Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ “Động Hoa Vàng” Tới Những Trang “Kinh Ngọc”

17 Tháng Mười 201406:46(Xem: 14303)
Từ “Động Hoa Vàng” Tới Những Trang “Kinh Ngọc”


TỪ “ĐỘNG HOA VÀNG” TỚI NHỮNG TRANG “KINH NGỌC"


Hạnh Chi



                                 

           “Mùa Xuân bỏ vào suối chơi

            Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa

            Múc bình nước mát về qua

            Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa ”

            Chỉ bốn câu thơ mà đã hiện lên đôi nét chấm phá về “Gã từ quanPhạm Thiên Thư.

            Là người Việt Nam yêu thơ, yêu nhạc, ít có ai chưa từng một lần được nghe những giòng nhạc mượt mà, phổ từ suối thơ lục bát Phạm Thiên Thư qua tập thơ  “Động Hoa Vàng”

            Phạm Thiên Thư tự họa:

            Rằng xưa có gã từ quan

            Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

            Mà nào gã có ngủ say! Chỉ là những giấc mộng tuyệt vời, qua cả tiếng cười lẫn lệ chảy. 

            Từ nhiều thập niên, Động Hoa Vàng cũng được nâng niu trong cặp sách học trò, được kín đáo tỏ bày trong thư tình gửi vội, được chắp cánh lên cao trong âm thanh lồng lộng không gian, được nức nở đợi chờ, được hân hoan hạnh phúc … vì ai bước vào Động Hoa Vàng cũng có thể thấp thoáng thấy bóng mình đâu đó, để gửi cho nhau, để hát với nhau, dù là phút chia tay hay hội ngộ.

“Chim từ bỏ động hoa thưa

Người từ tóc biếc, đôi bờ hạ đông

Lên non kiếm hạt tơ đồng

Đập ra chợt thấy đôi dòng hạc bay”    


Động Hoa Vàng ở đâu? Có lẽ khách thơ chẳng cần biết, khi rung cảm tự thẳm sâu đã nghe và thấy được cả:Từ trong thơ, đã có nhạc. Và từ trong thơ nhạc, đã hóa hiện thành tranh, bức tranh thủy mạc linh động như vạn hữu đang dập dìu tình tự. Thể thơ lục bát dân tộc đấy, tìm chi tận thơ Đường thơ Mật mới vẽ được Hoàng Hạc Lâu “Tình xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ. Phương thảo thê thê Anh Vũ Châu!”

Động Hoa Vàng ở đâu? Có lẽ khách thơ chẳng cần biết, khi rung cảm tự thẳm sâu đã nghe và thấy được cả:

Tiếng chim trong cõi vô cùng

Nở ra bát ngát trên rừng quế hương

 

Lạ!

Mỗi câu thơ là mỗi mênh mông của sát na giác ngộ. Ngộ cái thấy và cả cái không thấy. Người đó, tưởng như bình dị trần thân trong tầm tay với, mà sao thoáng chốc bỗng vượt chín tầng mây khiến mộng chợt tỉnh, mà đâu là thực:

Thư em ướp nụ lan vàng

Lời em gió núi chiên đàn thoảng xa

Áo em phất cõi Di Đà

Ngón chân em nở đóa hoa Đại Từ

Cứ thế, mộng và thực đan nhau. Gã từ quan không ngủ say mà khách thơ theo chân gã, lại bồi hồi lần bước tới vô-môn-quan. Vì cửa-không-cánh-cửa nên người vào chẳng mở mà người ra cũng chẳng đóng. Vào hay ra đều tự tại đến, đi mới thấy ta và vạn hữu không hai:

Mùa xuân mặc lá trên ngàn

Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư

Động Nam Hoa có thiền sư

Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn!

A ha! Đạt tới thế thì đâu chẳng là Động Hoa Vàng của gã từ quan, và nhẹ nhàng từ luôn cả những trược phiền ràng buộc:

Thì thôi, tóc ấy phù vân

Thì thôi, lệ ấy còn ngần dáng sương

Thì thôi, mù phố xe đường

Thôi thì thôi nhé! Đoạn trường thế thôi!

Và khách thơ không băn khoăn gì khi thấy người ấy vẫy tay:

Trần gian chào cõi mộng này

Sông Ngân tìm một bến ngoài hóa duyên.

 

Quả thật, người đã hóa duyên.

Thi sỹ Phạm Thiên Thư đã hóa duyên thành Thầy Tuệ Không. Người đã xuất gia năm 1964 và hoàn tục năm 1973. Những dấu mốc thời gian đó như chẳng làm nên khác biệt gì trong thâm tâm của một người đã:

Thâu hương hiện kính bồ đề

Phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi.

Thầy Tuệ Không Phạm Thiên Thư “đã có sáng kiến và can đảm thi hóa kinh Kim Cang để cúng dường Chánh Pháp” như lời của cố Hòa Thượng Thích Minh Châu đã giới thiệu cuốn Kinh Ngọc khi Ngài đang là viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Ngài viết rằng: “Tôi nói sáng kiến vì rất ít có Phật tử, nếu không phải là chưa có, đã dùng thể thơ mà diễn đạt nghĩa chân không diệu hữu của Đại Thừa. Tôi nói can đảm, vì chỉ có tuổi trẻ mới can đảm làm những chuyện phi thường, và thật là phi thường khi cả gan thi-hóa bản kinh “Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm”.

Trước khi khai kinh, thơ đã quỳ xuống, cực kỳ trang trọng:

Nguyện cúng dường kinh tạng thơ hoa

Trải tam thế mộng một tòa sắc hương

Kiếp sau làm chim trong sương

Về bay hóa độ mười phương trời vàng

Đây cũng là lời nguyện của Chư Bồ Tát, quay lại Ta Bà độ chúng sanh. Từ đây, thơ không còn lục bát nữa, mà là nhịp mõ của thanh âm tiếng kệ diệu kỳ.

Cúng dườngphát nguyện rồi, thơ vẫn quỳ trước Tôn Kinh để:

Ngợi kinh:

Thân như sương đầu cỏ

Tụ mười cõi trăng sao

Nhập dòng thơ thâm diệu

Mộng thức dưới hoa đào.

Dâng kinh:

Cánh lan ngọc cong cong

Mười viền trăng thu khuyết

Hoa khép tay trầm hương

Quy-y tôn kính Phật.

Mở kinh:

Giấy cỏ hoa mây trắng

Chép đôi dòng kinh thơ

Suối nào vi diệu dụng

Trang nghiêm cõi Phật thừa.

Từ đây, cánh cửa Kim Cang đã mở rộng. Chuông đã điểm. Mõ đã ngân. Người thơ chắp tay mà thi-hóa từng trang kinh để mỗi lời Phật dạy là một đóa sen thơm:

Con chim thu cõi tịnh

Cũng về hội ta-bà

Trùng trùng mây mây biếc

Hoa trải cúng dường hoa

 

Trong khu vườn mai trắng

Sương đọng mấy tầng hoa

Sao tụ nước Xá Vệ

Hương ngát mười cõi xa

 

Trên trụ đá mây đỏ

Trải chiếu cõi Lưu-Ly

Phật kết kim cương tọa

Chim tụng pháp diệu kỳ

 

Hai ngàn năm trăm vị

Tỳ-kheo rực pháp y

Dưới thềm đá mây nổi

Dưới thềm hoa uy nghi

Địa danh và cảnh trí nơi Đức Thế Tôn sắp giảng Kinh Kim Cang Đại Thừa được thi-hóa như thế. Thơ đã thoát tục, bước lên pháp tòa:

Giữa đại chúng tịch mịch

Hiền giả Tu Bồ Đề

Đứng dậy chắp tay ngọc

Hoa trắng trải hoàng y

Đối tượng để Đức Thế Tôn giảng kinh Kim Cang là ngài Tu Bồ Đề, như đối tượng trong kinh A Di Đà là ngài Xá Lợi Phất. Chỉ khác, trong kinh Kim Cang, ngài Tu Bồ Đề thỉnh hỏi và Đức Thế Tôn giải đáp, còn trong kinh A Di Đà là dạng vô vấn tự thuyết, nghĩa là không ai hỏi, nhưng Đức Thế Tôn đã từ bi, chọn ngài Xá Lợi Phất để giảng giải về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà do chúng sanh được lợi lạc.

Trang kinh Kim Cang đã mở.

Và từng bước thong dong, thơ rải hoa trên mỗi câu hỏi, đáp, làm kinh ngạc những ai lần đầu có tập thi-hóa này trên tay. Với thể thơ năm chữ, Kim-Cang-kinh bước vào hồn người như những đóa quỳnh hương nở nhẹ trong đêm, qua từng lời Phật dạy:

             Chúng sinh như sương tụ

             Chúng sinh như mây tan

             Mười cõi bóng mây nổi

             Nhập Vô-Dư Niết-Bàn

             Vô lượng, vô biên độ

             Mà không một chúng sinh

             Đồng cùng như tánh trí

             Từ biển lặng vô minh

Khi Phật chỉ bày về pháp bố thí, thơ ngân nga như vầy:

Thực hành pháp bố thí  

Vô ngã, vô sở trụ

Vô ngại cõi phù vân

Như mười phương sao biếc

Mười phương cõi hư không

Bố thí vô tướng trụ

Công đức chẳng suy lường

Tinh thần Kim-Cang-kinh cô đọng trong lời dạy:

Không pháp nào vô thượng

Phương tiện, phương tiện thôi!

Ngài chưa thuyết một pháp

Vì tánh chẳng y lời.

Đạt ý, như thực ý

Lìa lời, như thực lời

Đạt trí, như thực trí

Ý, lời, ngọn sóng khơi

Khi xưa, thi hào Nguyễn Du từng than thở là tụng Kim Cang ngàn lần vẫn chưa nắm bắt được ý kinh, dù ngay lời kinh, Phật đã dạy:

Người chấp Như-Lai pháp

Là không hiểu nghĩa mầu

Nghe pháp không chấp pháp

Cầu pháp không người cầu

Tôi hằng phương tiện thuyết

Mê ngộ có xa đâu!

Vô lượng kiếp kiếp sau

Người khởi tâm thanh tịnh

Biết cầu pháp nơi đâu?

Tìm mộng trong giấc mộng

Người mê, chẳng thấy mê

Xưa nay không ngã, pháp

Tìm đâu lối bồ-đề!

Trái tim của Kim-Cang-kinh là bốn câu kệ mà hành giả thường nương tựa kinh ngày đều khắc cốt ghi tâm:

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán.

đã được nhà thơ thi-hóa như sau:

Trùng trùng pháp hữu vi

Như huyễn mộng bọt nước

Như bóng chớp sương mai

Thường quán tưởng như thị

 

Từ Động Hoa Vàng:

Sư lên chót đỉnh rừng thiền

Trong tim chợt thắp một viền tà dương

Ngón tay nở nụ đào hương

Cầm nghiêng Tịnh-Độ một phương diệu vời

Tới Kinh Ngọc:

Bồ Tát khởi sinh tâm

Thanh tịnh như hư không

Vô nguyện, vô sở trụ

Viên mãn một tâm đồng

Như mưa khắp phương cõi

Riêng gì chốn tây đông.

           Quả là tâm người chẳng lay động mới tạo nên gạch nối kỳ diệu, hiển lộ Bát Nhã Ba La Mật giữa mộng và thực, giữa tục và tăng, phá vỡ hàng rào chấp ngã từng cản bước bao người tìm vào biển tuệ. Nên qua Kim Cang, Đức Thế Tôn nghiêm túc mà dạy rằng:

            Ba mươi hai tướng ngọc

            Chẳng quán được Như Lai

            Dùng sắc không thấy Phật

            Pháp thân nào trong ngoài

            Dùng thân vàng thấy Phật

            Dùng khánh ngọc cầu ta

            Người đó lạc tà đạo

            Đũa ngọc gắp sao tà.

 

Và thầy Tuệ Không Phạm Thiên Thư đã thi-hóa đoạn cuối kinh Kim Cang, thật trung thực như mỗi lần Đức Phật dứt lời thuyết giảng:

Phật nói kinh này rồi

Hoa cúng dường phơi phới

Chim tụng vi diệu âm

Mây về mười cõi giới

Trưởng lão Tu Bồ Đề

Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni

Ưu Bà Tắc, Bà-Di

Khắp cõi quỷ, trời, người

Hoan hỷ bừng pháp hội.

 

Khép kinh:

Chẳng nương bè trúc ngọc

Vượt qua suối mây hồng

Con chim vô lượng kiếp

Về tha trái nhãn không

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Hạnh Chi

(Ngày về lại Tào-Khê tịnh thất, tụng Kinh Kim Cang)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4831)
Hoa bay giữa trời ngát hương thơm Canh khuya tỉnh giấc mộng đêm trường Áo cũ nâu sòng hương toả khắp Bạt trắng bụi mờ nét phong sương .
(Xem: 6043)
Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.
(Xem: 4464)
Sống chết ta xem nhẹ Như lá rừng thoát bay Lúc sống không thù hận Khi chết chẳng đoái hoài .
(Xem: 5698)
Một phần nhỏ làm quà vui Tết Gởi bà con các hộ quê ta Xuân về người Việt ở xa Chung lòng gom góp thiết tha nhiệt tình .
(Xem: 6319)
Lắng chuông tiếng chùa ngân Vạn dập dìu tiếng kinh Ngày nao, nhớ mãi năm nào Nguyệt tuế quay vần Duyên kiếp chưa hề lỡ rồi
(Xem: 7259)
Phong trần say mấy độ Bạc phếch áo vai đời Thu về xanh tiếng nhạn Xuân về hoa cỏ tươi.
(Xem: 5692)
Vui đâu cho bằng vui chùa Có Thầy có Bạn có mùi trầm hương Có tiếng khánh có đạo trường Có lòng hiểu biết tình thương vô bờ .
(Xem: 4878)
Nghiệp ta ta xin trả Không than vãn cùng ai Ta mang ta tự gánh Nhân quả chẳng thể sai .
(Xem: 5276)
“Suối trong dòng tuyệt vô ngần, Sạch bao nhiêu nghiệp bụi trần chướng duyên… Lên đây tục gọi chùa trong, Động bao la động, dứt dòng tử sinh”
(Xem: 5615)
Nhiệm mầu Phật Pháp cao sâu Hành chuyên lợi lạc chẳng cầu cúng xin Hơi ta ta biết một mình Chân ta ta bước hành trình mãi thôi .
(Xem: 4629)
Ngát toả hương thơm kính cúng dường Lòng thành dâng lễ Phật mười phương Nương nhau vui sống trong tình đạo Sách tấn cùng tu giữa thế thường .
(Xem: 5401)
Sở tri chướng con đường đầy chướng ngại Trên đường tu chẳng lối thoát mở ra Tranh luận hoài không lợi ích tâm ta Ngồi tĩnh lặng đẹp như vầng trăng sáng .
(Xem: 5959)
Viên ngọc quý nằm trong túi áo Bao kiếp rồi ta chẳng nhận ra Cuộc đời cứ mãi trôi qua Khó khăn khốn khổ lê la khắp đường .
(Xem: 5491)
Mùa xuân nào thật sự, nầy Em ? Khi cuộc sống còn nhiều phía trước Ta cặm cụi những điều mơ ước Để làm cho hiện thực trái tim.
(Xem: 9415)
Em có hay ! Những chiếc lá thức tàn canh Cây chuyển mạch, Dòng đời thay sắc áo Hoa đương nụ dưới ngàn sương huyền ảo Cánh chim về chở trĩu ước mơ xanh.
(Xem: 7116)
Mênh mang sóng nước nắng vờn qua, Cát trắng cò bay nương cánh sa. Lớp lớp thuyền về trăng rọi lá, Tầng tầng mây phủ gió lòn hoa.
(Xem: 6372)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân.
(Xem: 5072)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà,
(Xem: 5870)
Cuối đời phủi áo ra đi Nhẹ nhàng thanh thoát chẳng gì cưu mang Bụi trần không bám vương mang Phút giây từ bỏ chẳng màng sầu thương .
(Xem: 6443)
Gió thoảng mây vờn chỉ thoáng qua, Bên triền dốc phẳng dỗi phong sa. Mưa về thấm đẫm xuôi bờ lá, Nắng đến vươn dài rộng thảm hoa.
(Xem: 5622)
Niềm vui lớn là niềm vui Chánh Pháp Mong tu hành thoát khổ kiếp giây oan Bờ bên kia mở lối cổng Niết Bàn Bao đau khổ biến tan trong khoảng khắc .
(Xem: 5042)
Thong dong cùng khắp chốn Mỗi bước đường ta đi Nhìn mây trời cao rộng Lòng trải nghiệm từng ly .
(Xem: 11126)
Từ vô lượng biển sông Đến sa mạc mênh mông Đâu đâu cũng là cát Có có mà không không!
(Xem: 6221)
Cỏ cây, sinh vật thời xưa Đều cùng biết nói, lại vừa biết nghe
(Xem: 5744)
Trời se lạnh mùa Đông gần sắp đến Lá Thu vàng rơi rụng khắp vườn sân Vị Thiền Tăng lẵng lặng thắp hương trầm Dâng kính Phật lắng ngồi trong im lặng .
(Xem: 6121)
Lễ khánh thành đồng hương nghe hoan hỷ Chùa Huyền Quang qua tin tức truyền thông Khắp muôn nơi đều hướng đến chung lòng Mừng Chùa mới đứng uy nghiêm hùng vỹ
(Xem: 5929)
Chư tôn tứ vị đã xa rồi, Nhớ đến thâm ân lệ lại rơi. Đuốc tuệ còn mờ, ngâm tánh lặng, Đèn thiền chưa sáng, lạnh thân côi.
(Xem: 6002)
Cát bụi thời gian phủ bóng mờ Đến nay cuộc sống mãi chơ vơ Tối ngày mong đợi tiền , danh , sắc Hôm sớm ước tìm chức phận mơ.
(Xem: 5535)
Tâm đã thấm vào trong lòng Phật Pháp Toả hương thiền giữa cuộc sống hôm nay Từ nội tâm vững chải muốn mở bày Mong lợi lạc cuộc đời thêm hương sắc .
(Xem: 5652)
Bụi bám thường lau sáng hiện ra, Nguồn chơn diệu dụng, nghĩa đâu già. Suối reo róc rách, cá vui lượn, Trăng chiếu lung linh, vật trải xa.
(Xem: 5990)
Lạc đạo an bần sống thảnh thơi Đậu hũ rau cơm hạt của trời Ngoài kia còn biết bao người đói Giản dị nhu cầu dễ sống thôi .
(Xem: 5565)
Đạo vốn không tham chấp Mà ngày thường ngát hương Hương từ bi trí tuệ Toả lan khắp nẻo đường
(Xem: 6857)
Chân Như tỏa rạng chiếu nhân thiên, Tỏa ánh quang minh, khắp mọi miền. Phật Tử hồi tâm hành thiện hạnh, Tăng Ni chuyển niệm phát chân nguyền.
(Xem: 9005)
Tôi học dứt âu lo Sống cuộc đời nguyện cho An vui là cửa ngỏ Đẹp bước đường thơm tho
(Xem: 6078)
Quê hương bao giờ cũng đẹp Tình người gắn bó bên nhau Dù bao khó khăn nguy khốn Sẻ chia từng bửa cơm rau .
(Xem: 5233)
Thưở xưa có vị tu hành Thật là đức hạnh nổi danh vô cùng Thầy tên là sư Chánh Thông Lâu nay muốn kiếm trong vùng rừng thưa
(Xem: 5748)
Cảm nghiệm trong ý thiền Bình yên trong ánh đạo Sống đời không kiêu ngạo Là đức tánh trượng phu .
(Xem: 6636)
Không từ nơi nguồn cuộc sống Muôn trùng khổ đế thậm thâm Cành lau nghiêng chiều thực-mộng Cành lau trắng trời diệu tâm.
(Xem: 7667)
By Bhikkhuni Hue Tran (Poems composed in days of retreat at Tao-Khe Tinh That) Translated into English by Nguyen Giac
(Xem: 5161)
Cuộc đời rồi cũng qua Mây trời vẫn xanh ngát Dù lòng người có khác Pháp Phật vẫn đậm đà
(Xem: 4535)
Sơn Tăng lên núi tọa thiền; Không danh lợi, chẳng muộn phiền đó đây; Bạn cùng trăng nước trời mây; Ma Ha Bát Nhã, Thân này vốn không.
(Xem: 7985)
Sắc sắc, không không tánh rỗng trong, Rảnh rang lặng lẽ chẳng vương lòng. Thời thời quán chiếu, nương tâm học, Kiếp kiếp huân tu, bặt thức rong.
(Xem: 6502)
Hằng năm vào tiết mùa đông Tục rằng: phải nhớ ơn công đất trời Ai hay cái lạnh nghiệt đời Thuở ngày xưa ấy, bao người ấm no.!?
(Xem: 5336)
Xin một lần tạ ơn cùng khắp cả Ơn đất trời ơn cha mẹ sanh ta Ơn đức Thầy giáo huấn thật thiết tha Ơn đại chúng cùng ơn sâu Tam Bảo .
(Xem: 4863)
Sống mà chỉ biết cái tôi Tới giờ nhắm mắt luân hồi chuyển đưa Một câu niệm Phật vẫn chưa Giàu sang như gió mây mưa giữa trời .
(Xem: 4662)
Tâm nhơ khéo giữ, sống an nhiên, Thấy rõ sân si, tạo phước điền. Đoạn ngắn đan tay xa ác nạn,, Đường dài rảo bước tránh oan khiên.
(Xem: 6230)
Sắc tướng thế gian vốn tính không, Tâm nhơ vụng gội khổ luôn chồng. Ba đường luẩn quẩn thiện duyên lắng, Sáu nẻo loanh quanh ác nghiệp rong.
(Xem: 5565)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
(Xem: 6915)
Một hôm thuyết pháp trở về Phật cùng đệ tử đang đi trên đường Chợt đâu thấy một anh chàng Lùa bầy bò chạy nghênh ngang reo hò.
(Xem: 6587)
Miền Trung đất nước tôi yêu Mỗi năm bão lụt gây nhiều tang thương Ruộng vườn nhà cửa phố phường Biết bao thảm hoạ triều cường cuốn trôi .
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant