Một Kho Tàng Của Thời Đại Chúng Ta

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 4493)
Một Kho Tàng Của Thời Đại Chúng Ta

ĐỨC ORGYEN KUSUM LINGPA
MỘT KHO TÀNG CỦA THỜI ĐẠI CHÚNG TA

H.H.Orgyen Kusum Lingpa Giảng dạy tại Châu Mỹ
của Victoria Huckenpahler- Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa

 

 

Khuôn mặt chó bun của Ngài có thể liên tục thay đổi sự biểu lộ từ phẫn nộ sang bi mẫn chói ngời và qua vẻ hân hoan như trẻ con một cách nhanh chóng; Ngài tự gọi mình là một “Lạt ma hành khất” và một “trưởng tử của Vajrapani” (Kim Cương Thủ.) Những mâu thuẫn hiển nhiên này chỉ là những khía cạnh của một sự phô diễn trí tuệ được liên tục biểu hiện tuỳ theo nhu cầu của các đệ tử bởi một trong những Lạt ma vĩ đại nhất còn sống của Tây Tạng, H.H. Orgyen Kusum Lingpa. 

Đứng trước sự hiện diện của His Holiness là xúc chạm vào khuôn mặt của xứ Tây Tạng cổ xưa, huyền bí trong năng lực nguyên tuyền của nó. Ở nơi Ngài ta không chỉ kinh nghiệm toàn bộ sức nặng của một truyền thống không đứt đoạn, mà còn cả một sự bao la của cái thấy xoá sạch phòng tuyến ngăn chia giữa những gì thường được gọi là thầàn thoại, và thực tại; cả hai đơn thuần được diễn tả ở những mức độ khác nhau trong phạm vi của ý thức.

Với sự tự hào kim cương của một bậc đã chứng ngộ thực hành Pháp qua vô số cuộc đời, His Holiness thuật lại một cách thực tế sự tiếp nối của những Hoá Thân phi thường của Ngài: “Vào thời của Gesar xứ Ling (vị anh hùng trong sử thi Tây Tạng), tôi là một trong ba mươi chiến sĩ chủ lực của ngài; tôi mạnh tới độ có thể nhặt một con voi với một bàn tay và vì thế là một trong số ít người không bị tử thương trong những cuộc chiến tranh được tiến hành giữa xứ Hor và Jang. Tên tôi là Jamtrul Yulai Topgyir bởi tôi mặc áo giáp bằng ngọc lam rắn chắc. Tôi cũng là thành tựu giả Ấn Độ Trilwupa và Lhalung Palgyi Dorje, người đã giết Vua Langdarma (kẻ huỷ diệt Phật Giáo, bị giết bởi một mũi tên vào năm 842). Trong đời Machig Lapdron (nữ hành giả nổi tiếng và là người sáng lập trường phái Chod), tôi là một trong những đệ tử chính của Bà, có tên là Shang Murthi Nyongpa Rangzin, hay Kẻ Cuồng điên Bí mật-tự-Bản chất xứ Shang.”

Trong đời này His Holiness sinh năm 1933 tại Achak Drayu trên ngọn núi linh thiêng Amnyi Machen Nyendop, nó được gọi là ngọn Kailash (Ngân Sơn) ở miền Đông Tây Tạng. Sự ra đời của Ngài được tiên tri trong Kinh điển bởi Dodrup Chen đệ nhất, Jigme Trinley Oser, bởi terton Nyima Dragpa; và bởi Dzogchen Rinpoche thứ năm, ngài Migyur Namkhai Dorje. Một ngagpa thế hệ-thứ tư, His Holiness là con trai của bậc lão thông Kim Cương thừa Washi Lama Lhundrup Gyatso và yogini Padma Lhamso. Thân phụ Ngài mất khi Ngài lên ba tuổi, vào lúc đó His Holiness nhận những giới nguyện quy y và lễ cắt tóc từ Ban Thiền Lạt ma thứ chín, Thubten Chokyi Nyima.

Ngài tự mô tả mình trong thời niên thiếu là “rất nghịch ngợm, xấu xa như đám trẻ sinh động!” Tuy nhiên, Ngài tiến bộ trong việc học tập với một số vị Thầy linh thánh, kể cả Ngài Ahkon Khenchen Losang Dorje, một geshe rabjampa đã hoàn thành việc nghiên cứu hơn một trăm Kinh điển quan trọng nhất, và His Holiness đã là đệ tử chính của vị này trong hơn bốn mươi năm; hai Hoá Thân của Dodrup Chen Rinpoche thứ tư, Thubten Trinley Palzangpo và Rigzin Jalu Dorje; Gyaltrul Wangpo, Khenchen Lobsang Namtak là người đã ban cho Ngài sự truyền dạy Dzogchen Nyingthik, và Ngài đã sống nhiều năm với vị Thầy này; và Palyul Chogtrul Rinpoche mà từ vị này Ngài nhận lãnh các trao truyền Namcho và Tatna Lingpa. Thêm vào đó, từ năm mười ba tuổi, His Holiness bắt đầu nhận lãnh, trong những khoảng thời gian đều đặn, các linh kiến của Guru Padmasambhava và Vajrayogini. Cả hai vị này tiếp tục truyền dạy các giáo huấntiên tri cho Ngài.

Thân mẫu Ngài mất khi Ngài mười sáu tuổi, (…) và Ngài vui thích khi thuật lại “Khi tôi gặp những gia trưởng keo kiệt, tôi cố tình hát những bài ca kim cương du dương và não nuột làm họ khóc lóc, suy sụp, vì thế họ kết thúc bằng việc liên tục cho tôi những món ăn ngon nhất của họ!” Ngài cũng kể lại những ngày Ngài là một chodpa (hành giả thực hành pháp Chod), nếu những người bạn hành giả của Ngài nghe phong thanh về thời gian và địa điểm thực hành Chod của một yogi, họ sẽ luôn luôn chơi sỏ anh ta. “Những yogi này lập tức có những phản ứng sai lầm,” Ngài lưu ý. “Thật là vui nhộn.” His Holiness không dừng lại ở những trò đùa nghịch như thế: một lần, khi một nhà sư khác đang thực hiện pháp Chod, với sự hóm hỉnh của mình, cậu bé Kusum Lingpa làm kinh hoàng vị yogi tương lai bằng cách thọc bàn tay qua một cái lỗ trong căn lều và giật tóc ông ta! 

Vào khoảng thời gian này, His Holiness đi hành hương Lhasa và Samye, ở đó Ngài có các linh kiến về tất cả những đời quá khứ và tương lai của mình. Chính lúc đó Ngài nhận ra rằng trong tương lai Ngài sẽ tái sinh là Sangpa, trưởng tử của vị Nhiếp Chính thứ hai mươi lăm của Shambhala. Lòng dũng cảm hiếm có của Ngài sẽ giúp cho Ngài chiến thắng trong một đánh bom kéo dài bảy ngày do con người trên trái đất này ném xuống các cư dân của Shambhala. Ngài cũng thọ nhận một tiên tri là trong hơn một trăm đời Ngài sẽ khám phá một ngàn cuốn sách được liên kết với những kho tàng ẩn dấu ở năm phương hướng

Không lâu sau đó, His Holiness bắt đầu khám phá những kho tàng tài bảo, các thực hành có khả năng ban tặng sự thịnh vượng trong những thời đại suy hoại. Sau này, năm ba mươi hai tuổi, Ngài khám phá một kho tàng thân của Đức Phật Vairocana (Tỳ Lô Giá Na) mà hiện nay Ngài đang ban tặng nó cho các đệ tửTây phương, đó là thực hành Jambhala Orgyen. Với sự xác quyết của một bậc đã chứng ngộ sự thực hành, His Holiness nói rằng sự khám phá terma (kho tàng tâm linh được chôn dấu) này lập tức đảo ngược vận mệnh của Ngài, đem lại sự sung túc bất thường, và có thể thực hiện tương tự đối với bất kỳ ai tuân thủ nó một cách tinh tấn. Từ lúc đó, Ngài nổi tiếng là một trong những terton (bậc khám phá terma) còn sống, đã khám phá ba loại terma: những terma được nhận lãnh trực tiếp từ tâm; những terma “điên” có thể hiển lộ trong vị yogi như cách hành xử không theo quy ước; và terma bí mật chỉ có thể khám phá bởi một bậc là sở hữu chủ của tất cả mười tám bộ (gia đình) terma.

Giữ vững lập trường không trộn lẫn Pháp với những vấn đề thế tục, His Holiness trải qua hơn hai mươi ba năm bị giam giữ trong một trại giam của Trung QuốcTây Tạng, Ngài thích nhấn mạnh tới những sự ban phước của Đức Padmasambhava và Vajrayogini mà nhờ đó Ngài cảm thấy Ngài có thể tới Tây phương và ban những giáo lý. “Những Lạt ma khác ở Tây Tạng vĩ đại hơn tôi nhiều,” Ngài nói, “nhưng tôi là một người thăm viếng Châu Mỹ và là một thành phần của những sự việc ở đây.” Mặc dù hiện nay Ngài có trọng trách đối với năm tu việnTây Tạng, tu viện chính nằm ở Golok trong miền đông Tây Tạng, His Holiness bắt đầu nhận những lời mời vào năm 1994 để giảng dạy tại các trung tâm Giáo Pháp Châu Mỹ của các ngài Chagdud, Gyaltrul, và Trungpa Rinpoche, và tại Kunzang Palyul Choling, được điều hành bởi nữ tulku người Mỹ Ahkon Norbu Lhamo. Trong chuyến trở lại Hoa Kỳ vào mùa xuân năm nay, Ngài cũng thành lập một trung tâm nhỏ ở Crestone, Colorado và một trung tâm ở Los Angeles mà Ngài hướng dẫn cùng với trưởng nam của Ngài là Tulku Hungkar Dorje, là vị từng được công nhậntái sinh của Do Khyentse Yeshe Dorje, mà His Holines sẽ là một Lạt ma vĩ đại hơn ông ta. His Holiness đã đích thân bổ nhiệm đệ tử của Ngài là Kelly Lynch làm giám đốc trung tâm. Trong thời gian thăm viếng Châu Mỹ, His Holiness đã giảng dạy trên ba ngàn người và đã ban các giới nguyện quy y cho hơn năm trăm người.

Lối giảng dạy của His Holiness thiên nhiều về trực giác. Ngài có thể ban những nhập môn chính thức hay thuật lại những câu chuyện của Tây Tạng xa xưa. Sau một buổi tối vui nhộn bất ngờ, Ngài kết luận: “Khi tôi còn trẻ, tôi có nhiều cuộc gặp gỡ ngồ ngộ với những người được gọi là hành giả Pháp thuần tịnh và những trò đùa nghịch được rút ra từ họ, vì thế thỉnh thoảng khi tôi đang giảng dạy, những câu chuyện này xuất hiện trong tâm tôi. Tôi thích kể những câu chuyện này bởi tôi thích cười. Ngày mai chúng ta sẽ cố gắng có thêm những bài giảng, nhưng nếu những câu chuyện này lại xuất hiện thì tôi không thể kiểm soát được mình!”

Nhưng Ngài có thể dễ dàng biểu lộ một cách thế phẫn nộ, đưa ra lời khuyên dạy nghiêm khắc cho những hành giả đang rơi vào sự tự mãn. Khi Ngài có một ước muốn mạnh mẽ, Ngài sẽ trở lại vấn đề một cách liên tụcsinh động tới nỗi ta dễ tin rằng Ngài là một Hoá Thân của Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ); một trường năng lực tỏa ra từ Ngài khiến ta có thể sờ mó được. Tại một trung tâm Giáo Pháp, Ngài đã khiển trách tăng đoàn trong ba buổi tối liên tiếp về mọi sự hình thành giờ giấc mà họ đang giữ (“Quý vị nên thức dậy và bắt đầu thực hành vào lúc 4 giờ sáng; ngủ tới 8 giờ sáng và thức khuya thì không tốt”) đối với toàn bộ hiệu quả của tổ chức. Đó là một trong những trách nhiệm của Ngài, Ngài khám phá, tẩy trừ những chướng ngại, đặc biệt là tại những trung tâm Giáo Pháp. Nhưng vào lúc kết thúc, Ngài thình lình cười rạng rỡ và nói: “Tôi nghĩ tôi đã quá khó khăn với quý vị; bây giờ tôi sẽ kể cho quý vị nghe một vài chuyện vui!”

Quả thực là vẻ chói sáng của His Holiness là điều được cảm nhận một cách mạnh mẽ, ngay cả giữa sự biểu lộ phẫn nộ được kiểm soát của Ngài. (Thực thú vịtừ ngữ Tây Tạng để chỉ sự phẫn nộ, dragpo, bao hàm sức mạnh hơn là sự giận dữ.) Nhìn vào mặt Ngài khi ta được Ngài ban phước, ta hiểu được ý nghĩa của thuật ngữ lòng bi mẫn không-bị cụ thể hóa. His Holiness không chỉ ban tặng lòng từ; Ngài trở thành lòng từ ái, và mặc dù hành giả có thể nhận lãnh sự trừng phạt nghiêm khắc khi cần thiết, nhưng họ sẽ không bao giờ bị bỏ rơi.

His Holiness cũng có thể khiêm tốn, bình phàm, và sắc sảo thật tâm lý. Mới đây, lời khuyên dạy tâm huyết của Ngài cho các đệ tử là: “Các Lạt ma vĩ đại là những vị nghĩ về bản thân mình một cách khiêm tốn và không tự đặt mình trong một địa vị đặc biệt, nhưng hạ mình hoà nhập với mọi người, và thậm chí còn thấp thỏi hơn mọi người, như một Lạt ma hành khất. Nếu quý vị sống như một Lạt ma hành khất, quý vị thực sự ở một vị trí làm lợi lạc chúng sinh.” Một vấn đề khác: “Là bất tịnh nếu không nhận ra chân tánh của tâm. Đó là lý do tại sao những gì ở trong tâm quý vị thì bất tịnh như những thứ xuất hiện trong nhà vệ sinh! Nếu ngay cả người bạn tốt nhất của ta có thể thấy được những gì trong tâm ta, thì thật là bối rối. Và nếu mọi người có thể thấy được những gì trong tâm ta, chúng ta sẽ ở trong một trạng thái giằng xé liên tục!” Ngài cũng ban lời dạy về những thực hành cho người chết và về thái độ đúng đắn đối với những của cải như một chuẩn bị cho cái chết của bản thân ta. “Ở Mỹ, khi người nào chết, điều quan trọng nhất là loại y phục nào quý vị sẽ mặc cho tử thi để làm dễ chịu những ai nhìn thấy nó. Tôi có thể quả quyết với quý vị là điều này có hại cho tâm thức bardo bởi nó không giải thoát tâm thức khỏi sự bám luyến. Là những hành giả Phật Giáo, hãy làm điều đức hạnh như trì tụng thần chú Mani (Lục Tự Đại Minh) hay thực hiện những Bổn Tôn an bìnhphẫn nộ trong các vị thần trong bardo. Khi quý vị ở trong bardo, điều tôi nói sẽ trở nên chân thực trong tâm quý vị và khi ấy quý vị sẽ hiểu rõ là người ta có thiện tâm đối với người thân của họ vào lúc chết hay không. Đối với tâm thức bardo thì điều tốt đẹp là không để lại sau lưng quá nhiều của cải bởi điều đó gây nên sự bám luyến. Giờ đây hãy sử dụng tài sản của quý vị vào những mục đích đức hạnh. Đừng tích luỹ quá nhiều hay có những dự án to lớn cho tương lai. Đây không phải là con đường của Dzogchen (Đại Viên Mãn). Quý vị nên có một tâm thức được hướng tới hiện tại hơn nữa.”

His Holiness thật rộng lượng tràn đầy tâm linhcảm xúc, Ngài ban phước cho tất cả, từng người một, bất kể những khoá giảng kết thúc muộn tới đâu hay Ngài mệt nhọc ra sao. Nói chung, Ngài ban tặng gấp đôi so với giáo lý xuất hiện trên lịch giảng dạy chính thức. Và nhìn ngắm Ngài trong những giờ Ngài “nhàn rỗi” là một sự nhắc nhở về nỗ lực không ngừng nghỉ mà những bậc thực hành các giới nguyện Bồ Tát đã làm. Khi Ngài không tích cực giảng dạy hay ban những chỉ dạy tâm linh, Ngài lần chuỗi hột và trì tụng các thần chú, hoặc tìm kiếm người nào đó để làm lợi lạc. Trong khi chờ đợi tại một phi trường ở bờ biển miền đông, Ngài nhìn lướt qua đám đông, đôi mắt ngài dừng lại nơi một phụ nữ ngồi đối diện với Ngài. Bởi Ngài không nói tiếng Anh, Ngài bắt đầu ra hiệu để thu hút sự chú ý của bà ta, thấu hiểu rằng ngay cả sự tiếp xúc thoáng qua cũng có thể gieo trồng một chủng tử sẽ nở rộ trong những đời sau.

His Holiness là một sức thuyết phục của chân tánh, một kho tàng sống của những truyền thống tâm linh cao quý nhất của Tây Tạng, một terton và siddha (thành tựu giả) vĩ đại, không nên bỏ lỡ Ngài.

Nguyên tác: A Treasure for Our Time, by Victoria Huckenpahler
http://www.wolfenet.com/~markho/k_lisnoln.html
Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant