Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

“Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

28 Tháng Giêng 202023:19(Xem: 4955)
“Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

Đọc “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems”

Nguyên Giác

bia sach Tho Thien Le Nguyen Zen Poems

Trong khi chờ năm mới, một trong những niềm vui lớn là có vài ngày thư thả để lòng lắng xuống, mở trang sách xưa để đọc lại thơ Thiền… Năm nay, niềm vui của tôi là đọc tác phẩm “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” – một tuyển tập song ngữ Anh-Việt, một công trình văn học mất hơn 10 năm để thực hiện.

Bản sách giấy trong lần xuất bản 2019 của NXB Hội Nhà Văn chỉ in 500 ấn bản, dày 160 trang, trên khổ giấy quý 25 X 25 cm. 

 

Bìa sách “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems.”

 

Chủ biên là Nguyễn Bá Chung; dịch thơ tiếng Việt là Nguyễn Duy – Nguyễn Bá Chung; dịch thơ Anh ngữ là Sam Hamill – Nguyễn Bá Chung; Hòa Thượng Thích Phước An viết Lời giới thiệu (trang 11-13); Nguyễn Duy Sơn thực hiện phần hình ảnh; Nguyễn Duy thiết kế tổng thể; Võ Anh Thơ thiết kế mỹ thuật.

Có thể hình dung mức độ thực hiện rất mực công phu, khi chúng ta đọc thấy trong Lời Cảm Tạ. Trong đó  nơi trang 9-10 ghi rằng:

“… Trước tiên, chúng tôi xin cảm tạ Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã cung cấp cho chúng tôi bản chữ Hán của 12 bài thơ mà chúng tôi không tra cứu được. Thầy Tuệ Sỹ đã hoan hỷ đọc qua một bản thảo trước đây của Tuyển Tập này, chỉ dạy cho chúng tôi biết các thuật ngữ Phật giáo đã được chuyển dịch sang Hán văn như thế nào, và đã sửa cho chúng tôi một số lầm lỗi. Những lời phê bình của Thầy về bản dịch thơ tiếng Việt hết sức xác đáng và đã được điều chỉnh. Ở giai đoạn cuối, Tiến sĩ Trần Thị Hải Yến, Trưởng phòng Văn học Việt Nam Cổ Trung Đại, Viện Văn học, đã đọc lại toàn bộ Tuyển Tập, chỉ ra một số sai sót, giúp Tuyển tập hoàn thiện hơn. Gần đây nhất Tiến sĩ Nguyễn Nam, giảng viên sáng lập Trường Đại Học Fullbright Việt Nam, đã duyệt lại toàn bộ Tuyển tập và cung cấp phông chữ Hán cho soạn giả. Chúng tôi thành thật tri ân tất cả các học giả nêu trên.”

Nghĩa là, Tuyển tập được thực hiện rất mực công phu. Và do vậy, có thể xem như toàn bích về các ý nghĩa nhà Thiền khi dịch thơ.

Nhà văn Cao Huy Thuần trong bài viết nhan đề "Thơ Thiền" trên tạp chí Diễn Đàn nơi đầu bài ca ngợi Tuyển tập: 

“Nguyễn Duy qua chơi Pháp, mang theo quyển sách "Thơ Thiền Lê-Nguyễn" anh vừa xuất bản cùng với Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill. Sách in mỹ thuật, giấy láng, bìa cứng, ảnh đẹp, sang trọng, cầm trên tay chỉ muốn nâng niu. Lời giới thiệu ở đầu sách, dưới ngòi bút của thầy Thích Phước An, xứng tầm với sách, đầy đủ trong nội dung, đạo vị trong lời lẽ, tưởng khó nói gì thêm.” (1)

Thật đúng như thế, khó nói gì thêm.

Nói về ý nghĩa nhà Thiền, đã được hai vị Thầy lớn -- Thầy Tuệ Sỹ và Hòa Thượng Thích Phước An – đọc, góp ý, hiển nhiên là toàn hảo, không thể sơ suất.

Nói về chữ nghĩa, Nguyễn Duy là một trong vài nhà thơ xuất sắc hàng đầu của dân tộc, khi dịch lại thơ Thiền trong thể lục bát, hiển nhiên là tuyệt bút khó tìm.

Nói về bản dịch sang tiếng Anh, cả hai học giả Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill đều là hai cổ thụ trong học giới Hoa Kỳ. 

Do vậy, tác phẩm song ngữ Anh-Việt “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” là một viên ngọc sáng trong các ẩn phẩm –có giá trị trên nhiều lĩnh vực như thi ca, Thiền lý, văn dịch đối chiếu… Rất mực hy hữu.

Nơi đây, chỉ xin đưa ra vài điểm nhận thấy trong khi đọc. Bản thân tôi vốn học Anh văn không được chính quy, cho nên ý kiến nơi đây chỉ là nghi vấn, không dám nói là nhận định.

Chữ “vị sư” (trong đoạn gần giữa trang 11) trong bài của Thầy Phước An được dịch là “bonze” (gần giữa trang 14). Đây là một chữ rất hiếm khi gặp. Trong hai trang nhà lớn nhất về Phật giáo (SuttaCentral và Access to Insight) khi dùng chức năng search, chúng ta không thấy chữ “bonze” nào. Chữ cổ nhất là "bhikkhu" (phiên âm: tỳ khưu, hay tỳ kheo), chữ thường nhất là “monk” (sư) hay “nun” (ni sư) – và khi viết tránh phân biệt tính phái là dùng chữ “monastic.” 

Trong khi đó, theo tôi nhớ, trong suốt thời đi học của một người bình thường tại Việt Nam, có lẽ cũng không gặp chữ “bonze” tới một lần. Chữ “bonze” chỉ gặp trong học giới Hoa Kỳ, phần lớn có liên hệ tới các văn thư công quyền Hoa Kỳ, dễ gặp nhất là các văn thư về Việt Nam trong năm 1963. 

Như thế, xin nêu nghi vấn, có phải các dịch giả (Nguyễn Bá Chung và Sam Hamill) muốn tạo ra một văn phong cổ và đặc biệt nhắm tới một đối tượng độc giả là các học giả Hoa Kỳ quen thuộc với lịch sử VN thời kỳ 1950s-1970s? 

Có một suy nghĩ về trích dẫn. Nơi trang 12, bản Việt ngữ, và trang 14, bản Anh dịch, Thầy Phước An có dẫn hai đoạn từ hai kinh, một từ Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh) và một từ Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh) nhưng không ghi ký số, cho nên độc giả có muốn tìm bản gốc trong hai tạng kinh kia cũng khó dò nổi, vì Tương Ưng Bộ có hơn ba ngàn bản kinh, và Trung Bộ có tới 152 bản kinh.

Nhưng cách viết như thế sẽ tránh sự rườm rà, không làm độc giả suy nghĩ về ký số, và sẽ tập trung vào thơ dịch hơn. Nghĩa là, viết theo kiểu “Đức Phật nói rằng…” nhưng không dẫn ra bản kinh gốc. 

Mặt khác, cũng có thể nhận thấy tính đa dạng trong văn phong dịch. Bài thơ “Du Nam Hoa Tự” của Nguyễn Trãi (1380 – 1442), có hai câu cuối nơi trang 18 là:

Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy,

Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.

Trong phần dịch (trang 20) dịch nghĩa hai câu cuối là:

Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa,

Rửa sạch bụi bám đời đời cho nhân gian.

Dịch thơ hai câu này, Nguyễn Duy và Nguyễn Bá Chung viết:

Tào Khê tuôn chảy một giòng

Tẩy cho muôn kiếp sạch bong bụi trần.

Độc giả có thể khởi lên ý nghĩ: có gì khác giữa chữ “dòng” và chữ “giòng” trong cùng trang 20? Tại sao trong cùng trang, lại dùng hai chữ khác nhau (tuy rằng, cả hai chữ đều đúng và đều phổ biến)?

Ngó sang trang 21, thắc mắc cũng hiện ra. Vì bản tiếng Anh, nơi phần dịch nghĩa hai câu này viết:

stream of Tao Khe passes by the gate

Clean all the dusts that have clung in so many life-times to people.

Hai câu trong phần này Hamill dịch sang thơ là:

Tao Khe River flows beside the gate,

Clean the dust that has clung to so many people’s lives.

Hiển nhiên là dịch giả cố ý dùng hai chữ khác nhau trên cùng trang, vì có thể hiểu rằng chữ stream là dòng nước nhỏ, và river là dòng nước lớn… và dịch giả muốn giữ văn phong riêng. Nói như thế, để biết rằng dịch giả đã cân nhắc nhiều chữ, để dùng trong nhiều ngữ cảnh, chứ không phải tự tiện. Xin nhắc lại, tiếng Anh của bản thân tôi học không chính quy, cho nên không dám khẳng định về ngữ nghĩa. Chỉ suy đoán theo trực giác thôi.

Một bài thơ nổi tiếng của ngài Minh Châu Hương Hải (1628 – 1715) nơi trang 30 có hai câu đầu là:

Phan văn tự kỷ mỗi thường quan

Thẩm sát tư duy tử tế khan.

Trong phần Việt dịch trang 32, dịch nghĩa là:

Mỗi giây phút trở về xem xét tâm mình

Khảo sát và tư duy thật kỹ càng.

Và do Nguyễn Bá Chung dịch thơ là:

Từng giây phút tự xét mình

Suy đi ngẫm lại tâm hình rõ ra.

Hai câu thơ theo âm chữ Hán-Việt nêu trên gần như ai trong nhà Thiền ở Việt Nam cũng thuộc nằm lòng. Nhưng chữ “tâm hình” của Nguyễn Bá Chung là chữ rất mới, thấy rõ là để giữ âm vận “inh” với chữ “mình” cuối câu lục ở trên. Sáng tạo chữ như thế là tuyệt vời, vì khi chúng ta đọc, tự nhiên cũng thấy nghĩa minh bạch. Mới biết, dịch là công trình gian nan, đầy sáng tạo.

Tuy nhiên, trong phần tiếng Anh của Sam Hamill, khi dịch câu đầu trong hai câu trên nơi trang 33, lại dư chữ, thành ra dư nghĩa.

Literal translation (Dịch nghĩa): 

Every moment be ready to watch one’s mind…

Và Poem (thơ):

Every moment, be prepared to watch one’s mind…

Về văn phạm và âm điệu thì hiển nhiên tuyệt vời, nhưng về Thiền lý thì lẽ ra nên rút ngắn hơn, bỏ nhóm chữ “be ready to” (sẵn sàng để) và bỏ nhóm chữ “be prepared to” (sắp sẵn để) thì sẽ trực tiếp hơn, lộ ý người thầy (Minh Châu Hương Hải) đang dạy học trò (độc giả).

Đối với người học Thiền, phần lớn thơ trong Tuyển tập đều quen thuộc. Nhưng trong Tuyển tập đã có thêm một số vị ít được quen tên, trong đó tôi ưa thích đặc biệt là bài thơ “Độc Phật Kinh Hữu Cảm” cùa Nguyễn Danh Nho (1638-1699). Ngay lần đầu mở ra đọc, bản âm Hán-Việt ở trang 34, bản Việt dịch trang 36 và bản Anh dịch trang 37, tôi say mê tức khắc, và thắc mắc tại sao tới bây giờ mình mới gặp bài thơ này.

Thơ của Nguyễn Duy và Nguyễn Bá Chung cũng tuyệt vời, khi dịch bài của Nguyễn Danh Nho với 4 câu cuối thất ngôn bát cú chuyển sang lục bát:

Nghiệp anh hùng, lá thu rơi

Giàu sang, hoa rụng giữa trời mưa xuân.

Không tức sắc, sắc tức không,

Có đâu sừng thỏ rùa lông bao giờ!

Dòng cuối đảo chữ “sừng thỏ rùa lông” (lẽ ra: sừng thỏ lông rùa) cũng là ứng biến để giữ vần “ông” vậy mà không làm vướng dòng suy nghĩ của độc giả, phải nói rằng tuyệt bút, nghe bất ngờ nhưng rất mực tự nhiên.

Trong Tuyển tập cũng có một bài thơ ít được các học giả về Thiền chú ý tới: bài thơ “Tiêu Tự Thần Chung” (Chuông Sớm Chùa Tiêu) của Mạc Thiên Tích (1708-1780), một võ tướng có công mở mang đất Hà Tiên và được Chúa Nguyễn phong chức Tổng Binh Đại Đô Đốc. Là con Mạc Cửu (người dẫn một nhóm người Trung Quốc tới Hà Tiên lập nghiệp vì chống triều đình nhà Thanh), Mạc Thiên Tích nhiều lần dẫn quân đánh bại quân thổ phỉ Trung Quốc, quân Khmer, quân thổ phỉ Mã Lai… Khi quân Tây Sơn tấn công Gia Định năm 1776, Mạc Thiên Tích chạy qua Xiêm (Thái Lan); khi vua Xiêm nghi ông làm gián điệp cho Gia Định và giết các con lớn của ông và 50 người tùy tùng, Mạc Thiên Tích tự sát. Mạc Thiên Tích yêu thơ văn, đã tổ chức Tao đàn Chiêu Anh các. 

“Chuông Sớm Chùa Tiêu” là một bài thơ rất mực tuyệt vời. Trong Tuyển tập, bản âm Hán-Việt ở trang 58, bản dịch Việt ở trang 60, bản Anh dịch trang 61.

Bài thất ngôn bát cú, do Nguyễn Duy chuyển sang thơ lục bát, với 4 câu cuối như sau:

 

Giật mình nghe tiếng hạc qua

Quạ kêu nương bóng trăng tà cuối đêm

Mọi nhà còn tựa gối êm

Tiếng gà báo sáng rộ lên bốn bề.

Nỗi cô đơn cùng cực đã hiển lộ trong thơ, trong cái giật mình của nhà thơ, trong tiếng kêu lưng trời của chim hạc, và rồi nỗi cô đơn tột cùng hiện ra nơi ánh trăng nghiêng tà tà cuối đêm và rồi tiếng gà. Thơ Thiền hình như luôn luôn đi song hành với những nỗi cô đơn lạnh người như thế.

Trong Tuyển tập cũng có một tác giả ít được các sách về Thiền nhắc tới là Vũ Tông Phan (1800-1851), một nhà giáo dục và là bậc thi hào của thế kỷ 19.

Bài thơ họ Vũ nhan đề “Trấn Quốc Quy Tăng” bản âm Hán-Việt trang 110, bản Việt dịch “Sư Về Chùa Trấn Quốc” trang 112, bản Anh dịch “A Monk Returns To Tran Quoc Pagoda” trang 113. Đọc bài thơ này, chúng ta nhận ra nỗi cô đơn tột cùng của nhà sư trong thơ khi bước trở về ngôi chùa Trấn Quốc. Bài thất ngôn bát cú này có câu thứ năm và sáu, hiê3n lộ cái cô đơn tột cùng trong vũ trụ:

Lưu liên nguyệt trúc khan cô ảnh

Giải cấu vân âu nhận cổ bằng.

Dịch nghĩa nơi trang 112: 

Lưu luyến xem bóng cây trúc cô đơn lẫn dưới trăng

Tình cờ gặp gỡ chim âu với mây trời mà nhận ra [bạn cũ].

Chuyển sang dòng thơ lục bát tuyệt vời của Nguyễn Duy là:

Lặng xem trúc lẻ trăng ngà

Tình cờ chim bạn nhận ra mây lành…

Thơ Thiền nào cũng hiển lộ nét cô đơn trong vũ trụ tương tự như thế. Bởi vì trong Khổ Đế, xuyên suốt sinh, già, bệnh và chết luôn luôn là một chúng sinh và chỉ một đang chuyển biến, đang chảy xiết. Không ai ra đời giùm để chịu khổ giùm, không ai bệnh giùm và chịu chết giùm. Và trong tận cùng vẫn là nỗi cô đơn của người bước vào đường đạo, nơi đó nhà sư (hay nhà thơ) chỉ như cây trúc đơn độc đứng làm bạn với ánh trăng khuya, và chỉ như cánh chim âu đơn độc làm bạn với vầng mây cao.

Trong “Lời Giới Thiệu Tuyển Tập Thơ Thiền Lê-Nguyễn” do Hòa Thượng Thích Phước An viết, nơi trang 11-16, đã ghi nhận về Tuyển tập:

“Trong ba mươi tác giả của ba mươi bài thơ trong tuyển tập này, ta có thể thấy đủ mọi thành phần trong xã hội vào thời Lê Nguyễn.

Ngoài các Thiền sư ra , thì còn có vua chúa, giới quý tộc, những bậc anh hùng đánh đuổi giặc phương bắc xâm lược như Nguyễn Trãi, Ngô Thời Nhiệm, nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy thuốc Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, thi hào Nguyễn Du, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà Nho vui thú điền viên Nguyễn Khuyến đến cả kẻ nổi loan chống lại triều đình như Cao Bá Quát .v.v….nghĩa là tất cả đều lấy cảm hứng từ Phật Giáo hay những ngôi chùa của Phật Giáo.

Nhưng tại sao Phật Giáo lại được giới trí thức, Nho sĩ đón nhận một cách nồng nhiệt như vậy?”

Xin lập lại câu hỏi vừa dẫn: Tại sao giới trí thức đón nhận Phật Giáo một cách nồng nhiệt như vậy? Chúng ta cũng có thể hỏi thêm tương tự, rằng tại sao hoa lá cây rừng lại hướng về ánh mặt trời một cách nồng nhiệt? Câu trả lời đơn giản, vì Phật Giáo là ánh sáng, là giải thoát, là hạnh phúc tuyệt trần.

Tuyển tập song ngữ “Thơ Thiền Lê-Nguyễn Zen Poems” đã góp một phần rất tuyệt vời khi đưa ra ánh sáng một phương diện khác của ảnh hưởng Thiền tại Việt Nam: ba mươi bài thơ Thiền thời Lê-Nguyễn được phiên âm Hán-Việt, được dịch nghĩa, được chuyển thành thơ lục bát, và được dịch sang tiếng Anh cả phần nghĩa và thơ.

Tuyển tập này là một công trình hy hữu, cần hơn 10 năm để hoàn tất. Phật tử và các nhà nghiên cứu đang rất cần những công trình như thế.

Xin gửi lời chúc mừng Tuyển tập và trân trọng cảm ơn những người đã góp sức thực hiện Tuyển tập, cụ thể là Chủ biên Nguyễn Bá Chung, nhà thơ Nguyễn Duy và học giả quá cố Sam Hamill.

Vì chỉ in có 500 ấn bản, cho nên có thể sẽ khó tìm mua. Độc giả quan tâm, có thể email về NXB Hội Nhà Văn: nxbhoinhavan65@gmail.com

.

GHI CHÚ:

(1) Cao Huy Thuần. Thơ Thiền. Diễn Đànhttps://www.diendan.org/sang-tac/tho-thien

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5966)
Tôi muốn nói lên một lời cảm tạ Dịp xuân về nhớ lại mái chùa xưa Bên tách trà toả sáng pháp Đại Thừa Xin nguyện hướng về con đường Giác Ngộ.
(Xem: 4933)
Cuộc đời là cõi không hoa Tỉnh trong giây phút gọi ta trở về Xin luôn tâm niệm từng lời Những câu Phật dạy muôn đời chẳng quên.
(Xem: 5429)
Mây chùng ngõ vắng thoảng hơi sương, Vách đá cheo leo kẻ ngại đường. Tĩnh lặng trầm xông lơi cõi đắm, Mơ màng khói tỏa lạnh đời vương.
(Xem: 4768)
Già lam lẳng lặng mát hương thiền Lá cỏ vươn mầm loáng thoáng nghiêng Học đạo bên Thầy nương ngộ tánh Sống thời cạnh chúng biết tùy duyên
(Xem: 5364)
XUÂN về cảnh vật ánh dương ngời, XUÂN chúc ngày thêm sáng nụ cười. XUÂN vững tình thương xây nghĩa thắm, XUÂN giàu nghị lực mở lòng tươi.
(Xem: 4784)
Duyên Tam Bảo một đường thẳng tiến Nợ trần gian xin bỏ lại sau Ngày đêm tích đức thiện cao Phát huy Bi Trí khát khao hướng lành.
(Xem: 6692)
Xuân về thắm đẹp rực đào mai Mở cửa mừng xuân tháo buộc cài Ngắm cảnh xuân ngời tan bụi khói Nhìn xuân nắng rạng sạch rào gai
(Xem: 4295)
Tiền tài sương đọng giọt khuya sớm Danh vọng sóng trào bọt trước sau Thôi hãy mừng Xuân! Vui hiện tại! An nhiên ngắm nước chảy qua cầu.
(Xem: 5888)
Bình minh rực rỡ sắc tươi hồng Tiếng đại hồng chung vọng cửa Không Trong Điện nhang thơm bay phảng phất Trên Trời mây thắm lượn phiêu bồng
(Xem: 4374)
Mùa Xuân Di Lặc rạng ngời Muôn người hoan hỉ tươi cười bên nhau Nắng mai ấm cả vườn đào Tình người luôn vẫn đẹp màu thời gian
(Xem: 4973)
Danh mà chi Lợi mà chi Cuộc đời đến lúc cũng ra đi Con quỷ vô thường rình ẩn núp Đừng nên chậm trễ phút quy y.
(Xem: 4968)
Năm mới quyết tâm đổi mới Văn Tư Tu niệm chẳng quên Nguyện lòng theo chân Thầy Tổ Vui trong ánh đạo vững bền.
(Xem: 5225)
Di Đà Pháp Hội thật trang nghiêm Lễ Phật tụng kinh thắp nến nguyền Rạng ánh từ quang soi cõi thế Ngời vòng tuệ nguyệt chiếu nhân thiên
(Xem: 4944)
Giác Hạnh chùa quê đượm nét thiền Lá vàng từng chiếc nhẹ bay nghiêng Tăng nhân dưỡng đức trì Kinh tạng Tục khách quy tâm hướng Phật duyên
(Xem: 4843)
Tu hành vượt thoát tử sinh Nhờ ân Tam Bảo biết mình ở đâu Cội nguồn Diệu Pháp thâm sâu Ngẫm suy là bước khởi đầu từ đây.
(Xem: 5725)
Những con đường mặt đất hoang vu Tôi đến cùng hoa cỏ mộng du Gió thổi mãi muôn triều sóng vỗ Đường linh hồn biển động thiên thu.
(Xem: 5561)
Tiết lạnh sương tràn thấm dạ ai? Non cao người vắng có chi cài Chim buồn ngại hót nên đồi vắng Gió thoảng mây loang quyện dãi dài
(Xem: 6344)
Mây chùng ngõ vắng thoảng hơi sương, Vách đá cheo leo kẻ ngại đường. Tĩnh lặng trầm xông lơi cõi đắm, Mơ màng khói tỏa lạnh đời vương.
(Xem: 5173)
Ngày xưa có một ông vua Trong vương quốc nọ rất ư lạ đời Sinh con trai đủ trăm người Ông hoàng thứ một trăm thời dễ thương
(Xem: 4589)
Khóa Tu Báo Ơn năm nay, Chúng con tu tập những ngày mùa đông, Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng, Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
(Xem: 5359)
Tôi muốn nói lời xin lỗi Cho lòng nhẹ bớt ưu tư Đêm về ngủ ngon thẳng giấc Dưới vầng trăng sáng diệu từ.
(Xem: 3698)
Cuối năm ngồi tính sổ đời, Phong ba bão táp thôi thời chán ngây, Từ miền đông đến miền tây, Đâu đâu cũng có chuyện nầy chuyện kia.
(Xem: 4520)
Khởi niệm mong cầu chẳng ít chi Sống đạo hành thâm khó thể bì Tham vấn minh sư khai tuệ nhãn Đoạn trừ mê vọng dứt ngu si
(Xem: 3680)
Tiếng mõ huyền vi tiếng mõ nào, Trời thơ hoa mở cánh xôn xao Từ Cung Đâu Suất ngời hương đạo Thoảng giấc mơ đời cánh gió trao.
(Xem: 4753)
Bao giờ ta biết thương nhau Cho niềm vui mãi ngày nào còn đây Bao giờ ta biết ngừng gây(điều ác) Dù cho nhắm mắt đẹp ngay nấm mồ Bao giờ ta biết cơ đồ(sự nghiệp)
(Xem: 5834)
Pháp Phật khai thông dòng bế tắc Sạch bóng vô minh thoát nỗi buồn Sáng đẹp cõi lòng hương toả khắp Duyên Pháp nguyện hành dứt bỏ buông.
(Xem: 5120)
Nơi miền Bắc Ấn Độ xưa Thành Ba La Nại có vua trị vì Nhà vua có vị quan kia Rất là khôn khéo ai bì được ngang
(Xem: 4997)
Nhật Tụng Sơ Thời cốt tuỷ kinh Trực chỉ nhân tâm hiển tánh mình Xa lìa khái niệm thông đạt ý Giải thoát tâm hồn đẹp tánh linh
(Xem: 4972)
Một hôm đạo sĩ A La Trên đường khất thực ghé qua một nhà Chuyên buôn vàng bạc, ngọc ngà Giàu sang tột bực, xa hoa tuyệt vời.
(Xem: 4782)
Nhật Mộng Đồ Huyễn bên tai còn vang vọng Lời của Thầy như tiễn bước hoàng hôn Tiếng chuông chùa nghe sâu lắng tâm hồn Tôi ngồi đó mà lòng như sống dậy.
(Xem: 6141)
Màn đêm phủ xuống cảnh mờ sương, Ánh nguyệt lung linh rọi nẻo đường Gió nhẹ vờn lay hồ sóng gợn Mây lành tỏa quyện núi đồi vương
(Xem: 3880)
Xuân đi xuân đến để xuân sang, Xuân rãi hương hoa khắp muôn ngàn, Xuân vẫn là xuân, xuân bất tận, Thế thái nhân tình hợp rồi tan...
(Xem: 5483)
Uất hận làm chi ở kiếp này Khởi niệm tâm từ chuyển bước ngay Mang dòng đuốc tuệ đem soi sáng Thoát nghiệp si mê rõ tháng ngày.
(Xem: 4682)
Xưa trong làng nhỏ vùng quê Có ông đánh trống chuyên nghề lâu nay Một hôm ông được cho hay Tại Ba La Nại nơi đây ăn mừng
(Xem: 4539)
Tôi mơ cõi nước Ta Bà Miễn sao cuộc sống chan hoà tình thương Lòng không sầu muộn vấn vương Vui niềm xả bỏ đoạn trường bủa vây.
(Xem: 4896)
Xan tham tật đố hãy thầm buông, Diệu pháp thường nghe thoát não buồn. Kệ ngọc siêng trì gìn nghĩa cội, Kinh vàng gắng tụng giữ ân nguồn.
(Xem: 3664)
Tôi mơ cõi nước của Đức Phật Di Đà, Nơi không có con người gian dối. Không có qủy ma, Cho nên cây trái ở đây cũng mang vóc dáng thật thà.
(Xem: 5144)
Chuông chùa thức tỉnh khách trần ai, Lắng dịu sầu đau, tưởng giác đài.
(Xem: 4634)
gày xưa có một gia đình Tiền rừng bạc bể quả tình giàu sang Con trai sinh được một chàng Trưởng thành, học vấn vững vàng vừa xong
(Xem: 4170)
Ở Ba La Nại xa xưa Trị vì là một vị vua lâu đời Vua sinh ra một con trai Lớn lên độc ác ít ai sánh cùng
(Xem: 5069)
Diệu Quang đại chúng nhớ Người Đạo cao đức trọng một đời hiến dâng Sư Bà xả bỏ báo thân Vui chơi tịnh cảnh giác trần thong dong
(Xem: 6304)
Rồi tất cả tan theo làn mây khói Bao thăng trầm thế sự cũng qua đi Tử và sanh tiếp diễn chẳng kể chi Cứ mặc kệ hãy sống đời thanh thản.
(Xem: 4595)
Sen vàng nâng bước Người đi, Tăng Ni Phật Tử khắc ghi hạnh nguyền... Diệu Từ Ni Trưởng thâm uyên, Diệu Quang một thuở tinh chuyên đạo mầu
(Xem: 4774)
Sương sa vạn vật gợi tình quê, Lắng nhẹ trần gian, nghĩa đạo kề. Đường tuệ sáng, trăng soi dáng núi, Cảnh tâm trong, gió lộng hương đê
(Xem: 8351)
Kiếp xưa nhờ đủ phước duyên Hướng tâm tu Phật muộn phiền biến tan Ta không tham nhiễm thế gian Cuối đời nhắm mắt chẳng ràng buộc chi.
(Xem: 5868)
Bây giờ mùa đã chớm vào Đông Mây trắng mù giăng, trắng ngõ lòng ! Thăm thẳm chiều xa buồn cánh nhạn Hắt hiu đời quạnh nhớ mênh mông.!
(Xem: 8051)
Quê hương trời Việt bao la Chan hoà khắp cả trong ta kiếp nào Tình yêu hương thắm ngọt ngào Như nguồn suối chảy dạt dào quanh năm.
(Xem: 5684)
U nhàn, cảnh tịch, gợi nhàn thêm, Lặng tiếng hưu nai, vắng bóng thềm. Mù núi lạnh, gió lay khóm trúc, Mịt trăng mờ, mây phủ sương đêm.
(Xem: 4779)
Tại nơi tịnh xá Trúc Lâm Thành Ba La Nại, mùa Xuân đã về Đất trời tĩnh lặng bốn bề Muôn hoa phô sắc sum suê trên cành
(Xem: 3639)
Từ tâm giúp đỡ cứu thương đời, Tĩnh lặng lòng an rạng mắt môi. Niệm Phật tham thiền nên gắng tấn, Sát Sanh hại vật hãy xa rời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant