Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Thi Vân Tập Cú Tập

19 Tháng Bảy 201900:38(Xem: 4357)
Thiền Thi Vân Tập Cú Tập
THIỀN THI VÂN TẬP CÚ TẬP 

1
.禪詩雲集句
Tuyển dịch, văn thể… HT Thích Huyền Tôn.

Lão Tăng sưu tập Thiền-thi, cống hiến các bạn uống trà, ngâm nga, nghiệm thâm ý, trực ngộ diệu lý Bất sanh, bất diệt. Bổng nhiên bay vút không trung, cười vui ha hả, nhìn thấy cõi trần không không Vô tận…Tam-khổ, Bát-khổ biến thành Tịnh-độ. Tu, Tu nhiều, vui thú nhiều bạn nhỉ ! 
 

 

1. Thiền-Lão thiền sư, đời Nhà Lý. Việt Nam.

Vào Năm Ất hợi (TL.1035) VL3914. Vua Lý-Thái-Tông đến thăm và hỏi:

-Hòa Thượng ở núi nầy được bao lâu ?

Hòa Thượng đáp: Đản Tri Kim Nhật Nguyệt但知今日月

Thùy Thức Cựu Xuât Thu.  誰識舊春秋

 

Dịch: (?) Ngày nay chỉ biết ngày nay,

Còn xuân thu trước ai hay làm gì.

 

Có thể tạm dịch: Ngày tháng hôm nay biết rõ ràng,

Xuân Thu năm cũ mơ màng ai hay.(biết chi)

 

Nhà Vua hỏi tiếp: -Hằng ngày Hòa Thượng làm việc gì ?

Hòa Thượng Lại đáp:

Túy Trúc Hoàng Hoa Phi Ngoại Cảnh,翠竹黃花非外景,

Bạch Vân Minh Nguyệt Lộ Toàn Chân.白雲明月露全真.

 

HT.Huyền Tôn, dịch:Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh,

Trăng trong mây trắng cõi toàn chân.

 

Vua Lý, hiểu được lẽ đạo thâm huyền, về triều gởi chiếu thỉnh Sư làm cố

Vấn, nhưng Thiền-sư đã Viên-tịch.

   Sư Viên-tịch năm Mậu-dần, VL.3917 (TL.1038).

Lời Chú: Cái đạo lý của quá-khứ vi-lai, của hoa-vàng trăng-sáng không cần quan

Tâm, cảnh không trước cảnh, lý tính mặc tình nó tỏ lộ hay tan biến .

 

 

2.Vua Trần Nhân Tông. Việt Nam.

Cư Trần Lạc Đạo Thả Tùy Duyên,居塵樂道且隨緣,

Cơ Tắc Xang Hề Khổn Tắc Miên.饑則餐兮悃則眠.

Gia Trung Hữu Bảo Hưu Tầm Mích,家中有寶休尋覓,

Đối Cảnh Vô Tâm Mạc Vấn Thiền.對境無心莫問禪.

 

Huyền Tôn, dịch:

Cõi trần vui đạo hãy tùy duyên,

Đói ăn khát uống mệt ngủ liền.

Bảo vật dư rồi tìm chi nửa,

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.

 

Đối cảnh vô tâm: sáu căn đối với sáu trần  không nhiễm trước

tức Tâm, Cảnh thanh tịnh Ngay đó Ngộ-đạo.

 

3.Đời Nhà Lý Vua Thái Tôn (Phật Mã) Năm Mậu-thìn, VL.3907. (TL.1028).

Làm bài Thi-kệ truy tán Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi như sau:

 

Sáng Tự Nam Lai Quốc,創自南來國

Văn Quân Cữu Tập Thiền.聞君久習禪

Ứng Khai Chư Phật Tín,應開諸佛信

Viễn Hợp Nhứt Tâm Nguyên.遠合壹心源

Hạo Hạo Lăng Già Nguyệt,浩浩伽月

Phân Phân Bát Nhã Liên.芬芬般若蓮

Hà Thời Hạnh Tương Kiến,何時幸相見

Tương Dữ Thoại Trùng Huyền.相與話重玄

 

HT, Mật Thể, dich:

 

Mở lối qua Nam Việt,

Nghe ông chỉn học thuyền. (Thiền).

Nguồn tâm thông một mạch,

Cõi Phật rộng quanh miền.

Lăng-già ngời bóng nguyệt,

Bát Nhã nức mùi sen.

 

Biết được bao giờ gặp,

Cùng nhau kể đạo huyền.

 

HT. Huyền Tôn, dịch:

Ngài qua nước Nam Việt,

Đã lâu tu học Thiền.

Mở bày lòng tin Phật,

Thấy suốt rõ tâm nguyên.(1)

Rực rỡ Lăng già nguyệt, (2)

Thơm ngát Bát nhã liên.

Bao giờ được tương kiến,

Cùng luận đạo thâm huyền.

 

(1) Nguồn tâm, cũng là Chơn Tâm).

(2) Xưa ở nước sư-tử. nay là đảo tích lan. Lăng già là Bảo-thạch (đá qui)

Núi Lăng-già. Nơi Phật nói Kinh Lăng Già, và có “huyền ký”đời sau 

có vị Đại-đức tên Long-thọChứng Hoan-hỷ-địa nói “Đại-thừa diệu

-pháp” tại nước An-lạc.( Ấn-độ).

 

4. Bậc Nhàn Đạo Nhân, Huyền Giác nói :

 

Tùng Tha Bán, Nhậm Tha Phi,從他謗任他非,

Bả Hỏa Thiêu Thiên Đồ Tự Bì.把火燒天陡自疲.

Ngã Văn Kháp Tợ Ẩm Cam Lộ,我聞恰似飲甘露,

Tiêu Dung Đốn Nhập Bất Tư Nghì.消慵囤入不思儀.

Trúc Thiên, Dịch:

Mặc ai biếm, mặc ai gièm, 

Châm lửa đốt trời nhọc xác thêm.

Ta nghe như uống cam lồ vậy, 

Tan hết vào trong chẳng nghĩ bàn.

 

Huyền Tôn dịch:

Mặc ai bán bổ, mặc ai chê,  

Đem lửa đốt trời tánh tự mê.

Nghe chê như uống bầu Cam Lộ,

Nhẹ nhàng lan tỏa khó nghĩ bàn. (khó lời phê).

 

Người tu có năng lực nhẫn nhục lớn, vừa nghe lời “phê phán chê bai”

Liền ngay đó “Tu lập tức” coi như họ đang hì hục “Lấy lửa đốt trời”

Nhưng ta thì đang uống cam lồ! và quí trọng họ! Vì họ đang giúp cho

ta “TU” Và tự thấy sung sướng vì ta có TU thật sự.Nở nụ cười An-lạc.

 

5. Bậc Nhàn Đạo Thiền Sư Huyền Giác lại dạy :

 

Quán Ác Ngôn Thị Công Đức,觀惡言是功德,

Tức Thị Thành Ngô Thiện Tri Thức.即是成吾善知識.

Bất Nhân Sán Báng Khởi Oan Thân,不因訕謗起冤親,

Hà Biểu Vô Sanh Từ Nhẫn Lực.何表無生慈忍力.

 

Huyền Tôn, Dịch:

Nghe lời hung ác, thêmcông đức, 

Ta cảm ơn người thiện tri thức.

Nếu vì oán trách khởi oan thân,

Sao được vô sanh từ nhẫn lực.

Trúc Thiên, Dịch:

Xét lời ác,ấy công đức

Đó mới chính là thầy ta thực.

Chớ vì báng bổ nổi oan thân

Sao tỏ vô sanh, nêu nhẫn lực.

Tu hành, gặp người ác mắng chưởi, ngay lúc đó ta tụng bài kệ này. Ta Tu Ngay lúc đó! Ta chuyển lời khó nghe thành lời “Công Đức” Ta coi họ là người bạn tốt, vì nhờ những lời mắng chưởi đó ta thấy ta là người có “TU” và đang Tu. Ta khởi tâm “Vui Sướng” vì ta đang có Đạo Lực Nhẫn Nhục liền cảm ơn họ. Ta mĩm cười, nếu không có những lời Ác độc đó thì suốt đời ta lấy đâu để biết ta có thật tâm tu hành. Tu đi bạn nhé!

 

6. Khuôn Việt Thái Sư.  Thời vua Đinh-Tiên-Hoàng (Đinh Bộ Lãnh)

Ngài Họ Ngô Pháp Hiệu Chân-Lưu. Năm (TL.971) Tân-mùi VNQL.3850. Ngài 40 tuổi, được Thụ phong Chức Khuôn Việt Quốc Sư ( hay Thái Sư)

Lo khuôn phò đất nước Việt. Vua vì quá mến phục tài năng và đạo dức của Ngài nên đã phong Tăng Thống về Phật Giáo. Khuôn Việt Quốc Sư quản Lãnh Triều Đình đối ngoại cho nhà Vua.Hơn 11 năm sau Vua Lê Đại Hành cũng kính trọng Ngài trong chức vụ TháiSư và nhờ Quốc Sư viết thư cho vua Tàu và tiếp sứ thần Lý Giác. Nhờ đó sứ Tàu thành tâm kính trọng Vua Nam.

 

Sứ viết Bài thơ như sau:

Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du,幸遇明時贊盛猷(mưu kế)

Nhứt thân lưỡng độ sứ giao châu.壹身兩度使交州

Đông đô tái biệt tâm vưu luyến,東都再別心尤戀

Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.南越千重望未休

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch.馬踏煙雲川浪石

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu.車辭青幛泛長流

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,天外有天應遠照

Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.溪潭波淨見蟾秋.

       

HT.Mật Thể, Dịch:

May gặp Minh-quân giúp việc làm.

Một mình hai lược sứ miền Nam.

Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ,

Muôn dặm non sông mắt chữa nhàm.

Ngựa đạp mây bay qua suối đá,

Xe vòng núi chạy tới giòng lam.

Ngoài trời lại có trời soi rạng,

Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.

        

HT.Huyền Tôn, Dịch:

Gặp buổi minh thời mưu tính xong,(Du. Là mưu kế)

Một thân hai lược sứ Giao Châu.

Đông Đô qua lại lòng lưu luyến,

Nam Việt ngàn trùng lắm nhớ mong.

Ngựa sãi gió mây xuyên suối đá,

Xe lăn nghiêng ngữa suốt dòng lưu.

Ngoài trời còn có trời soi sáng.(Vua Tàu và Vua Việt)

Biển lặng đầm trong thấy vẻ Thu.

        

Vua Đại Hành nhờ Quốc Sư Khuôn Việt, viết thư trả lời cho Sứ thần Lý Giác.

Thư viết theo điệu “Tống vương lan qui” như sau:

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương祥光風好錦帆張

Thần Tiên Phục đế hương.神仙復帝

Thiên lý vạn lý thiệp thiên lảng,千里萬里涉滄浪

Cửu thiên qui lộ trường.九天歸路長

Nhân tình thảm thiết đối ly tràng,人情慘切對離腸

Phan luyến sứ tinh lang.攀戀使星郎

Nguyện tương thâm ý vị Nam cương,願將深意為南強

       

Phân minh tấu ngã hoàng.分明奏我皇

Lẽ ra, Phân Minh Tấu “ Thượng “Hoàng, mới đúng. Ngã Hoàng”là Vua của Mình” Vì Sứ thần

Về lại Tàu, Tâu tốt với vua Tàu về việc của “Nam cương”.!

       

HT.Mật Thể, Dịch:

Gió hòa phất phớt chiếc buồm hoa,      

 Thần tiên trở lại nhà.(Tôn trọng cao quí)

Đường muôn nghìn dặm trải phong ba,

Cửa trời nhắm đường xa.

Một chén quan-hà dạ thiết-tha,   

Thương nhớ biết bao là.

Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà,
Bày tỏ với vua ta.        

 

HT.Huyền Tôn, Dịch:

Gió lộng buồm hoa thuyền lướt mau,    

Sứ thần trở lại “Tàu”. (1)

Biển rộng ngàn xa cảm xót đau,   

Trời xanh,xanh một màu.

Ân nghĩa người Nam thấm ngọt ngào,

Lưu luyến lòng xốn xao.

Tình thâm chan chứa biết là bao, 

Tâu rõ với Vua Nhà. (Thượng Hoàng).

(1): Tôn kính không quá cao.

          

7. CÓ , KHÔNG ?Thi cảm: HT.Huyền Tôn.

Chớ vương vào có, mơ có có,

Học đạo không không, phải thật không.

Có có mà chi, đeo với có,

Đã không, thì chớ cột vào không.

Luân-hồi sanh-tử, ôi có có!

Bỏ hết trần lao lặng lẻ không.

Có không, có có, không không có,

Bạn đã thấy gì, lẽ có không?

Cái có Chơn-thường là có có.

Cái không, không thiệt lại không không.

Tất cả đều không, không thật có,

Hiểu rồi thật có với thật không.

Không như sừng thỏ, là không có!

Có tợ chiêm bao, ấy có không?    

Chẳng chấp vào không, chấp vào có,

Thong dong tự tai, kể gì Có Không.

       

        8. HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ.

Nhạn Quá Trường Không,鴈過長空

Ảnh Trầm Hàn Thủy.影沈寒水    

Nhạn Vô Lưu Tích Chi ý,鴈無留跡之意

Thủy Vô Lưu Ảnh Chi Tâm.水無留影之心

        

HT. Nhất Hạnh, Dịch:

Nhạn bay ngang trời,

Bóng chìm đầm lạnh.

Nhạn không có ý để lại dấu tích,

Nước không có ý lưu giữ bóng hình.

        

HT.Huyền Tôn, Dịch:

Nhạn bay trên không, 
Bóng chìm trong nước.

Nhạn không có ý lưu hình,

Nước đâulại giữ bóng hình Nhạn bay.

 

Thiền ý : Đọc lời Thơ, Thấy cả có lẫn không. Có, có tất cả. Không, không tất cả! “Tánh Không” nhiệm mầu của “Thiền Thi” làm cho người đọc hiểu được Vật thể hiện ở nơi đâu, tTâm ảnh hiện ở nơi dó. Ly hai cảnh Tiền-trần tức nhận được Chơn-không.

 

        9. Vạn Hạnh Thiền Sư.

Thân Như Điện Ảnh Hữu Hoàn Vô,身如電影有還無,

Vạn Mộc Xuân Vinh Thu Hựu Khô.萬木春榮秋又枯.

Nhậm Vận Thạnh Suy Vô Bố Úy,任運盛衰無佈畏,

Thạnh Suy Như Lộ Thảo Đầu Phô.盛衰如露草頭鋪.

       

HT. Mật Thể, Dịch:

Thân như bóng chớp chiều tà,

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời.

Sá chi suy thạnh ở đời,

Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

        

HT.Thanh Từ, Dịch:

Thân như bóng chớp có rồi không,

Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng.      

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,

Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.

 

HT. Huyền Tôn, Dịch:

Thân như bóng chớp córồi không,

Cây cối xuân xanh, thu đổi hồng.

Mặc cuộc thạnh suy đừng lo sợ,

Thạnh suy như giọt, đọng sương đông.

 

10. Chuyết Công Thiền Sư. Đời thứ 27, Tông Lâm TếTrước Khi Viên Tịch Ngài Nói Thi Kệ :

 

Sấu Trúc Trường Tùng Trích Thúy Hương,瘦竹長松滴翠香

Lưu Phong Sơ Nguyệt Độ Vi Lương.流風初月度微涼

Bất Tri Thùy Trụ Nguyên Tây Tự,不知誰住原西寺 ?

Mỗi Nhựt Chung Thanh Tống Tịch Dương.每日鐘聲送夕陽

       

HT.Thanh Từ, Dich: 

Tre gầy thông vót nước rơi thơm,

Gió thoảng trăng non mát rờn rờn.

Nguyên Tây ai ở người nào biết?

Mỗi chiều chuông nổi đuổi hoàng hôn.

 

HT. Huyền Tôn, Dịch:

Tùng dài tre ốm nhỏ giọt thơm,

Trăng non gió thổi mát nhẹ vờn,

Nguyên Tây cổ tự ai đang ở ?

Chuông chùa ngân tỏa tản hoàng hôn

Nói kệ xong, Sư bảo đại chúng; “Nếu ai động tâm khóc lóc,không phải là đệ tử cùa ta”. Sư ngồi yên thị tịch, mùi hương lạ. đầy chùa cả tháng mới tan. Đồ chúng xây tháp để nhục thân của Sư tại núi Phật Tích,

        Kính mến chào độc giả!. HT.Thích Huyền Tôn.

        Mùa Vu-Lan 2642, VL.4897. Kỷ-hợi (TL.2019). 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5957)
Tôi muốn nói lên một lời cảm tạ Dịp xuân về nhớ lại mái chùa xưa Bên tách trà toả sáng pháp Đại Thừa Xin nguyện hướng về con đường Giác Ngộ.
(Xem: 4931)
Cuộc đời là cõi không hoa Tỉnh trong giây phút gọi ta trở về Xin luôn tâm niệm từng lời Những câu Phật dạy muôn đời chẳng quên.
(Xem: 5426)
Mây chùng ngõ vắng thoảng hơi sương, Vách đá cheo leo kẻ ngại đường. Tĩnh lặng trầm xông lơi cõi đắm, Mơ màng khói tỏa lạnh đời vương.
(Xem: 4763)
Già lam lẳng lặng mát hương thiền Lá cỏ vươn mầm loáng thoáng nghiêng Học đạo bên Thầy nương ngộ tánh Sống thời cạnh chúng biết tùy duyên
(Xem: 5353)
XUÂN về cảnh vật ánh dương ngời, XUÂN chúc ngày thêm sáng nụ cười. XUÂN vững tình thương xây nghĩa thắm, XUÂN giàu nghị lực mở lòng tươi.
(Xem: 4783)
Duyên Tam Bảo một đường thẳng tiến Nợ trần gian xin bỏ lại sau Ngày đêm tích đức thiện cao Phát huy Bi Trí khát khao hướng lành.
(Xem: 6685)
Xuân về thắm đẹp rực đào mai Mở cửa mừng xuân tháo buộc cài Ngắm cảnh xuân ngời tan bụi khói Nhìn xuân nắng rạng sạch rào gai
(Xem: 4291)
Tiền tài sương đọng giọt khuya sớm Danh vọng sóng trào bọt trước sau Thôi hãy mừng Xuân! Vui hiện tại! An nhiên ngắm nước chảy qua cầu.
(Xem: 5879)
Bình minh rực rỡ sắc tươi hồng Tiếng đại hồng chung vọng cửa Không Trong Điện nhang thơm bay phảng phất Trên Trời mây thắm lượn phiêu bồng
(Xem: 4360)
Mùa Xuân Di Lặc rạng ngời Muôn người hoan hỉ tươi cười bên nhau Nắng mai ấm cả vườn đào Tình người luôn vẫn đẹp màu thời gian
(Xem: 4959)
Danh mà chi Lợi mà chi Cuộc đời đến lúc cũng ra đi Con quỷ vô thường rình ẩn núp Đừng nên chậm trễ phút quy y.
(Xem: 4957)
Năm mới quyết tâm đổi mới Văn Tư Tu niệm chẳng quên Nguyện lòng theo chân Thầy Tổ Vui trong ánh đạo vững bền.
(Xem: 5217)
Di Đà Pháp Hội thật trang nghiêm Lễ Phật tụng kinh thắp nến nguyền Rạng ánh từ quang soi cõi thế Ngời vòng tuệ nguyệt chiếu nhân thiên
(Xem: 4940)
Giác Hạnh chùa quê đượm nét thiền Lá vàng từng chiếc nhẹ bay nghiêng Tăng nhân dưỡng đức trì Kinh tạng Tục khách quy tâm hướng Phật duyên
(Xem: 4833)
Tu hành vượt thoát tử sinh Nhờ ân Tam Bảo biết mình ở đâu Cội nguồn Diệu Pháp thâm sâu Ngẫm suy là bước khởi đầu từ đây.
(Xem: 5718)
Những con đường mặt đất hoang vu Tôi đến cùng hoa cỏ mộng du Gió thổi mãi muôn triều sóng vỗ Đường linh hồn biển động thiên thu.
(Xem: 5553)
Tiết lạnh sương tràn thấm dạ ai? Non cao người vắng có chi cài Chim buồn ngại hót nên đồi vắng Gió thoảng mây loang quyện dãi dài
(Xem: 6328)
Mây chùng ngõ vắng thoảng hơi sương, Vách đá cheo leo kẻ ngại đường. Tĩnh lặng trầm xông lơi cõi đắm, Mơ màng khói tỏa lạnh đời vương.
(Xem: 5159)
Ngày xưa có một ông vua Trong vương quốc nọ rất ư lạ đời Sinh con trai đủ trăm người Ông hoàng thứ một trăm thời dễ thương
(Xem: 4583)
Khóa Tu Báo Ơn năm nay, Chúng con tu tập những ngày mùa đông, Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng, Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
(Xem: 5349)
Tôi muốn nói lời xin lỗi Cho lòng nhẹ bớt ưu tư Đêm về ngủ ngon thẳng giấc Dưới vầng trăng sáng diệu từ.
(Xem: 3690)
Cuối năm ngồi tính sổ đời, Phong ba bão táp thôi thời chán ngây, Từ miền đông đến miền tây, Đâu đâu cũng có chuyện nầy chuyện kia.
(Xem: 4513)
Khởi niệm mong cầu chẳng ít chi Sống đạo hành thâm khó thể bì Tham vấn minh sư khai tuệ nhãn Đoạn trừ mê vọng dứt ngu si
(Xem: 3675)
Tiếng mõ huyền vi tiếng mõ nào, Trời thơ hoa mở cánh xôn xao Từ Cung Đâu Suất ngời hương đạo Thoảng giấc mơ đời cánh gió trao.
(Xem: 4742)
Bao giờ ta biết thương nhau Cho niềm vui mãi ngày nào còn đây Bao giờ ta biết ngừng gây(điều ác) Dù cho nhắm mắt đẹp ngay nấm mồ Bao giờ ta biết cơ đồ(sự nghiệp)
(Xem: 5828)
Pháp Phật khai thông dòng bế tắc Sạch bóng vô minh thoát nỗi buồn Sáng đẹp cõi lòng hương toả khắp Duyên Pháp nguyện hành dứt bỏ buông.
(Xem: 5120)
Nơi miền Bắc Ấn Độ xưa Thành Ba La Nại có vua trị vì Nhà vua có vị quan kia Rất là khôn khéo ai bì được ngang
(Xem: 4994)
Nhật Tụng Sơ Thời cốt tuỷ kinh Trực chỉ nhân tâm hiển tánh mình Xa lìa khái niệm thông đạt ý Giải thoát tâm hồn đẹp tánh linh
(Xem: 4967)
Một hôm đạo sĩ A La Trên đường khất thực ghé qua một nhà Chuyên buôn vàng bạc, ngọc ngà Giàu sang tột bực, xa hoa tuyệt vời.
(Xem: 4778)
Nhật Mộng Đồ Huyễn bên tai còn vang vọng Lời của Thầy như tiễn bước hoàng hôn Tiếng chuông chùa nghe sâu lắng tâm hồn Tôi ngồi đó mà lòng như sống dậy.
(Xem: 6127)
Màn đêm phủ xuống cảnh mờ sương, Ánh nguyệt lung linh rọi nẻo đường Gió nhẹ vờn lay hồ sóng gợn Mây lành tỏa quyện núi đồi vương
(Xem: 3870)
Xuân đi xuân đến để xuân sang, Xuân rãi hương hoa khắp muôn ngàn, Xuân vẫn là xuân, xuân bất tận, Thế thái nhân tình hợp rồi tan...
(Xem: 5478)
Uất hận làm chi ở kiếp này Khởi niệm tâm từ chuyển bước ngay Mang dòng đuốc tuệ đem soi sáng Thoát nghiệp si mê rõ tháng ngày.
(Xem: 4662)
Xưa trong làng nhỏ vùng quê Có ông đánh trống chuyên nghề lâu nay Một hôm ông được cho hay Tại Ba La Nại nơi đây ăn mừng
(Xem: 4526)
Tôi mơ cõi nước Ta Bà Miễn sao cuộc sống chan hoà tình thương Lòng không sầu muộn vấn vương Vui niềm xả bỏ đoạn trường bủa vây.
(Xem: 4886)
Xan tham tật đố hãy thầm buông, Diệu pháp thường nghe thoát não buồn. Kệ ngọc siêng trì gìn nghĩa cội, Kinh vàng gắng tụng giữ ân nguồn.
(Xem: 3656)
Tôi mơ cõi nước của Đức Phật Di Đà, Nơi không có con người gian dối. Không có qủy ma, Cho nên cây trái ở đây cũng mang vóc dáng thật thà.
(Xem: 5136)
Chuông chùa thức tỉnh khách trần ai, Lắng dịu sầu đau, tưởng giác đài.
(Xem: 4618)
gày xưa có một gia đình Tiền rừng bạc bể quả tình giàu sang Con trai sinh được một chàng Trưởng thành, học vấn vững vàng vừa xong
(Xem: 4155)
Ở Ba La Nại xa xưa Trị vì là một vị vua lâu đời Vua sinh ra một con trai Lớn lên độc ác ít ai sánh cùng
(Xem: 5053)
Diệu Quang đại chúng nhớ Người Đạo cao đức trọng một đời hiến dâng Sư Bà xả bỏ báo thân Vui chơi tịnh cảnh giác trần thong dong
(Xem: 6293)
Rồi tất cả tan theo làn mây khói Bao thăng trầm thế sự cũng qua đi Tử và sanh tiếp diễn chẳng kể chi Cứ mặc kệ hãy sống đời thanh thản.
(Xem: 4590)
Sen vàng nâng bước Người đi, Tăng Ni Phật Tử khắc ghi hạnh nguyền... Diệu Từ Ni Trưởng thâm uyên, Diệu Quang một thuở tinh chuyên đạo mầu
(Xem: 4765)
Sương sa vạn vật gợi tình quê, Lắng nhẹ trần gian, nghĩa đạo kề. Đường tuệ sáng, trăng soi dáng núi, Cảnh tâm trong, gió lộng hương đê
(Xem: 8344)
Kiếp xưa nhờ đủ phước duyên Hướng tâm tu Phật muộn phiền biến tan Ta không tham nhiễm thế gian Cuối đời nhắm mắt chẳng ràng buộc chi.
(Xem: 5863)
Bây giờ mùa đã chớm vào Đông Mây trắng mù giăng, trắng ngõ lòng ! Thăm thẳm chiều xa buồn cánh nhạn Hắt hiu đời quạnh nhớ mênh mông.!
(Xem: 8041)
Quê hương trời Việt bao la Chan hoà khắp cả trong ta kiếp nào Tình yêu hương thắm ngọt ngào Như nguồn suối chảy dạt dào quanh năm.
(Xem: 5675)
U nhàn, cảnh tịch, gợi nhàn thêm, Lặng tiếng hưu nai, vắng bóng thềm. Mù núi lạnh, gió lay khóm trúc, Mịt trăng mờ, mây phủ sương đêm.
(Xem: 4775)
Tại nơi tịnh xá Trúc Lâm Thành Ba La Nại, mùa Xuân đã về Đất trời tĩnh lặng bốn bề Muôn hoa phô sắc sum suê trên cành
(Xem: 3631)
Từ tâm giúp đỡ cứu thương đời, Tĩnh lặng lòng an rạng mắt môi. Niệm Phật tham thiền nên gắng tấn, Sát Sanh hại vật hãy xa rời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant