school opposes the rigid categories of existence and non-existence, and
denies the two extremes of production or creation and non-production and other
antitheses, in the interests of a middle or superior way. According to
Nagarjuna, the Middle Way is true nature of all things which neither is born
nor dies, and cannot be defined by either the two extremes, existence or
non-existence.
Trung Luận Tính Giáo: The Madhyamika school, which has been described as a
system of sophistic nihilism, dissolving every proposition into a thesis and
its antithesis, and refuting both.
Trung Luận Tông: Madhyamika School.
(I) Trung Luận tông Ấn Độ—The Madhyamika School in India:
(A) Lịch sử thành lập Trung Luận Tông—The history of the
formation of the Madhyamaka sect: Được gọi là Trung Quán Tông vì bộ phái nầy
chú trọng đến quan điểm trung dung (madhyamika-pratipat). Trong bài thuyết pháp
đầu tiên trong vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã giảng về Trung đạo, vốn là con đường
tu tập không phải qua sự hành xác mà cũng không phải buông xuôi theo dục lạc.
Trung đạo không chấp nhận cả hai quan điểm liên quan đến sự tồn tại và không
tồn tại, trường cửu và không trường cửu, ngã và vô ngã, vân vân. Nói tóm lại,
tông phái nầy không chấp nhận thuyết thực tại mà cũng không chấp nhận thuyết
không có thực tại, phái nầy chỉ chấp nhận sự tương đối. Tuy nhiên, cần nên thấy
rằng Trung Đạo được đề xướng ở Ba La Nại có một ý nghĩa về đạo đức sống, còn
Trung Đạo của Trung Luận tông là một khái niệm siêu hình. Trường phái mà chủ
thuyết dựa vào ba bộ luận chính của Ngài Long Thọ. Đặc điểm nổi bậc nhất của
tông phái nầy là nhấn mạnh đến chữ ‘Không’ và ‘Không Tánh’ nhiều lần, cho nên
nó cũng còn được gọi là tông phái có ‘hệ thống triết học xác định rằng ‘không’
là đặc tánh của Thực Tại. Ngoài ra, đã có rất nhiều nhà tư tưởng Trung Luận đi
theo ngài Long Thọ như Thánh Thiên (Aryadeva) vào thế kỷ thứ ba, Buddhapatila
vào thế kỷ thứ năm, Chandrakirti vào thế kỷ thứ sáu, và Santideva vào thế kỷ
thứ bảy—The Madhyamikas were so called on account of the emphasis they laid on
the middle view (madhyamika-pratipat). In his first sermon at Banares, the
Buddha preached the Middle Path, which is neither self-mortification nor a life
devoted to the pleasures of the senses. However, the middle path, as advocated
by the adherents of the Madhyamika system, is not quite the same. Here, the
middle path stands for the non-acceptance of the two views concerning existence
and non-existence, eternity and non-eternity, self and non-self, and so on. In
short, it advocates neither the theory of reality nor that of the unreality of
the world, but merely of relativity. It is, however, to be noted that the
middle path propounded at Banares has an ethical meaning, while that of the
Madhyamikas is a metaphysical concept. The Middle School of which doctrine was
based on the three main works of Nagajuna. The most striking feature of
Madhyamaka philosophy is its ever-recurring use of ‘Sunya’ and ‘Sunyata.’ So
this system is also known as the school with the philosophy that asserts Sunya
as the characterization of Reality. Besides, there was a galaxy of Madhyamika
thinkers, such as Aryadeva in the third century A.D.), Buddhapalita in the
fifth century, Bhavaviveka in the fifth century, Chandrakirti in the sixth
century, and Santideva in the seventh century .
(B) Những luận điểm quan trọng của Trung Luận tông—Important
points of the Madhyamika school:
1) Ngài Long Thọ, sơ tổ Trung Luận tông
đã viết rất nhiều sách, trong số đó Trung Quán Luận được xem là tác phẩm quan
trọng của ông. Sách nầy trình bày triết lý Trung Luận tông một cách có hệ
thống. Trong bài kệ mở đầu cuốn sách, ngài Long Thọ đã tóm lược các điều cơ bản
của triết lý nầy. Ngài đã giảng giải luật Duyên Khởi bằng tám sự phủ định (see
Bát Bất Trung Đạo): Nagarjuna, the first patriarch of the Madhyamika school,
wrote a number of works, of which the Madhyamika-karika is regarded as his
masterpiece. It presents in a systematic manner the philosophy of the
Madhyamika school. In the invocation in verse at the beginning of the book,
Nagarjuna gives the fundamentals of his philosohy in a nutshell. He describes
Dependent Origination (Pratitya-samutpada) by means of eight negations.
2) Theo Trung Luận thì tánh không (sunyata) là tuyệt đối: According to the Madhyamika school, the indescribable
absolute (sunyata) is the absolute.
3) Không có sự khác biệt giữa luân
hồi (samsara) và Niết Bàn (nirvana) hay sự trống không (sunyata): There
is no difference between phenomenal world (samsara) and nirvana or sunyata
(reality).
4) Sự trống không hay tuyệt đối tương
ứng với Phạm Thiên (Brahman) nirguna trong sách Upanisads: Sunyata or the
absolute corresponds to the nirguna Brahman of the Upadesads.
5) Qua triết lý ‘Tánh Không,’ Trung
Luận tông bàn về cái hiện hữu tương đối, chứ không phải là hiện hữu tuyệt đối:
Through the philosophy of Sunyata, the Madhyamika school discussed about the
relative existence of thing, not the absolute one.
6) Theo quan điểm của Trung Luận tông
thì ‘Tánh Không’ là ý tưởng trung tâm trong triết lý của họ, do đó chủ thuyết
nầy có tên là Sunyatavada. Trung Quán Luận còn bàn về hai loại chân lý: tục đế
hay chân lý theo qui ước hay theo thường nghiệm (samvrti), và chân đế hay chân
lý siêu nhiên (paramartha): According to the views of the Madhyamika school,
sunyata is the central idea of its philosophy and is therefore designated the
‘sunyatavada.’ The Madhyamika-karika further deals with two kinds of truths:
the conventional or empirical truth (samvrti), and the higher or transcendental
truth (paramartha)—See Nhị Đế.
(C) Sự phát triển của Trung Luận tông—The development of the
Madhyamika school: Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo,
tới đầu thế kỷ thứ 5, Trung Luận tông được chia làm hai trường phái tư tưởng là
Prasanghika và Svatantra. Trường phái đầu do Buddhapalita và trường phái sau do
Bhavaviveka thành lập. Prasanghika dùng phương pháp suy luận loại trừ để xây
dựng luận thuyết, còn Svatantra thì dùng kiểu suy luận độc lập. Có thể nói rằng
các trường phái Thiên Thai và Tam Luận ở Trung Hoa chủ trương thuyết ‘Không
Tánh,’ do đó là một sự tiếp nối của Trung Luận tông ở Ấn Độ: According to Prof.
Bapat in the Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, towards the beginning of
the fifth century A.D., the Madhyamika school was divided into two schools of
thought: the Prasanghika school and the Svatantra. The Prasanghika school uses
the method of ‘reason of reduction’ to establish its thesis, while the
Savtantra school employs independent reasoning. The former was founded by
Buddhapalita and the latter by Bhavaviveka. It may bementioned that the
T’ien-T’ai and San-Lun sects in China advocated the doctrine of ‘sunyata’ and
were thus a continuation of the Indian Madhyamika sect.
(II) Trung Luận Tông Trung Hoa—The Madhyamika School in China:
(A) Lịch sử thành lập Trung Luận tông tại Trung Hoa—History of
the formation of Madhyamika in China: Tại Trung Hoa, Trung Luận tông hay Tam
Luận tông được chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất đi theo truyền thống
‘Cổ Tam Luận tông’ từ thời ngài Long Thọ đến ngài Cưu Ma La Thập, còn nhóm thứ
hai theo truyền thống ‘Tân Tam Luận tông’ từ thời Cát Tạng 549-623), một môn đệ
của Cưu Ma La Thập đến thời kỳ suy thoái của truyền thống nầy vào khoảng thế kỷ
thứ tám: In China, the Three Madhyamika Treatises is divided into two groups.
The first tradition is called the ‘old’ follows the tradition from Nigarjuna to
Kumarajiva; and the second is called the ‘new’ tradition from Chi-Tsang
(549-623 A.D.), a disciple of Kumarajiva, to the time of its decline in the
eighth century A.D.
(B) Triết lý và kinh sách—Philosophy and works:
a) Triết lý Tam Luận—Madhyamika
philosophy: Tam Luận tông là một bộ phái Phật giáo diễn tả Trung Luận theo chân
lý tuyệt đối. Các tông phái nầy nhấn mạnh ở thuyết chân lý qui ước hay tục đế
(samvrti-satya) theo đó thì vạn vật đều do duyên sinh và chỉ có sự tương quan với nhau chứ không phải hiện hữu theo nghĩa tuyệt đối. Khía cạnh thực tế
của triết lý Trung Luận được các trường phái nầy thể hiện trong cách sống gần
gũi với con người bình thường. Mặc dù đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của
nền văn hóa Trung Hoa trong tám thế kỷ, nhưng các tông phái nầy ngày nay chỉ
còn là những đối tượng để nghiên cứu về lịch sử, kinh sách và triết học mà
thôi. Các tông phái nầy không còn tồn tại dưới dạng thể chế tôn giáo ở Trung
Hoa, ngoại trừ hình thức đã sửa đổi như là đạo Lạt Ma (Lamaism) ở Tây Tạng—The
San-Lun-tsung was a Buddhist sect which expressed the Madhyamika
doctrine according to absolute truth (paramartha-satya). These schools
stress the doctrine of conventional truth (samvrti-satya), according to which all
beings are conditioned and merely interrelated, but do not come into existence
in the absolute sense. The practical aspect of the Madhyamika philosophy was
expressed by these schools in their approach to human life. Although these
schools contributed to the cultural development of ancient China for eight
centuries, today they are only objects of historical, textural and
philosophical study. They no longer exist as religious institutions in China,
except in the modified form of Tibetan Lamaism.
b) Kinh sách chính đã tạo nên hệ Tam
Luận của Phật giáo Trung Hoa—Chief works: Các kinh sách chính của tông phái nầy
gồm—Chief texts which constitute the San-Lun literature of Chinese
Madhyamika Buddhism:
· Đại Trí Độ Luận: The
Mahaprajnaparamita-sastra.
· Thập Địa Tỳ Bà Sa Luận: The
Dasabhumivibhasa-sastra.
· Trung Luận: The Madhyamika-sastra.
· Bách Luận: Sata-sastra.
· Thập Nhị Môn Luận:
Dvadasanikaya-sastra.
(C) Sự phát triển của Trung Luận tông ở Trung Hoa—The development
of Chinese Madhyamika Buddhism: Tại Trung Quốc, các nhóm khác đi chung với Phật
giáo Trung Luận gồm có Tứ Luận tông, Bát Nhã tông, Hưng tông, trong đó bao gồm
cả Tam Luận tông và Hoa Nghiêm tông—In China, the groups which embrace
Madhyaminka Buddhism are Si-Lun-Tsung, Prajna tsung, Hsing-tsung, in which the
San-Lun-tsung and Hua-Yen-tsung are also included.
(D) See Trung Quán Luận.
Trung Lương: Loyal and honest.
Trung Lưu: Giữa dòng sanh tử—In the midst of the stream of
mortality or reincarnation.
Trung Nghĩa: Loyal.
Trung Ngôn Nghịch Nhĩ: Nothing hurts like the truth—Not all truths are proper to
be told.
Trung Nguyên: Rằm tháng bảy—The fifteen of the seventh moon—See Tam
Nguyên.
Trung Nhân:
1) Trung gian: Intermediary—Mediator.
2) Một sự sắp xếp Ngũ Gia Phật của Mật
giáo, với Phật Tỳ Lô Giá Na ở trung nhân—An arrangement by the esoteric sect of
the Five Dhyani-Buddhas, Vairocana being the first in the central position—See
Ngũ Phật Ngũ Đại.
Trung Phạm: Vùng trung tâm Bắc Ấn Độ—Central North India.
Trung Phẩm: Middle rank (class)—See Cửu Phẩm Liên Hoa and Cửu Phẩm An
Dưỡng.
Trung Quán: Một trong ba phép quán. Tông Thiên Thai lấy việc quán chư
pháp tuyệt đối làm Trung quán—Meditation on the Mean, one of the three kinds of
meditation—T’ien-T’ai sect consider the meditation on the absolute which unites
all opposites—Meditation of the mean to get rid of the illusion of phenomena.
Trung Quán Luận: Trung Luận—Madhyamika-Sastra (skt)—Bộ luận thứ nhất và
cũng là bộ luận chính trong ba bộ luận chính của Tam Tông Luận. Bộ Trung Quán
Luận do Ngài Long Thọ biên soạn, may mắn nguyên bản tiếng Phạn vẫn còn tồn tại.
Bản Hán văn do Ngài Cưu Ma La Thập dịch. Tác phẩm nầy gồm 400 bài tụng, trong
đó Ngài Long Thọ đã bác bỏ một số những kiến giải sai lầm của phái Tiểu Thừa
hay của các triết gia thời bấy giờ, từ đó ông bác bỏ tất cả những quan niệm duy
thức và đa nguyên để gián tiếp thiết lập học thuyết “Nhất Nguyên” của
mình. Triết học Trung Quán không phải là chủ thuyết hoài nghi mà cũng không
phải là một chủ thuyết bất khả tri luận. Nó là một lời mời gọi công khai đối
với bất cứ ai muốn trực diện với thực tại. Theo Nghiên Cứu về Phật Giáo, ngài
Tăng Hộ đã nói về lý tưởng Bồ Tát trong Trung Quán như sau: “Phật Giáo có thể
ví như một cái cây. Sự giác ngộ siêu việt của Đức Phật là rễ của nó. Phật Giáo
cơ bản là cái thân cây, các học thuyết Đại Thừa là nhánh của nó, còn các phái
và chi của Đại Thừa là hoa của nó. Bây giờ, dù hoa có đẹp đến thế nào thì chức
năng của nó là kết thành quả. Triết học, để trở thành điều gì cao hơn là sự suy
luận vô bổ, phải tìm động cơ và sự thành tựu của nó trong một lối sống; tư
tưởng cần phải dẫn tới hành động. Học thuyết nầy sinh ra phương pháp. Lý tưởng
Bồ Tát là trái cây hoàn mỹ chín mùi trên cây đại thụ của Phật Giáo. Cũng như
trái cây bao bọc hạt giống, vì vậy bên trong lý tưởng Bồ Tát là sự kết hợp của
tất cả những thành tố khác nhau, và đôi khi dường như chia rẽ của Đại Thừa.”
Theo Jaidev Singh trong Đại Cương Triết Học Trung Quán, chúng ta thấy rằng những
nét chính yếu của triết học Trung Quán vừa là triết học vừa là thuyết thần bí.
Bằng cách xử dụng biện chứng pháp và chiếu rọi sự phê bình vào tất cả những
phạm trù tư tưởng , nó đã thẳng tay vạch trần những khoa trương hư trá của lý
trí để nhận thức Chân Lý. Bây giờ người tầm đạo quay sang với thiền định theo những hình thức khác nhau của ‘Không Tánh,” và thực hành Bát Nhã Ba La Mật
Đa. Nhờ thực hành tinh thần đức hạnh Du Già, người tầm đạo theo Trung Quán dọn
đường để tiếp nhận Chân Lý. Tại giai đoạn sau cùng của Bát Nhã, những bánh xe
tưởng tượng bị chận đứng, tâm trí vọng động lắng đọng tịch tịnh lại, và, trong
sự tịch tịnh đó, Thực Tại cúi hôn lên đôi mắt của người tầm đạo; kẻ đó đón nhận
sự tán dương của Bát Nhã và trở thành hiệp sĩ phiêu du của Chân Lý. Đây là kinh
nghiệm thuộc về một chiều khác, một chiều vô không gian, vô thời gian, nó siêu
việt lên trên lãnh vực của tư tưởng và ngôn ngữ. Cho nên nó không thể diễn đạt
được bằng bất cứ ngôn ngữ nào của nhân loại—The first and principle work of the
three main works of the Middle School, composed by Nagarjuna. Fortunately the
Sanskrit text of it has been preserved. It was translated into Chinese by
Kumarajiva. It is a treatise of 400 verses in which Nagarjuna refutes certain
wrong views of Mahayana or of general philosophers, thereby rejecting all
realistic and pluralistic ideas, and indirectly establishing his monistic
doctrine. The Madhyamaka system is neither scepticism nor agnosticism. It is an
open invitation to every one to see Reality face to face. According to the
Survey of Buddhism, Sangharakshita’s summary of the Madhyamaka system as
follows: “Buddhism may be compared to a tree. Buddha’s transcendental
realization is the root. The basic Buddhism is the trunk, the distinctive
Mahayana doctrines the branches, and the schools and subschools of the Mahayana
the flowers. Now the function of flowers, however beautiful, is to produce
fruit. Philosophy, to be more than barren speculation, must find its reason and
its fulfilment in a way of life; thought should lead to action. Doctrine gives
birth to method. The Bodhisattva ideal is the perfectly ripened fruit of the
whole vast tree of Buddhism. Just as the fruit encloses the seeds, so within
the Bodhisattva Ideal are recombined all the different and sometimes seemingly
divergent elements of Mahayana.” According to Jaidev Singh in An Introduction
To Madhyamaka Philosophy, we have seen the main features of Madhyamaka
Philosophy. It is both philosophy and mysticism. By its dialectic, its critical
probe into all the categories of thought, it relentlessly exposes the
pretensions of Reason to know Truth. The hour of Reason’s despair, however,
becomes the hour of truth. The seeker now turns to meditation on the arious
forms of ‘Sunyata,’ and the practice of ‘Prajnaparamitas.’ By moral and yogic
practices, he is prepared to receive the Truth. In the final stage of Prajna,
the wheels of imagination are stopped, the discursive mind is stilled, and in
that silence Reality stoops to kiss the eye of the aspirant; he receives the
accolade of prajna and becomes the knighterrant of Truth. It is an
experience of a different dimension, spaceless, timeless, which is beyond the
province of thought and speech. Hence it cannot be expressed in any human
language.
Trung Quán Tông: Madhyamaka (skt)—See Trung Luận Tông, and Trung Quán Luận.
Trung Quốc: Madhyadesa (skt)—Vương quốc trung tâm hay vùng trung bắc
Ấn bây giời—The middle kingdom—Central North India.
Trung Sĩ: Sravakas and Pratyeka-buddhas—Những bậc có thể đạt được
giải thoát cho chính mình, chứ không giúp được người giải thoát—Disciples who
profit self but not others—Those who can gain emancipation for themselves, but
cannot confer it on others.
Trung Tâm:
1) Ngay chính giữa: Center.
2) Tâm trung tín:
Sincerity—Loyal—Faithful—Honest.
3) Trung Tâm Tịnh Xá: See Tịnh Xá Trung
Tâm.
Trung Thai: See Trung Thai Tạng.
Trung Thai Tạng: Phật Tỳ Lô Giá Na là hình ảnh trung tâm của Thai Tạng,
xung quanh Ngài là 4 vị Phật và 4 vị Bồ tát—The central figure of the eight
petalled group of the Garbhadhatu mandala—The phenomenal Vairocana who has
around him four Buddhas and four bodhisattvas, each on a petal—See Trung Đài
Bát Diệp Viện.
Trung Thành: Faithful—Loyal.
Trung Thảo:
1) Thảo mộc loại trung bình:
Medium-sized herbs.
2) Ám chỉ người có khả năng trung bình:
Implies those who have medium capacity.
Trung Thiên: Trung Thiên Trúc—See Trung Quốc.
Trung Thiên Thế Giới: A middling chiliocosmos—See Đại Thiên Thế Giới.
Trung Thiên Trúc Tự: Một tự viện trên đỉnh Phi Lai thuộc Hàng Châu—A monastery
on the Fei-Lai peak at Hangchow.
Trung Thọ: Age between fifty and seventy.
Trung Thừa: Madhyamika (skt)—Trung thừa là trường phái phối hợp giữa
Tiểu và Đại thừa, phù hợp với tình trạng tu hành của Duyên Giác, chủ yếu là
giải thoát cho mình, nhưng vẫn có một phần cứu độ chúng sanh. Trung Thừa là một
từ ngữ chỉ cho giáo thuyết của Đức Phật, dạy về cách tránh thái quá bất
cập hay cực đoan, như hưởng thụ hay khổ hạnh. Đặc biệt hơn, Trung Thừa chỉ cho
phái Trung Đạo do ngài Long Thọ sáng lập, giáo lý nầy dạy chúng ta nên đi trên
đường Trung Đạo và nên tránh hai đối vị như chủ trương tánh hiện hữu hay không
hiện hữu của vạn vật—The middle vehicle to nirvana, includes all intermediate or
medial systems between Hinayana and Mahayana. It also corresponds with the
state of a pratyeka-buddha, who lives chiefly for his own salvation but partly
for others. Middle Way Philosophy, a term for the way of Sakyamuni Buddha,
which teaches avoidance of all extremes such as indulgence in the pleasures of
the senses on one side and self-mortification and ascetisim on the other. More
specifically, it refers to the Madhyamika (Middle Way) school founded by
Nagarjuna, which refrains from choosing beween opposing positions, and in
relation to the existence and non-existence of all things, treads a middle
way.
Trung Thực:
1) Sau bữa ăn trưa, không thể ăn món
chi—The midway meal, after which nothing whatever may be eaten.
2) See Trung Đạo Thực Tướng.
Trung Tín: See Trung thành.
Trung Tính: Indifferent—Neutral
Trung Tọa: A monk or a nun who has from ten to nineteen years of
renunciation.
Trung Tôn: Vị ở chính giữa trong hàng chư tôn—The central honoured
one (in any group of Buddhas).
Trung Tông: Pháp Tướng Tông—Dharmalaksana school, which divides the
Buddha’s teaching into three periods:
1) Hữu: The first period in which he
preached existence (hữu).
2) Không: The second period in which he
preached non-existence (Không).
3) Trung: The third period in which he
preached something “Between” (a realm of pure spirit).
Trung Trinh: Loyal and pure.
Trung Tuần: Period between 11th and 20th of the lunar month.
Trung Túc Y:
1) Áo mặc trong cho chư Tăng—A monk’s
inner garment.
2) An Đà Hội, tên khác của áo Cà-Sa năm
mảnh: Another name for the five patch garment.
Trung Y: Trung giá y—The middle garment of the monks—Another name
for the uttara sanghati—The middle garment of price or esteem.
Trúng Ý: Conforming to one’s thought.
Trùng:
1) Côn trùng hay loài bò sát—Insect,
reptile; any creeping thing.
2) Vương quốc côn trùng bao gồm sâu bọ,
sên ốc, và côn trùng, vân vân—The animal kingdom, generally applied to worms,
snails, insects, etc.
Trùng Hiển Tuyết Đậu Thiền Sư: Zen master Zhong-Hsian-Xue-Tou (980-1052)—Thiền sư Trùng
Hiển Tuyết Đậu sanh năm 980 tại Toại Ninh (bây giờ thuộc tỉnh Tứ Xuyên), là đệ
tử của Thiền sư Quang Tộ Trí Môn. Ngài là một bậc thầy cõ lớn của dòng Thiền
Vân Môn và hoằng hóa khoảng đầu đời nhà Tống. Sư nổi danh nhờ tài năng văn học.
Sư cũng là tác giả Bích Nham Lục. Khi bộ sách nầy ra mắt công chúng, tức thì
được tán thưởng khắp nơi trong giới văn học đương thời—Zen master
Zhong-Hsian-Xue-Tou was born in 980 in Sui-Ning (now in Si-Chuan Province), was
a disciple of Kuang-Zuo-Zhi-Men. Xue-Tou was a great master of the Yun-Men
School and flourished early in the Sung Dynasty. He was noted for his literary
ability. He was also the author of Pi-Yen-Lu, and when this book was made public,
it at once created universal applause in the literary circles of the
time.
· Một hôm sư hỏi Trí Môn: “Chẳng khởi
một niệm, tại sao có lỗi?” Trí Môn gọi sư lại gần. Trí Môn cầm phất tử nhằm vào miệng sư mà đánh. Sư toan mở miệng, Trí Môn lại đánh. Sư hoát nhiên
khai ngộ. Sư ở lại đây năm năm, nhận tột chỗ u huyền, mới đi tham vấn khắp
nơi—One day he asked Zhi-Men: “Before a single thought arises, can what is said
be wrong?” Zhi-Men summoned Xue-Tou to come forward. Xue-Tou did so. Zhi-Men
suddenly struck Xue-Tou in the mouth with his whisk. Xue-Tou began to speak but
Zhi-Men hit him again. Xue-Tou suddenly experienced enlightenment.
· Sư thượng đường dạy chúng. Thượng
thủ bạch chùy xong. Có vị Tăng mới bước ra. Sư nắm đứng lại, bảo: “Chánh pháp
nhãn tạng của Như Lai ủy thác tại ngày hôm nay. Buông đi thì ngói gạch sanh
quang, nắm đứng thì chơn kim mất sắc. Quyền bính ở trong tay, giết tha tại lúc
nầy. Ai là tác giả thì cùng nhau chứng cứ?”—The head monk struck the gavel. A
monk came forward to speak. Xue-Tou told him to stop and go back, and then
said: “The Treasury of the True Dharma Eye of the Tathagatas is manifested
before us today. In its illumination even a piece of tile is radiant. When it
is obscured, even pure gold loses its luster. In my hand is the scepter of
authority. It will now kill and give life. If you are an accomplished adept in
the practice of our school, then come forward and gain
authentication!”
· Có vị Tăng bước ra hỏi: “Xa lìa Tổ
tịch Thúy Phong đến đạo tràng Tuyết Đậu, chưa biết là một là hai?” Sư đáp:
“Ngựa không ngàn dậm dối đuổi gió.” Vị Tăng hỏi: “Thế ấy mây tan nhà trăng?” Sư
đáp: “Đầu rồng đuôi rắn.”—A monk came forward and said: “Far from the ancestral
seat at Shui-Feng, now expounding at Xue-Tou, do you still not know if it’s one
or if it’s two?” Xue-Tou said: “A horse cannot beat the wind for a thousand
miles.” The monk said: “In that case, the clouds disperse and the clear moon is
above the households.” Xue-Tou said: “A dragon-headed, snake-tailed
fellow.”
· Sư thị tịch năm 1058, được vua ban
hiệu “Minh Giác Đại Sư.”—He died in 1058. Upon his death, Xue-T’ou received the
posthumous title “Great Teacher Clear Awakening.”
Trùng Hợp: Coincidence.
Trùng Phùng: To meet again.
Trùng Thực: Ăn côn trùng—To eat as do grubs, moth-eat, etc.
Trùng Trùng Điệp Điệp: Inumerable—Numberless.
Trùng Tu: To rebuild—To restore—To repair—To reconstruct.
Trùng Tu Chùa Chiền: To restore temples.
Trùng Tuyền: Hell.
Trũng: Smasana (skt)—Mồ mả—A tomb—A mound—Cemetery.
Trút: To pour—To dump—To empty out—To unload.
Trút Gánh: To ease oneself of a burden—To empty the burden.
Trút Gánh Lo Âu: To empty the burden of anxiety.
Trút Sạch: To get rid of completely.
Truy:
1) Cái vồ: A hammer.
2) Truy đuổi: To follow after—To
Pursue—To chase.
Truy Cứu: To search out—To investigate.
Truy Dịch Quỷ: Đôi Dịch Quỷ—Phụ Trường Quỷ—Truy Dịch Quỷ là loại quỷ quấy
phá gây trở ngại cho người hành thiền—A demon of the nerves who troubles those
who sit in meditation.
Truy Hoan: To pursue (seek) pleasures.
Truy Nguyên: To trace back to its source.
Truy Niệm: To recall—To remember.
Truy Phúc: Tang lễ tiễn đưa người chết với những nghi thức cầu nguyện
cúng dường phước đức cho người ấy—To pursue the departed with rites for their
happiness.
Truy Tầm: To search for.
Truy Tố: To sue—To prosecute.
Truy Tu: To follow the departed with observances.
Trùy: Cây búa tròn—Round hammer.
Trụy: Rơi xuống, trượt xuống—To fall—To sink—To settle—To slide.
Trụy Giới: Liệng một hạt cải từ cõi trời Đâu Suất cho nó rơi ngay vào
đầu kim trên cõi Diêm Phù Đề, quả là khó khăn và hiếm hoi (dùng hình ảnh nầy để
ví với việc được thân người và gặp Phật quả là thiên nan vạn nan)—To drop a
mustard seed from the Tusita heaven on to the point of a needle on the earth,
most difficult, rare.
Trụy Lạc: Live in vice (debauched—dissolute).
Truyền:
1) Trao truyền: To transmit—To hand
down—To pass on.
2) Truyền dạy: To superintend—To
teach—To tutor.
Truyền Bá: To spread abroad—To disseminate—To diffuse—To propagate.
Truyền Đạo: Giảng dạy giáo thuyết nhà Phật—To preach religion—To
spread the teaching or doctrine, or doctrine.
Truyền Đạt: To communicate.
Truyền Đăng: Pháp có thể phá tan sự mờ tối nên được ví với cây đèn
truyền ánh sáng—The transmission of the Lamp—To transmit the light—To pass on
the lamp of truth—See Truyền Phật Tâm Ấn, and Truyền Tâm.
Truyền Giáo: See Truyền Đạo.
Truyền Giới: Truyền giới trong “Giới Đàn” cho chư Tăng Ni mới vào tu
ngũ giới hay bát quan trai giới —To transmit the commandments, to grant them as
at ordination.
Truyền Huấn: Huấn lệnh của sư phụ—The instructions of a teacher—To
instruct.