Đi Vào Cõi Thiền

Tuesday, July 30, 201300:00(View: 7661)
Đi Vào Cõi Thiền

ĐI VÀO CÕI THIỀN 
Như Hùng

ngoithien_02Thiền không phải điều huyễn luận được sáng tạo từ ý thức, hoặc từ những quái thai biến chứng của tư tưởng bị dồn kín, đè nén trong những tra vấn cùng quẩn. Tất cả những vũ đoán về thiền là một cái gì đều hoàn toàn sai lầm lạc lối, nếu dùng trí thức hoặc ý niệm cố hữu để thẩm định, ắt hẳn lạc xa nghìn trùng. Thiền vốn khước từ tất cả, dù đó là hệ thống tư tưởng vĩ đại, được dàn dựng công phu hoặc dùng kiến thức đa năng soi chiếu vẫn là điều phủ quyết, chối bỏ mãnh liệt nơi thiền. Thiền vượt ra ngoài thong dong trên tất cả mọi lối đi về, dù Thiền có một cái gì quái đản, vô lý, không chứng ngôn bằng ngôn từ suy nghiệm. Nó làm hoảng sợ, run rẫy không ít người bén mãng đến để khám phá về thiền. Nhưng tất cả tưởng chừng vô lý đó, nơi đâu không có bóng dáng của ý thức xen vào lũng đoạn? Và biết đâu những gì vô lý lại có lý? Trong thiền thuật ngữ nầy tràn ngập như một bí mật muôn đời còn phong kín.

Con đường khai dẫn thoát ly ra ngoài cạm bẫy thông nghiệm của ý thức, là vứt đi ý niệm tóm thâu vào khuôn khổ, hoặc xác quyết tùy theo tầm nhìn. Nếu không làm được điều này, thì muôn kiếp chẳng bao giờ có thể cảm nhận được Thiền. Những thái độ bảo thủ, năng động sẽ không bắt gặp sự tỉnh lặng, toàn triệt mà Thiền nhắm tới, là đạt sự vắng bặt ở nội tâm. Những đối lực và quan điểm sai biệt đã dàn trận liên tiếp, gây thống khổ đầy dẫy trong nhân loại, hễ còn vọng động thì còn phải bất an với chính những phá vỡ, đạp đổ do nó tác tạo. Lịch sử của triết học, của những hệ thống tư duy, ta đã thấy trong hiện tại là một chứng minh cụ thể. Nếu không phóng mình ra khỏi để quật tung, đánh thức nội tại, thì ta không bao giờ thoát ra ngoài lớp vỏ khô cứng, được cất giữ trong viện bảo tàng và ta sẽ không sống bằng điều gì ngoài thế giới thống khổ.

Thiền vốn là điều tươi mát liên tục tiềm ẩn trong mỗi chúng ta. Nếu biết cách khơi dậy, ta sẽ thong dong tự tại trong mọi suy tư hành hoạt, đó là bản thể tịch nhiên, không ồn ào phù phiếm, náo động, bất an, của những đuổi bắt níu kéo. Khi nào chưa quân bình hai đối cực, động và tịnh, hạnh phúc và khổ đau, thì muôn kiếp ta phải chôn mình trong sự phủ vây. Bởi lẽ nó hình thành do cái kia xô đẩy, xúi dục, chắc chắn một điều cả hai đều có mặt ngay trong từng biến hiện, hạnh phúc không ngoài khổ đau mà có, ở đấy chỉ cần gạt phăng những định kiến lầm tưởng, nhích mạnh tay then chốt cuối cùng bổng nhiên hiển lộ tràn đầy.

Con người luôn bám víu vô minh, vào những sai sử của ý thức, đây là phần năng động, tầm hoạt dụng và cơ cấu phiêu tưởng của nó, đã liên tục lừa dối đẩy ta rơi vào thống khổ, trôi lăn trong triền phược. Chưa đủ thỉnh thoảng trong ta vùng dậy một năng lực nào khác, thì nó lại tìm cách đánh lừa ta hơn. Vì thế muốn tựu thành công phu quật khai nội tại, trước hết ta phải trục xuất tên giặc ấy ra ngoài, dĩ nhiên sự trục xuất nầy không có nghĩa ta đưa nó trở thành tiêu điểm để chết sống mà hãy để nó tự do, ta chỉ việc bám theo bằng sự minh mẫn tỉnh thức là đủ. Bởi lẽ ta quyết không tạo ra ranh giới, rồi đưa giáo điều làm vũ lực tống khứ nó vào một chỗ, chắc chắn ta không làm được. Nếu vậy vô tình ta đã nhốt nó vào, chứ chưa có nghĩa chế phục, khi có cơ hội nó sẽ thoát ra và lúc ấy hậu quả không thể lường được.

Thiền vốn cởi tung ta thoát ra ngoài kinh viện, giáo điều, bảo thủ, vốn đã chôn ta chết ngộp trong ấy, hể đụng tới phải trả giá khủng khiếp, bằng cả cuộc đời. Điều này hoàn toàn vô nghĩa, với Thiền không ai có thể mặc cả, hoặc dùng bức màn trân quý tôn thờ, mà tất cả đều duyệt xét qua cửa ngõ của tâm, vén lên hay sụp xuống đều do ta quyết định, không ai có thể đưa ta xuống hoặc nâng ta lên, chỉ có chính ta chủ nhân của sinh tửniết bàn, hạnh phúc và khổ đau.

Những tôn thờ phi lý ta hay bắt gặp, trong sự khủng hoảng tâm linh, hoặc nương vào uy quyền của kẻ khác để đè nén chế ngự, đây là việc làm vô ích. Bởi lẽ không ai có đủ thẩm quyền tác tạo thiên đường hoặc địa ngục, khi trong ta đầy dẫy triền phược, ngang trái. Không có sự cứu rỗi nào đưa ta thoát ra ngoài, nếu không khơi dậy con đường dấn thân, kham nhẫn, chịu trách nhiệm với chính ta. Ta không thể đổ lỗi cho bất cứ ai và cũng chẳng có ai gánh chịu cái lỗi mà ta đã làm, trừ khi ta tạm mượn giáo điều để ru ngủ mặc cảm tội lỗi.

Trong sự bất an thường trực của đời sống, sự khổ đau, sợ hãi đang đè nặng, trở thành hơi thở phủ vây trong từng suy nghĩ, cảm xúc và mọi hành hoạt trong chúng ta. Đâu đâu cũng tràn ngập những tiếng thở dài, rên rĩ, nhức nhối, hoặc dùng hình thức giả tạo nào đó, cố quên trong những cuộc mua vui, chính điều này tố giác sự có mặt thường trực của khổ đau. Thiền giải quyết được gì trong sự khủng hoảng, bế tắc ấy?

Điều tuyệt diệu nhất mà chân lý Thiền đã soi sáng, muốn phá vỡ khổ đau ta phải đối diện thường nghiệm trong từng phút giây, không nao núng sợ hãi, trốn chạy, dùng tất cả hùng lực đào sâu, đục khoét trong từng biến động, lật trái bộ mặt đích thực mà nó đã phủ kín, phong tỏa bằng hàng rào dày đặc của vô minh. Chính từ sự đối diện đó, ta mới có được năng lực, sống trọn vẹn vào những biến hiện và chuyển hoá thành chất liệu nuôi dưỡng thân tuệ mạng, và chỉ có con đường hành động tích cực này, mới giúp ta khám phá ra thực thể từ những xáo trộn trong đời sống. Sự khủng hoảng, nổi loạn của ý thức chuyển dịch theo từng phút giây, nó đã vén lên bức màn sự thật qua cánh cửa triền miên, thống hận, những kinh hoàng, than oán ấy giúp được gì cho chúng ta? Phải chăng đó là nổi khổ, khi không còn cách nào đè nén nó mới tuôn ra ngoài và đó, hậu quả tất nhiên của sự phong tỏa, kiềm hãm. Làm sao ta có thể an nhiên đón nhận nó trong sự cùng quẩn của tâm ý? Có phải bằng cách, khơi dậy tất cả những biến chứng chôn kín ở trong, bằng sự đập phá, nổi loạn, thê lương và tuyệt cùng? Để rồi đưa ra chiếu rọi bởi ánh sáng linh hiện của Thiền, soi thẳng vào tận cùng trạng huống, đập vỡ mọi so đo, toan tính, từ đó bùng lên thứ khác đó là ngộ. Khi điều này vụt khởi như tia chớp loé sáng, đẩy lùi bóng đêm, càn quét những phạm trù biến chứng đang đè nặng trong ta, bổng như tất cả đều vô nghĩa, do vì hướng ngoại, vọng khởi tạo nên. Con người khi nào chấm dứt bất an, là lúc phá vỡ giai tầng kiến trúc của ý thức, ngôn ngữ, quan niệm, những điều đó đã lôi kéo đưa ta rơi vào ảo tưởngchết chìm trong quan cảm, nên muôn kiếp phải hãi hùng, quanh quẩn trong vòng liên kết tử sinh.

Khi nào ánh sáng của Thiền chưa chiếu rọi, thì lúc đó ta vẫn còn lang thang, đong đầy hành trang mộng tưởng phiền lụy. Con người sống là kẻ ấy không sống trong ảo ảnh của qúa khứ, chết chìm trong hiện tại, mờ mịt trong tương lai. Tất cả những suy tư, đều phải tư duy cho một điều, khi nào đạt được hạnh phúc thật sự là lúc uống cạn tất cả những đau khổ bằng định lực sung sướng an lạc.

Thiền khơi dậy con mắt huệ nhãn, đó là vùng khuất lấp đằng sau ý thức năng động, mà ta liên tục xử dụng trong từng sát na. Chỉ có lúc trực giác, tóm thâu tất cả trong sự cùng tuyệt kiến chiếu, chiêm nghiệm, suy tư tra vấn chính mình, ta mới đủ năng lực quật tung ranh giới giữa ta với cảnh, trong và ngoài, năng động và tỉnh lặng, bằng sự quán chiếu xuyên qua ánh sáng tuyệt luân của " kiến chiếu tự tánh" soi thấu, lúc ấy ta mới trông thấy đâu là sự thật của giác ngộ.

Giác ngộ không có nghĩa nào cả, duy nhất chỉ có một nghĩa là trông thấy vẹn toàn sự thể, bằng sự sống và thở một cách linh hiện trong tỉnh thức, ngoài điều này ra tất cả chỉ đóng khung giác ngộ trong tháp ngà của thế giới tỷ lượng, luận bàn huyễn niệm, đắm mình trong sự dong ruỗi, và đó, bức tường ngăn cách để tạo nên giác ngộ. Ngộ không phải chỗ cùng tuyệt của lịch trình ý thức, xuyên qua suy tư, bám theo từng ý tưởng, ngộ phủ quyết điều này, bởi lẽ còn bước qua tình tự, tức còn có tiêu điểm, năng sở, chủ khách, như thế sẽ gây trở ngại trong việc thấy tánh. Chặng đường này không có sự quyết đoán, ức hiếp của ý thức sai biệt. Ta phải vận dụng tất cả mọi cơ năng, đập nát và húc đầu vào đó, bằng khí lực bình sanh, bằng sự đào khoét liên tục, không ngơi nghỉ để giác ngộ vụt khởi và giác ngộ sẽ vụt khởi, khi tất cả đều phải đỗ ào ngã qụy, dù đó là một niệm vi tế. Thiền là sự chứng nghiệm từ nội tâm, chứ không phải kiến thức rút ra từ kinh điển giáo điều, hoặc những gì tựu nên từ ý thức sai biệt. Ta phải tỉnh thức minh mẫn trong việc trông thấy cửa ngõ cụ thể hai lối, trí thức năng độngtrí tuệ của tâm linh chứng ngộ. Trí thức vốn là những gặt hái tra vấn từ kinh viện hoặc kinh nghiệm thuộc phạm vi sử học, tức thuộc về quá khứ, nó hoàn toàn không giúp đựơc gì cho chặng đường thực chứng nội tâm, ngay trong sát na hiện tại. Bởi lẽ hầu như từ đó ta tạm mượn sở học, kinh nghiệm tâm linh của kẻ khác để kích bác, khống chế, cuối cùng ta chỉ quanh quẩn trong kho tàng luận thuyết, rơi vào thành trì định kiến của ý thức. Làm sao ta có thể thoát ra ngoài lớp vỏ khô cứng, tẩm liệm, trá hình bằng một thứ siêu ngôn ngữ, với những biến chứng khởi đi từ tâm ý, nhưng hoàn toàn không do trí tuệ mang lại?

Trí tuệ vốn không nằm ở đấy, nó phủ trùm lên một khi trông thấy vẹn toàn những linh hiện từ vô thủy đến vô chung, từ khởi đầu đến chung cuộc, từng diễn biến nơi tâm thức. Từ đó vén lên bức màn sự thật, của thể tánh tuyệt diệu đang nằm sẵn ở trong ta, muốn có trí tuệ ta phải nổ lực dụng công, chiêm nghiệm để giác ngộ có cơ may vụt khởi.

Với thiền, tất cả những tựu thành xuyên qua tâm ý, dù giả lập ở bất cứ nơi đâu, không khéo sẽ sai lầm lạc lối. Khi nào sự hưng động kèm theo tỉnh thức toàn triệt, thì sự quật khởi của nó mới đủ công lực thay đổi khuôn mặt, theo nghĩa biến chất nhưng không gây chấn động nào, trừ khi sự chấn động ấy để bùng lên giác ngộ. Nếu dùng luận lý học, ngôn ngữ học để thẩm định trên bình diện nhận thức thuộc thế giới tỷ luợng, thì tất cả đều đóng khung và trở thành sản phẩm của ý thức. Thiền vốn lắc đầu, khước từ những gì còn đo lường, tức còn rơi vào sở tri chướng. Dĩ nhiên chủ trương của thiền không đối kháng, chống lại, vì lẽ thiền không phải là đối tượng được dựng lên từ quan niệm. Thiền nhắm đến giác ngộ, cởi tung những triền phược, khúc mắc, nhốt kín con người trong đó. Khi chống lại điều gì, tức còn đứng trên căn bản chấp trước, đối đãi, nhị nguyên, với thiền không có hai mà là một, và một ấy cũng biến mất, đây là lý lẽ của không lý lẽ, ngộ một cách toàn triệt về mọi thể tính.

Chân lý của thiền sẽ không bao giờ được tìm thấy trong kho tàng lưu trữ của ý thức, nếu dùng những suy tư để trang sức, phết tô cho ý niệm ngôn từ và càng không có nghĩa mò tìm trong kinh viện, hoặc đắm mình trong suy diễn, vốn không xuất phát từ sự thẩm định về những nguyên lý, cấu tạo thành sự hưng khởi. Truy tìm căn nguyên giá tri, tối hậu, chắc hẳn phải vượt lên những ngăn ngại, bao phủ bởi quan niệm, đồng nghĩa với bóng dáng giả hợp nào đó của ý thức. Sự đóng khung chôn dấu đó, dù được tựu thành, nhưng chưa duyệt qua quá trình thâm chứng, bằng cả sức mạnh tư duy, xoáy thẳng vào trọng tâm của yếu tính, không khéo trở nên phù phiếm vô nghĩa, những gì được cấu trúc từ những mô thức thông thường, suy gẫm để tìm thấy sự thâm kín đàng sau vẫn chưa đủ, nếu đó là điều tò mò của ý thức.

Trên căn bản đây là mấu ngoặc để thấy sự phủ mờ của lớp vỏ khô cứng từ trước, nhưng ở đối tính khác, nó hoàn toàn phản lại với chính nó, cũng có thể là điều không tưởng huyền hoặc, bởi lẽ chưa có một kiểm chứng tối thiểu nào, để xác quyết giá trị thật hữu, trong mọi lý lẽ chuyển dịch, nếu không dùng đến ý niệm. Dù đó, nguyên tắc tối cần mang ra mổ xẻ giải quyết, những yếu tính nào cấu thành từ ý lực vọng động và nếu không phải sự hưng khởi xuất phát từ vô phân nguyên vị, thì mấu chốt của vấn đề sẽ trở nên căng thẳng.

Quá trình tìm ra yếu tính tàng chứa ở mỗi chủng nghiệp, dĩ nhiên phải đi qua chặng đường góp nhặt nào đó của ý thức, cho dù phản lại hoặc đồng lõa nó vẫn dung chứa, tuy nhiên đây không phải vấn đề cần đặt lại, bởi lẽ những tác động, hình thành vốn ngầm chứa kết quả trong đó, tự nó đã tổng hợp, dệt nên theo từng hướng đi của ý thức. Điều quan yếu sự chuyển động, xê dịch phải ăn khớp với sự biến hóa ở nhịp độ chuyển tiếp, chân lý không phải là điều bất di bất dịch, nhưng đó là xác quyết trung thực về nguyên lý của những hiện tượng bất di bất dịch. Vì thế, thiền khơi dậy giá trị chân thật tuyệt hảocon người vốn đánh mất. Nó là toàn thể tính, phật tính, chân như, do vì những vọng niệm ngăn ngại, nên ta đẩy nó vào tận cùng, lấp kín bằng cửa ngõ của ý thức. Muốn vén mở chắc hẳn ta không nương vào thần quyền cứu rỗi, của bất cứ đấng toàn năng nào, bởi lẽ những đấng ấy bất lực trước những điều do ta tác tạo, ta đã phong kín cửa ngõ bằng lối nào, thì cũng chính ta mới có đủ công năng xoay chuyển theo lối ấy.

Dù vậy, vay mượn ngôn từ để diễn tả về thiền, là sự lạm dụng, gượng ép, ức hiếp ngữ ngôn, nhưng "không nói cũng không xong" như một câu nói bất hủ, chìm khuất trong vô cùng của Thiên Sư Chân Nguyên ở thế kỷ thứ 17, chỉ còn lại nét chấm phá lững lơ, như chính cái lơ lững nào đó trong Thiền.

I. NHỮNG KHUÔN MẶT MỞ ĐẦU NỀN THIỀN HỌC VIỆT NAM

1, Khương Tăng Hội

 Khởi nguyên của thiền học Việt Nam bắt nguồn từ Khương Tăng Hội vào đầu thế kỷ thứ 3. Ngài đã mang nguồn suối thiền tâm linh vị điệu che mát cả bầu trời đau khổ mà lúc bấy giờ dân tộc Việt đang gánh chịu ách đô hộ, xâm chiếm, thống trị của đế quốc Trung Hoa. Mấy ngàn năm trôi qua ánh sáng đó vẫn soi đường chỉ lối theo từng bước đi của dân tộc, vổ về an ủi làm chổ dựa mong cao tột, và tạo nên một trào lưu phát triển lớn mạnh của Thiền Tông sau này.

Khương Tăng Hội gốc người Khương Cư, cha mẹ qua Giao Chỉ, buôn bán, ông sinh ra và lớn lên ở đây. Thông hiểu am tường Phạn Ngữ và Hoa Ngữ, với kiến thức uyên thâm bác học, thông minh xuất chúng “hiểu rõ ba tạng kinh điển, đọc khắp cả sáu Kinh Nho Lão, những sách về thiên văn và đồ vĩ phần lớn ông đều thông thạo” , (trong Cao Tăng Truyện). Ông đã từng chú sớ, dịch thuật, trước tác một số tác phẩm sau đó trở thành những tác phẩm rất quan trọng trong hệ thống Thiền Học Việt Nam sau này.

Qua sự chú sớ và đề tựa trong kinh An Ban Thủ Ý do An Thể Cao dịch, khuynh hướng của Khương Tăng HộiĐại Thừa hoá Thiền Tông, mang màu sắc của Thiền Đại Thừa. Như vậy sự có mặt của Thiền ở Việt NamThiền Đại Thừa. Khương Tăng Hội viết “An Ban tức là Đại Thừa của chư Phật để tế độ cho chúng sanh đang phiêu trần sanh tử”

Sự khác biệt giữa Thiền đại thừatiểu thừathiền đại thừa quan niệm diệu tâm chân như là ban thể vi diệu của giác ngộ, và bản thế ấy không đơn thuần đắm mình trong suy tư riêng biệt mới đạt được, muốn đạt là phải lăn mình vào cuộc đời, đối diện với tha nhân với chúng sanh, bằng tất cả hùng lực và ý lực, dũng mãnh quật khởi cởi tung, trong sự rộng mở của tâm ý. Còn tiểu thừa xa lánh cuộc đời, ưa sống nơi núi rừng tịch lặng, nổ lực khai mở giác ngộ nơi tự tâm, an trú trong niết bàn chứng đắc.

Theo sách Tăng Truyện: Khương Tăng Hội đến Kiến Nghiệp kinh đô của nước Ngô vào năm 255, ông mất năm 280. Như vậy sau khi tu họcchứng ngộ ở Giao Châu, ông qua truyền bá Thiền Tông ở Trung Hoa khoảng 25 năm. Ông là vị sa môn đầu tiên xuất hiện ở Đông Ngô, dựng một ngôi chùa mang tên Kiến Sơ. Uy tíntiếng tăm của ông đã khiến Ngô Vương Tôn Quyền tin phục và thọ trì ngũ giới.

A,Tư tưởng Thiền của Khương Tăng Hội.

Xuyên qua bài tựa trong kinh An Ban Thủ Ý ta cũng đủ thấy khuynh hướng đại thừa thiền ở trong ông. Tư tưởng ông chịu ảnh hưởng của Bát NhãDuy Thức. Ông viết “ Tâm không hình sắc, không có âm thanh, không co tiền hậu, tâm thâm sâu vị tế, không tác tơ hình tưởng cho nên Phạm Thiên, Đế Thích và các tiên, thánh khác cũng không thể thấy được, kẻ phàm tục không thể thấy được sự hoá sinh từ hình thức này, sang hình thức khác của các chúng tử, khi thì minh hiển khi thì trầm mặc trong tâm ”

Chính nhờ sự ảnh ảnh đó mà tư tưởng của ông phóng khoáng thoát ra ngoài trói buộc, xuyên qua con đường của Không trong Bát Nhãtổng tướng của Duy Thức. Bằng quan niệm ông tìm ra một định nghĩa về Tâm rất cụ thể khiến người đọc có thể vén mở điệu dụng của Tâm qua cửa ngõ An Ban ông nói: “Người hành giả đã chứng đắc được phép An Ban thì tâm bừng sáng, dùng cái sáng ấy để quan chiếu thì không gì tối tăm mà không thấy ”.

Dù rằng chưa một quan niệm nào có thể diễn tả trọn vẹn về Tâm, bởi lẽ nó bao trùm lên trên không lưu lại dấu vết, nếu y vào quan niệm để đóng khung, hoá ra ta đã dùng sự suy luận thông thường nhốt cái suy luận ấy chứ không phải Tâm. Đó là một giả thể được dựng lên từ hình dung suy tưởng lôi kéo, khiến ý thức của ta không còn chỗ đứng mới bám víu vào khái niệm, để hình thành. Những gì còn rơi vào trạng thái này, muôn kiếp ta vẫn phải trôi lăn trong vòng tối tăm lẩn quẩn, giữa những cái hữu tưởngvô tưởng, một sự lầm lẫn chỉ khi nào bặt hết mọi tương quan đối đãi ta mới tìm thấy được cái ban sơ tuyệt diệu của không cùng vô tận.

Một sự đi tìm và kẻ dày công sống trong đó, nếu làm một cuộc thẩm định không qua cửa ngõ luận thuyết, thì điều nầy không phải vô nghĩa, nhất là khi trông thấy trọn vẹn, minh chứng bằng quá trình truy tìm thật thể. Quá trình đó, nếu bùng ra tia sángtia sáng đó có thể không sai khác, nếu ta biết cách thâu ngắn lộ trình, dung hoà chặng đường đi tới liên tục không gián đoạn. Giá trị thật hữu của vấn đề trên đều cân bằng ngang ngữa, nó chỉ khác kẻ vén mở bằng sự tức thì, cũng là lúc trông thấy bộ mặt thật hiện hữu. Tâm vốn không có bắt đầu, nếu có thì cái Tâm ấy còn sanh diệt, trong khi bản thể của Tâm vốn bặt hết tướng trạng, suy luận, nắm bắt. Một sự vắng bặt không những không có trong ngôn từ mà ngay cả ý niệm thành lập cũng không, nó liên tục xuất hiện, nhưng ở tư thế của kẻ biết lúc nào mới xuất hiện để quyết đoán một cái gì và cái đó không thể có mặt ở trong tâm.

Tất cả mọi khởi động móng ý đều có bóng dáng tiềm ẩn của nó, ở đâu và bất cứ nơi nào khả năng quyền biến của tâm cũng đều ngự trị, nhưng bảo đó là tâm, ắt xa lạc nghìn trùng. Dùng cái năng động để xác quyết là việc làm vô nghĩa, trừ khi động và tịnh không còn ranh giới sai biệt, đòi hỏi trong ta, sự cam go, nổ lực liên tục trong việc hoán chuyểngiải phóng mọi ngăn ngại.

Trong Lục Độ tập kinh viết về Thiền, ông đề cập đến bốn phương pháp của Thiền như sau:

* Phương pháp thực hành của nhất Thiền: là khử bỏ tham ái, ngủ yên tà sự, như khi mắt thấy sắc đẹp tâm sinh dâm cuồng, khử bỏ những thanh hương vị và xúc thường gây tai hại. Người có chí hành đạo ắt phải xa lánh chúng. Lại còn diệt trừ năm sự ngăn che: sự tham dục, sự giận dữ, sự mê ngũ, sự dâm lạc, và sự hối hận nghi ngờ. Đối với những vấn đề có đạo hay không có đạo, có Phật hay không có Phật, có kinh hay không có kinh, tâm ý đạt đến hiểu biết, trở nên thanh tịnh không dơ bẩn, tâm sáng thấy được chân lý, đạt tới trình độ không gì là không biết, các loại trời rồng và quỷ mị không thể nào đánh lừa được. Đạt được nhất Thiền cũng như người có mười loại oán thù đã thoát ly thân thuộc một mình ở trên núi chẳng ai hay biết, không còn sợ ai, vì xa lìa được tình dụcnội tâm vắng lặng.

* Phương pháp nhị Thiền: như người đã thoát ly oán thù tìm tới chốn thâm sơn để cư trú nhưng còn sợ oán thù có thể tìm tới, kẻ hành giả tuy đã xa mười thứ dục tình nhưng còn sợ những thứ này tìm theo để lung lạc chí hành đạo của mình. Vì vậy, kẻ hành giả không nên vui cái vui đã dùng Thiện để diệt ác, thiện tiến thì ác lui, bởi cái vui nầy là mầm của lo sợ. Phải diệt trừ quan niệm thiện ác chống nhau, do đó ý niệm vui và sợ đều tiêu diệt, mười điều ác tuyệt dứt, không còn ngoại duyên nào có thể tới xâm nhập tâm mình. Cũng như khi ở trên đỉnh núi cao thì không còn dòng nước nào có thể làm cho mình bị ngập lụt, cũng không sợ mưa và rồng làm cho chìm đắm. Chính là từ đỉnh núi đó mà các dòng suối lưu xuất, từ sự hành đạo này mà các điều thiện do tâm xuất hiện và các điều ác không còn do đâu phát sinh được nữa.

* Phương pháp tam Thiền: giữ gìn tâm ý một cáh kiên cố, cả thiện và ác cũng đều không thâm nhập được, tâm an ổn như núi Tu Di, từ bên trong thiện cũng không phát xuất mà từ bên ngoài thiện áctịch diệt cũng không xâm nhập được. Tâm như hoa sen, rể hoa trong bùn, khi hoa chưa mọc thì còn bị lấp dưới nước. Người thực hành tam thiền thanh tịnh như hoa.

* Phương pháp tứ Thiền: tới đây cả thiện và ác đều bỏ, tâm không nhớ thiện cũng không nhớ ác, tâm yên và sáng như ngọc lưu ly, như nàng công chúa tự tắm gội và lấy hương thơm ướp mình, mặc xiêm y mới. Bồ tát khi đã đạt được tứ thiền thì các loại tà cấu không còn làm hư tệ tâm mình. Đạt được tứ thiền thì muốn làm gì cũng đuợc, phi hành nhẹ nhàng trên không, đi dưới nước, phân tâm tán thể, biến hoá vạn cách, ra vào không ngăn cách, tồn vong tự do, có cả mặt trời mặt trăng, động tới cả thiên địa, đắc nhất thiết trí

Qua bốn trình tự của Thiền, Khương Tăng Hội đã mở tung cánh cửa hiển bày nên cái nhất ý, tập trung năng lực để hoàn thành sự nghiệp giác ngộ, ở đây không còn bóng dáng chấp ngã chấp pháp, lôi kéo những vướng bận nơi trần cảnh, gây nên những đảo lộn biến động ở bên trong. Nếu để nguyên vị không xê dịch, bóp méo, với sự quán chiếu bền bỉ, có lẽ biết đâu đây là điều tuyệt diệu? Những gì còn níu kéo, cái ấy được đánh động tra vấn bởi hai ranh giới hoặc thuận, nghịch, tốt xấu, thiện, ác, như sự phán đoán tạm gởi nào đó ở trong ta. Ranh giới đó vô cùng phức tạp, chưa một ai trong chúng ta có thể trông thấy trọn vẹn được những chuyển động mà không rơi vào lầm lẩn, có những điều thoạt nhiên ta tưởng là thiện, nhưng nếu người xử dụng khéo léo, nguỵ trang, lôi kéo che đậyru ngủ ta ở những dạng khác, ở một cái nhìn khác, sáng suốt và tinh tưuờng hơn, thực tế ta bị lường gạt một cách trắng trợn. Đấy có thể thiện ở bên ngoài chứ không thiện trong bản chất. thiện trong hoàn cảnh chứ không phải thiện ở trong tâm ý. Nếu ta dùng ý thức vọng động để nhìn ngắm ta sẽ không bao giờ cảm nhận đúng mức đâu là ranh giới đích thực của vấn đề.

Trong xã hội thông thường kẻ giết người phải bị luật pháp trừng trị thậm chí có khi bị từ hình. Nhưng có những kẻ giết hàng trăm ngàn người nhưng nhờ ngụy trang, núp bóng dưới mỹ từ, chiêu bài, ý thức hệ nào đó. Nghiễm nhiên họ trở thành người hùng của chế độ, bậc vĩ nhân của dân tộc. Đâu là nguyên uỷ chính xác của vấn đề nầy?

Về khía cạnh giác ngộ “không nên vui cái vui đã dùng thiện để diệt ác” xác quyết kinh khiếp nầy phủ trùm lên quan niệm cố hữu nơi chúng ta. Giác ngộ không phải bãi chiến trường tranh chấp, tàn sát tiêu diệt lẫn nhau, nếu vậy sẽ gây nên những khủng hoảng, đổ vỡ, hoài công, không có cơ may hàn gắng lại được, không khéo kẻ chiến thắng trở thành chiến bại với chính kết quả giằng co đó. Thông thường những tranh giành đều đưa đến nguy hại, còn mất trong hơn thua, dù điều đó chỉ xảy ra ở trong tâm ý. Giác ngộ không phải sống trong tình trạng lo sợ, tướt đoạt, cho dù điều cuối cùng còn lại là thiện. Khi nào ý niệm đối nghịch thật sự chấm dứt, ta mới thảnh thơi, trên lối đi về tràn ngập an lạc, lúc ấy điều ác không cần phải trốn chạy, khiến ta phóng mình rượt theo tiêu diệt, mà nó đã được chuyển hóa trở thành chất liệu vô cùng hữu ích, bởi lẽ không còn cơ hội xâm lấn gây tác hại, đã đến lúc cái tâm dung chứa tất cả, nhưng không làm hề hấn dù đó là thiện hoặc ác.

Chúng ta có quyền phân biệt đâu là ranh giới, nhưng không có nghĩa chết chìm trong sự phân biệt đó. Đúng ra ta dùng áng sáng linh hiển trong tâm, sáng soi từng bước đi tới, thoát khỏi tử sinh qua những lối khác, ít ra ý thức của ta không còn bị sai sử, ngụy biện lung đoạn do vô minh gây rối nữa. Dù rằng ta chỉ mới đoạn trừ được phần nào, nhưng không có nghĩa ta hoàn toàn tiêu diệt. Nếu có cuộc chiến tranh trong tâm ý, kẻ chết không phải ác, không phải thiện, mà chính ta chủ nhân của hai vấn đề nầy.

Những tác phẩm liên quan đến ông gồm có:

An Ban Thủ ý Kinh do An thế Cao dịch, Tăng hội và Trần Tuệ chú sớ, Khương Tăng Hội đề tựa.

Pháp Cảnh Kinh, An Huyền dịch, Tăng Hội chú sớ và đề tựa.

- Đạo Thọ Kinh, An Huyền dịch, Tăng Hội chú sớ và đề tựa.

- Lục Đô Yếu Mục, Tăng Hội biên tập (nay không còn)

Nê Hoàn Phẩm Bội, Tăng Hội biện tập (nay không còn)

Đạo hạnh Bát Nhã, của Ngô Phàm, Tăng Hội dịch (nay không còn)

Lục Độ Thập Kinh, Tăng Hội biên tập.

2, Chi Cương Lương Tiệp

Đồng thời với Khương Tăng Hội còn có Chí Cương Lương Tiệp người nước Nhục Chi, ông có mặt ở Việt Nam vào thế kỷ thứ 3. Ông đã dịch kinh Pháp Hoa Tam Muội ở Giao Châu vào khoảng 255 hoặc 256. Ông cũng thuộc khuynh hướng thiền Đại Thừa, chữ Tam Muội còn có nghĩa là Định, ngay từ tựa đề của kinh cũng đủ chứng tỏ khuynh hướng thiền nơi ông. Dưới đây một đoạn trong kinh.

“ Trong pháp thân có tất cả các pháp, tất cả đều huyến hoá biến hiện khi nổi khi chìm. Các phiền não như dâm, nộ và si, thực ra đều vô hình vô thể, cũng như các bọt bèo hiện trên mặt nước nên quan sát thân ta và mọi hiện tượng như an trú nơi tịch diệt vô hình. Chúng được thành lập do sự hội hợp và ly tán nếu phân biệt kỷ lưởng, thì sẽ thấy rõ bản tính của chúng là không ” .

Không phải chỉ có Khương Tăng Hội mới mở tung nền Thiền học đại thừa lúc bấy giờ mà Chi Cương Lương Tiệp cũng đã đưa Thiền đến tuyệt đỉnh. “ Trong pháp thân có tất cả pháp ”. Vậy ngoài pháp thân còn có pháp nào để ta dong mỗi, nắm bắt? Có phải “ tất cả đều huyền hoá biến hiện khi nỗi khi chìm ” .

3, Ma Ha Kỳ Vực

Ma Ha Kỳ Vực người Tây Trúc, thuộc khuynh hướng Mật Giáo, ông thường làm nhiều phép lạ không ai có thể đoán trước được. Sách Cao Tăng Truyện chép: “Ma Ha Kỳ Vực, đã vân du khắp các xứ văn minh và mọi rợ, không ở yên một nơi nào. Ngài có những hành động mà các đệ tử và tuỳ tùng không biết trước được. Ngài đi từ nước Tây Trúc đến nước Phù Nam , rồi dọc theo bờ biển, ngài đến Giao Châu về Quảng Châu. Nơi nào đi qua ngài đều làm nhiều phép lạ khiến dân chúng rất khâm phục. Khi đến sông Tương Dương, người lái đò thấy ngài rách rưới nên không cho ngài qua sông. Nhưng khi thuyền tới bến bên kia người ta thấy ngài đứng đó rồi. Vào cuối triều Huệ Đế nhà Tần ngài đến Lạc Dương sau này khi có nhiều biến loạn ngài bèn trở về Tây Trúc ” .

4, Đạt Ma Đề Bà

Vào thế kỷ thứ 5, Giao Châu lại tiếp đón một nhân vật từ Ấn Độ đến đó là Đạt Ma Đề Bà, tư tưởng thiền của ông cao vút, siêu việt không thua gì Bồ Đề Đạt Ma. Nhưng Bồ Đề Đạt Ma ở Trung Hoa rất nổi tiếng, trái lại Đạt Ma Đề Bà ít được sử liệu đề cập đến. Có lẽ vì sách vở tư liệu lúc bấy giờ bị loạn lạc binh lửa nên không bảo tồn được. Vả lại cũng có thể Thiền Học Việt Nam lúc bấy giờ chủ trương đến việc thực hành, ít quan tâm đến việc ghi chép tư liệu để truyền lại.

5, Thích Huệ Thắng

Đạt Ma Đề Bà trong lúc hành đạo tại Giáo Chỉ, có một người học trò tên là Huệ Thắng một thiền sư Việt Nam tiếng tăm lẫy lừng vang dội, ông đã từng mang thiền học tung hoành ngang dọc ở Trung Quốc. Sách Cao Tăng truyện viết: “ Thích Huệ Thắng là người Giao Chỉ, ở chùa núi Tiên Châu, đã từng vẫn du khắp các miền sông núi, thung dung giải phóng, đọc kinh Pháp Hoa mỗi ngày tới một lần, đã từng theo vị thiền sự ngoại quốc là Đạt Ma Đề Bà để học phương pháp quán hạnh về thiền , mỗi khi nhập định thì tới ngày mai mới xuất. Lưu TíchBành Thành khi làm thái thú ở Nam Hải có nghe nói đến đạo phong của ngài, lúc về nước đã đến thỉnh ngài cùng đi. Huệ Thắng thiền sư nhận lời. Khi về tới Bành Thành cư trú tại chùa U Thê để chỉ bày chân thể mầu nhiệm. Ngài thường làm ra vẻ như người ngu ngốc, nhưng những kẻ đã ở lâu với ngài thì rất kính trọng, nhất là những học giả về thiền thì rất khâm phục. Năm Vĩnh Minh thứ 5 ngài dời về ở Diên Hiền Tịnh Xá tại núi Khê Chung. Từ trẻ tới già ngài vẫn giữ một tâm trinh chánh, ngài mất trong khoảng niên hiệu Thiền Giám, tuổi vừa bảy mươi ”.

Qua những dữ kiện trên, chúng ta có thể xác quyết rằng, thiền sư Huệ Thắng là nhân vật phi thường độc đáo, từng mời đến thuyết giáng ở Bành Thành, một trung tâm Phật Giáo lớn vào bậc nhất ở Trung Hoa lúc bấy giờ, đồng thời những học giả lỗi lạc về thiền của Trung Hoa rất khâm phục, kính nễ. Như thế Huệ Thắng có đủ thẩm quyền để cho Trung Hoa thấy được trình độ Thiền học Việt Nam có những điểm vượt trội, cao siêu. Như vậy trước khi Bồ Đề Đạt Ma có mặt ở Trung Hoa, ít nhất cũng đã có hai thiền sư Việt Nam đến truyền bá Thiền Tông tại đây.

Chúng ta có quyền hãnh diện trong lịch sử đã có những nhân vật như vậy, xét về bối cảnh lúc bấy giờ, dân tôc ta sống trong vòng kềm kẹp nô lệ ngoại bang, Trung Hoa ra sức đồng hoá, dân ta không những không bị đồng hoá mà Đạo Phật Việt Namđặc biệt Thiền Tông đã sản sinh un đúc những con người ưu tú, độc dị, phi thường. Đó là niềm hãnh diện cho chúng ta, trong bối cảnh đọa đầy, điêu linh, thống khổ đó.

Sự có mặt của những Thiền Sư Việt Nam trên đất Trung Hoa lúc bấy giờ, còn là một tuyên cáo quan yếu đập phá thành trì tư tưởng của đối phương bằng con đường hành động tích cực của mình trong việc truyền bá sự an lạcnội tâm, trong khi chính họ lại nuôi mộng xâm lăng, đày đoạ dân tộc khác với chủ trương khai hoá dân tộc “mọi rợ” và cũng để cho Trung Hoa thấy rằng dân tộc Việt Nam không dễ dàng bị đồng hoá.

Dân tộc Việt Nam vốn là dân tộc oai hùng, bất khuất mảnh đất Việt Nam là nơi tiếp thu những trào lưu văn hoá đặc biệt của Ấn Hoa nhưng đã được gạn lọc, tiêu hoá, bằng những phương pháp dung hòa đặc thù, phù hợp với tiến trình vươn lên của dân tộc.

Sau đó từ Thông Biện Thiền Sư ở đời Lý cho đến nay chúng ta quan niệm rằng Thiền Việt Nam được truyền vào từ Trung Hoa, đây là điều cần nén xét lại. Nhân vật Tỳ ni Đa Lưu Chi đắc pháp với Tam Tổ Tăng Xán ở Trung Hoa, trong lịch sử Thiền Học Việt Nam được gọi là Sơ Tổ, nghĩa là ngài thiết lập hệ thống truyền thừa có qui củ. Bởi lẽ chùa Pháp Vân nơi ngài cư trú đầu tiên vốn là một thiền viện đã được thiết lập từ trước, và thiền sư Quán Duyên đang giảng dạy Thiền tại đây, ngài Pháp Hiền là một trong những học trò của ông.

Đồng ý rằng thiền đến bất cứ từ đâu cũng không quan trọng đối với chúng ta, điều quan yếu, những đóng góp của thiền đã cứu vớt được gì trong bối cảnh thống khổ hôm nay. Tuy nhiên trên lãnh vực truy tìm tư liệu chính xác để duy trì nền văn hoá dân tộc, và đặc biệt sự truyền thừa của Thiền, vốn đã nuôi sống tâm linh cả hằng mấy mươi thế kỷ qua, công ơn đó ta không thể nào không biết đến, không chiêm nghiệm tra vấn với chính mình?

( còn tiếp )

Như Hùng

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM