Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

29 Tháng Tám 202019:32(Xem: 6859)
Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Viết về tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” của thi sĩ Tâm Tấn

 

Huỳnh Kim Quang

Tu nhà năm mấy tuổi đầu

Lẽ huyền chưa đạt thâm sâu Bến Bờ

Chừ nương cảnh chợ sống hờ

Thử xem nhẫn nhục còn chờ những chi?

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.”

(Tâm Tấn, Đêm Huyền)

 

Mấy câu thơ ở trên đã diễn bày được trọn vẹn cuộc đời của một người nữ cư sĩ tu tại gia “nương cảnh chợ sống hờ,” nhưng kiến giảitâm nguyện thì hướng tới cảnh giới bất nhị “Niết Bàn-Địa Ngục bất ly.” 

Đó là một đoạn của bài thơ Đêm Huyền trong tuyển tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương,” đã được xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 2004, của nữ sĩ Tâm Tấn, đã qua đời vào ngày 13 tháng 7 năm 2020 tại thành phố Nha Trang, Việt Nam, thượng thọ 100 tuổi. 

Tuyển tập thơ này tôi đã đọc từ sau khi nó được phổ biến tại Hoa Kỳ do người con trai của nữ sĩ Tâm Tấn là nhà văn Vĩnh Hảo thực hiện. Bây giờ nhân cụ ra đi về cõi Phật, nhà văn Vĩnh Hảo tặng cho tôi để đọc lại và cũng để tưởng niệm công đức của nữ Sĩ Tâm Tấn đối với nền văn học nước nhà nói chung và nền văn học Phật Giáo Việt Nam nói riêng. 

Thú thật, lần này đọc lại tập thơ tôi rất đỗi ngạc nhiênthú vị vì chất thơ thấm đẫm hương vị văn chương và chất Phật cao thâm siêu thoát trong thơ của bà.

Nói nào ngay, xét ra tôi cũng rất có duyên với gia đình nữ sĩ Tâm Tấn. Tôi biết bà từ những năm sau 1975, chính xác là năm 1976. Nhưng bà thuộc thế hệ tiền bối nên chỉ biết mà không thân cận. Ngược lại tôi quen thân với nhiều người con của bà, như thi sĩ Phù Du Vĩnh Hiền, nhà văn Vĩnh Hảo, nhà văn Vĩnh Hữu, Vĩnh Hiếu và Vĩnh Bình. 

Trong bài thơ Đêm Huyền vừa trích, có mấy câu đáng suy gẫm:

 

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.

 

Thi sĩ Tâm Tấn đưa ra một hình ảnh rất đời thường để nói đến lý bất nhị của Niết BànĐịa Ngục: trong và ngoài cánh cửa. Đọc câu sau chúng ta sẽ thấy đó là cánh cửa tâm. Đúng vậy, Niết Bàn hay Địa Ngục cũng từ tâm mà ra. 

Điều khá lý thú khác ở đây là thi sĩ đưa ra thí dụ về việc mở tâm và khép tâm. Mở tâm thì bước vào cõi Ta Bà khổ đau. Khép tâm thì thể nhập Chơn Không tịnh lạc. Đây là một ẩn dụ rất sâu xa cho thấy thi sĩ Tâm Tấn là người Phật tửtu tập. Mở tâm tức là hướng tâm ra ngoài, là vọng động chạy theo trần cảnh. Khép tâm tức là xoay tâm vào bên trong nội quán để thể nhập Chơn Không. 

Thi sĩ Tâm Tấn kết thúc bài thơ Đêm Huyền với mấy câu thấm đẫm chất Phật:

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

Trăng nương gió lật trang Thơ

Đèn khuya bấc lụn trầm tư đêm huyền.

 

Triết lý nhị đế dung thông của nhà Phật nằm gọn trong câu “Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.” Sống trong cõi tục đế, tức cõi thế gian phàm tục, nhưng lòng thì không bao giờ quên đại nguyện chứng nhập vào cõi xuất thế của Chân Đế, Chân Như

Hai câu cuối chuyên chở chất liệu văn chương làm say mê người đọc. Ở đây thi sĩ mô tả cảnh đêm trăng huyền diệu mà bà đang thưởng lãm. Chính tâm cảnh ngắm trăng thơ mộng đó đã như chất liệu kỳ diệu cho thơ trào ra. Thi sĩ đã sử dụng một ẩn dụ đầy sáng tạo “Trăng nương gió lật trang Thơ” để miêu tả cảm trạng xúc cảnh sanh tình gây cảm hứng cho hồn thơ tuôn chảy. Câu sau cùng là một câu thơ có họa và nhạc. Họa là ngọn đèn mà cái bấc đã cháy gần cạn nên ánh sáng còn yếu ớt huyền ảo. Nhạc là qua khung cảnh một người ngồi trước ngọn đèn leo lét nhìn bên ngoài ánh trăng như ảo như mộng, có thể nghe được sự tĩnh lặng sâu lắng trong khung cảnh này.

Trong bài thơ “Quán Thế Âm Tịnh Thánh,” thi sĩ Tâm Tấn đã thổ lộ tâm tư của bà với Bồ Tát:

 

Con từ bao kiếp Vô minh,

Vãng lai vấp ngã Tử Sinh đôi bờ.

Đò thiêng lỡ chuyến bơ vơ,

Xôn xao nghiệp Ái gánh hờ Trần Duyên.

 

Đó là lời bộc bạch chân thật của một người Phật tử tại gia đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong đoạn thơ trên, chúng ta thấy thi sĩ Tâm Tấn trong cõi sâu xa của tâm thức dường như không thể quên ước nguyện từ vô lượng kiếp muốn đáp chuyến đò từ bờ bên này sinh tử luân hồi sang bên kia bờ giải thoát niết bàn. Có lẽ vì thế, đối với bà, nghiệp trần duyên của kiếp này chỉ là “gánh hờ” chứ không phải là sự nghiệp trường cửucứu cánh mà bà nhắm tới. Nhưng nói thế không có nghĩa bà không sống hết mình với vai trò của một người vợ một người mẹ. Nhà văn Vĩnh Hảo đã viết về người Mẹ của ông trong Đôi Lời Vào Tập của tập thơ Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương như sau.

“Người mẹ thi sĩ của chúng tôi đẹp, hiền lành, nhân ái, quả cảm, tận tụy một đời chăm sóc chồng con; vất vả trăm chiều sinh và dưỡng bầy trẻ 14 đứa… Cuộc đời Mẹ, từ những con chữ trên trang giấy cho đến những hạt gạo, miếng vải, mồ hôi nước mắt, lời ru giọng hát, tiếng khen thưởng con ngoan, hay tiếng la trách con hư… đều toát lên cái ý vị phong nhiêu diệu vợi của thơ, và của tình.”

Từ bối cảnh tâm thức thấm nhuận Phật Pháp như thế, nên hơn 50 bài thơ trong tuyển tập “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” không bài nào, không câu nào không bàng bạc giáo lý Phật Đà.

Trong tập thơ nêu bật mấy chủ đề quan trọng mà thi sĩ Tâm Tấn hay nói đến, gồm Lễ Vu Lan với tình mẫu tử và hiếu đạo, tinh thần yêu chuộng hòa bình vì đó là bản chất của đạo từ bi của nhà Phật, các sự kiện liên quan đến lịch sử của đất nước và Phật Giáo Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1975.

Trong bài Cảm Niệm Vu Lan 2, thi sĩ Tâm Tấn tưởng niệm ân đức của bậc sinh thành, với lời thơ chí thành tha thiết.

 

Ba mươi năm sau… đầu con sương giá,

Ngồi thương cha nhớ mẹ tuổi hoàng hôn:

Bờ âm dương lấp biển với che nguồn,

Con chỉ thấy núi xa mây trắng hiện…

 

Hai tách trà thơm dâng vào cõi huyễn,

Dĩa trầu cau nồng thắm cũng hư vô!

Những giấc chiêm bao ôm mẹ mơ hồ

Những giọt lệ mừng cha tàn ảo ảnh…

Vén trí phàm phu phút giây nhập thánh,

Tâm là hoa xin hướng cội kỳ hoa.

Kinh Vu Lan ấm phủ mẹ Hồn cha,

Con quỳ lạy minh châu kim trượng chuyển

Ân Đại Hiếu Kiền-Liên muôn kiếp hiển…

Xin mẹ cha mau thoát khỏi luân hồi,

Chín phẩm sen vàng ân phước vào ngôi,

Con hồi hướng với tâm lành trọn kiếp.

 

Trong tình mẫu tử thiêng liêng, thi sĩ Tâm Tấn đã bày tỏ nỗi đau của người mẹ mất con trong bài Khóc Con.

 

Ai nỡ cướp con tôi măng sữa,

Chôn vùi sâu, cách cửa âm dương!

Nơi đây hơi Mẹ ấm giường,

Sao con nằm chốn gió sương mưa dầm?

Dưới huyệt trũng, nắng dầm thiêu đốt

Héo thân con, đau buốt lòng Me!

Mưa Đông rồi tiếp nắng Hè

Đất vun cỏ đắp khôn che ấm tình…

 

Là người Phật tử phụng thừa lời dạy từ bitrí tuệ của Đức Phật có nghĩa là không chủ trương, không hậu thuẫn cho bất cứ cuộc chém giết tương tàn nào đối với muôn vạn sinh linh. Điều đó cũng có nghĩa là người Phật tử luôn luôn sống với suy nghĩ, lời nói và hành động hàm chứa tinh thần hòa bình và nỗ lực kiến tạo cuộc sống hòa bình cho mình và cho tha nhân. Thi sĩ Tâm Tấn là mẫu người Phật tử như thế. Trong bài thơ “Lời Cầu Nguyện Hòa Bình,” thi sĩ Tâm Tấn bày tỏ ước mơ đất nước hòa bình sau bao nhiêu năm chiến tranh.

 

Thắp nến Diêm Phù xin châm lửa Tuệ

Trầm hương dâng, xin ngát Pháp Hoa tâm

Đàn con thơ thống thiết vọng hồng ân

Lễ Thành Đạo xin chuyển vần Xe Pháp.

Lạy Từ Phụ! quê hương con đổ nát

Vì Tham Kiêu đã khoác lốt cuồng chinh

Hai mươi năm thây chất bởi vô minh

Tưởng Tiên Dược đem Trường Sinh Bất Tử:

Chủ nghĩa này trưng chiêu bài, đưa nhủ!

Ý thức kia “Đời nguyên tử” khoe trao!

Năm tiếp năm vết Đạn xoáy Bom cào,

Ngày tiếp tháng Núi Sông gào “Độc Dược”!

Lạy Từ Phụ! xin ban niềm mộng ước

Bóng Thanh Bình làm linh dược hồi sinh.

 

Thi sĩ Tâm Tấn là người thân cận với chư tôn túc lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam từ thập niên 1950, khi bà được Cố Hòa Thượng Thích Trí Quang mời cộng tác cho báo Liên Hoa tại Huế. Rồi sau đó bà cộng tác với báo Bát Nhã của Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Vì vậy cuộc đời của thi sĩ gắn liền với vận mệnh của Phật Giáo Việt Nam từ đó về sau. Trong biến cố nhà Ngô đàn áp Phật Giáo vào năm 1963, thi sĩ Tâm Tấn đã là một trong những nhân chứng sống. Trong bài thơ Ác Mộng viết vào ngày 16 tháng 8 năm 1963, nghĩa là 4 ngày trước khi chính quyền Ngô Đình Diệm tổng tấn công vào chùa chiền trên toàn quốc, bà đã ghi chú ở cuối bài thơ rằng, “Vừa khóc vừa làm trong đêm 16/08/1963.”

 

Bạn ơi, bạn ơi! núi vun mây hận

Đất phương này sấm động náo tâm tư.

Vừng Từ Vân khuất lấp bởi sương mù,

Hoa Tinh Tấn dập vùi trong bão chướng.

Kinh ngạc sững sờ hồn không định hướng

Ngẩng nhìn cao tìm dấu vết Từ Vân.

Bắc Đẩu tinh phương chiếu rạng tinh thần

Vầng nguyệt từ bi biến mờ đâu cả!

 

Trong bài Áo Vàng Bất Diệt, thi sĩ kể tình hình Phật Giáo vận động cho tự dobình đẳng tôn giáo năm 1963 như sau.

 

Phật Giáo Tăng Ni, tín đồ tranh đấu

Thiết tha đòi Năm Nguyện Vọng thuần từ.

Nạn độc tài vận nước lúc suy hư,

Giáo Kỳ trưng lên, Giáo Kỳ triệt hạ!

Nhìn Thầy tuyệt thực, nắng sương đỏi lả,

Rồi nghe tin Thượng Tọa tự thiêu mình

Và  Sa Di, Đại Đức tiếp hy sinh

Lửa Tử Đạo bừng bừng trong ánh mắt.

 

Khép tập thơ lại. Lòng tôi dâng lên niềm cảm thán và kỳ thú. Cảm thán vì đọc được những bài thơ chứa chan tình đời nghĩa đạo. Kỳ thú vì không ngờ một người “chưa từng cặp sách đến trường” – như nhà văn Vĩnh Hảo đã viết trong lời đầu tập thơ – mà có thể có được kiến vănchữ nghĩa bác lãm và uyên thâm như thế. Đây quả thật là một sự hiếm có. Tôi tự giải thích cho chính mình với hai nhân duyên. Thứ nhất là nỗ lực phi thường của chính thi sĩ Tâm Tấn trong việc tự học trong đời này. Thứ hai là bà vốn có một thiên tư trí tuệ đặc dị mà không phải ai cũng có, nếu không muốn nói là bà mang chủng tử trí tuệ từ nhiều kiếp trước đến đời này. Điều này làm cho tôi rõ lý do tại sao thi sĩ đã nhiều lần nhắc đến ước nguyện trở về cố hương Chân Như trong trong tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.” 

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

 

Xin kính cảm ơn thi sĩ Tâm Tấn. Nhân tuần chung thất của bà, xin cầu nguyện bà sớm hoàn thành ước nguyện.

 Tap tho CUOI DOI LOC NHUNG TINH SUONG

Bìa tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.”

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5371)
Một món quà nho nhỏ Ấm lòng kẻ lỡ đường Đến những người bất hạnh Đang thiếu thốn tình thương .
(Xem: 6042)
Sau tám vạn bốn ngàn năm Dấn chân đường đạo, ẩn thân cửa thiền Sống đời tu sĩ bình yên Nhà vua hạnh phúc kia liền mệnh chung
(Xem: 5886)
Một lần té bẳy lần ta đứng dậy Đứng một mình tiếp tục bước đường đi Ta không mong ai cứu vãn điều gì Chỉ muốn được cất bước đi vô ngại .
(Xem: 6823)
Hình như đất vẫn thì thầm Đừng gieo thơ thẩn nẩy mầm thở than Hình như trời đã than van Sáng mưa chiều bão gió càng thong dong
(Xem: 7405)
Xã buông duyên phận một đời Giữ chi phiền muộn bởi lời thề xưa Vô thường réo gọi sớm trưa Học buông hành xã nắng mưa chẳng màng
(Xem: 7723)
Điều Ngự Trượng Phu xuất thế gian, Vô ưu mừng rỡ tỏa non ngàn. Tỳ Ni thị hiện sen nâng bước, Lộc Uyển quảng khai đạo khởi lan.
(Xem: 5565)
Không phiền não cầu mong chi giải thoát Cứ thong dong như nước chảy qua cầu (T.Tuệ Sĩ?) Người ơi đừng mãi lo sầu Mở tung cánh cửa nhiệm mầu tâm ta
(Xem: 6466)
Trầm hương len gió thắm y vàng, Phật Đản linh thiêng diệu thế gian. Vang vọng kinh thâm niềm hỷ lạc, Diễn bày pháp bảo hướng bình an.
(Xem: 5563)
Liễu nghĩa Phật Thừa khai Pháp Nhẫn Đường về Cực Lạc chẳng hề xa Thâm tín Phật ngôn lìa giả tướng Ta Bà (hay)Tịnh Độ ở Tâm ta . Quán chiếu lời vàng ngộ Sắc Không .
(Xem: 4618)
Thiền môn nét đẹp lắng yên Lòng người đạo sĩ an nhiên tháng ngày Mở khai tâm trí trong ngoài Như như bất động hiển bày nội tâm
(Xem: 5095)
Phật từng khuyên dạy chúng sanh: "Họa từ cái miệng phát sinh tức thời Các con ăn nói lựa lời Giữ gìn cái miệng cuộc đời được an!"
(Xem: 5365)
Ngài từ thuở rất xa xưa Quyền cao, chức trọng lại dư bạc vàng Nhưng về già nhận ra rằng Càng thêm tuổi tác lại càng khổ đau
(Xem: 5507)
Ba trăm sáu lăm ngày là mấy ? Cõi hồng trần trông thấy mà thương Đời người như khói mây sương Sáng trong lấp lánh vô thường biến tan .
(Xem: 12034)
Đọc tụng kinh văn lắng nghiệp trần, Lời kinh thánh thoát diệt tham sân. Đèn thiền tỏa chiếu xua niềm tục, Đuốc tuệ ngời soi thấu lẽ chân.
(Xem: 6028)
Vọng niệm lăng xăng suốt tháng ngày, Đảo điên, quanh quẩn, lắm dời thay. Đi đi, đến đến, thô tâm hiện, Đứng đứng, ngồi ngồi, vọng nghiệp bày
(Xem: 6007)
Chơn tâm tịch tĩnh chiếu đêm ngày, Động tịnh xưa nay, chẳng đổi thay. Đến đến, đi đi, tuỳ cảnh hiện, Cười cười, nói nói, ứng duyên bày.
(Xem: 5842)
Cuộc sống trăm năm tưởng đâu nhiều Nào ngờ như cảnh khói lam chiều Thoáng qua giây lát rồi tan biến Còn lại bầu trời thật đáng yêu .
(Xem: 6790)
Đưa người trở lại con đường Hiểu thương từ trong ánh mắt Rạng ngời khắp cả năm châu Muôn người cùng nhau khai phóng Niềm vui khắp cả địa cầu .
(Xem: 5847)
Thiêng liêng mầu nhiệm ánh dương tràn , Ban rải tình thương đến muôn vàn, Diễn giảng kinh vàng lan khắp chốn, Hoàng dương chánh pháp dứt kêu than.
(Xem: 5914)
Khổ lụy tai ương mãi bám vây Tới lui luẩn quẩn biết ai thay. Ba đường giác ngộ nào đâu thấy ! (*) Sáu nẻo trầm mê chẳng có hay !
(Xem: 5002)
Tháng tư hướng về quê cũ Hai bờ ngăn cách đại dương Biết bao người con dân Việt Ra đi mang cả tình thương .
(Xem: 6119)
Nụ cười kết nối tình ta Hoà trong ánh mắt thiết tha cõi lòng Cười cho xuyên suốt mây hồng Cho đời đẹp mãi tấm lòng bên nhau .
(Xem: 6299)
Có hai người bạn lái buôn Bàn nhau sửa soạn lên đường đi xa Đem hàng hóa để bán ra Cùng đi một hướng, cùng qua một vùng,
(Xem: 5930)
Tham lam, sân hận dài lâu Si mê không dứt, Đạo mầu chẳng tin Ngày lìa dương thế muộn phiền Vợ như nghiệp chướng theo liền bên ta,
(Xem: 6537)
Bình bát cơm muôn nhà Duyên hoá độ ngàn xa Bước đi cùng khắp chốn Mây trắng trải ngàn hoa .
(Xem: 6530)
Xôn xao trần thế sống an nhiên, Xả bỏ ưu tư chẳng lụy phiền. Sáng sáng tụng kinh trên điện Phật, Chiều chiều thiền tọa dưới hàng hiên.
(Xem: 6908)
Trong chiều nghiêng tím đỏ Giai điệu nào rung lên Đôi bàn tay bé nhỏ Trên dương cầm thân quen
(Xem: 10339)
Tôi đi trong chiều Cali Màu hoa vàng ngập tràn giữa chiều nắng gió Những cánh chim gọi nhau về tổ Mây tím vắt ngang chiều như tà áo ai bay
(Xem: 5675)
Hương phấn chiều về hoa trắng bay Đời ta trôi dạt tận phương này Vui cùng vui với nguồn tâm đạo Vui tiếng chuông chùa giữa đổi thay .
(Xem: 6888)
Chuông ngân từng tiếng thật linh thiêng, Cảnh tỉnh hàm linh khắp mọi miền. Xả bỏ phàm tình, tu thánh giáo, Gieo trồng tuệ nghiệp, chứng tâm nguyên.
(Xem: 5368)
Thiết nghĩ đời người chẳng bao lăm, Trao dồi đạo nghiệp nguyện tinh cần. Vun mầm đức tuệ, xây niềm lạc, Tưới nước bi từ dựng cảnh an.
(Xem: 7313)
Trăng thiền chiếu sáng khắp thiên nhân, Chiếu nẻo vô minh, soi lỗi lầm. Chiếu cội Bồ Đề, soi thể tánh, Soi lòng Bát Nhã, tỏ nguồn tâm.
(Xem: 6982)
Ta về một cõi tâm không Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn Còn yêu một thuở đi hoang Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya
(Xem: 4799)
Vàng bạc giấy tiền đốt tiêu hao Ô nhiễm môi trường khổ biết bao Thà đem cứu giúp người đói khổ Phước đức ân sâu nghĩa đồng bào .
(Xem: 9198)
Đời là tạm chẳng có chi là thật Xác thân này cũng là cõi hư vô Nhìn hạt sương lóng lánh sáng hôm nào Một tia nắng biến tan về biển cả .
(Xem: 6578)
Ngoài trời mưa lạnh sáng nay Ta ngồi yên lặng nhìn ngay chính mình Cuộc đời là cả hành trình Buồn vui thương ghét tự mình biết thôi .
(Xem: 5576)
Thành Ba-La-Nại thuở xưa Ở miền bắc Ấn có vua trị vì Quốc vương nhiều ngựa kể chi Nhưng riêng một ngựa kia thì tuyệt luân
(Xem: 6760)
Duyên lành Thầy đã xuất gia, Bốn mươi năm chẳng như là chiêm bao Lăng Nghiêm vang vọng thuở nào Mà trong tiềm thức Ưu đàm rộ bông
(Xem: 6105)
Hạt giống Phật muôn đời như trăng sáng Thế mà ta chẳng nhận biết bao giờ Mãi mò tìm trăng dưới nước ngoài khơi Càng tìm mãi mãi càng thêm mệt xác .
(Xem: 6560)
Mắt em quán trọ của ngàn sao Ngọt ngất hoang sơ ánh rượu đào Pha loãng nắng tà dâng cát bụi Ấm lòng khách lữ bước lao đao.
(Xem: 5411)
Bốn chục năm qua một tấm lòng Ngoài đời trong đạo vẫn thong dong Không con không cái không sự nghiệp Ta vẫn là ta giữa đại đồng .
(Xem: 5793)
Lung linh tỏa sáng đài cao, Cúi đầu gập lạy len vào tánh trong. Hiểu rằng chẳng ỷ cầu mong. Nương theo pháp Phật thong dong cõi trần.
(Xem: 5702)
Mãi niệm thời qua trong tĩnh lặng, Luôn đi tháng đến chốn bình an. Sáng rồi quang rạng thêm ngày mới, Khổ ải trầm luân hiểu chẳng than.
(Xem: 7223)
Vì vô minh mãi quên đi Khi gieo nhân ác quả thì đớn đau Từ kiếp này qua kiếp sau Con đường địa ngục đọa mau thoát nào.
(Xem: 6818)
Tôi nhắc lại chúng sinh Đừng bao giờ bỏ cuộc Mặc chuyện chi xảy ra Mặc diễn tiến quanh ta Chớ bỏ cuộc bao giờ.
(Xem: 5185)
Đường tu chẳng muộn bao giờ Xin đừng cố đợi cố chờ làm chi Mai này ta có thể đi ( chết ) Còn đâu học pháp từ bi thánh hiền
(Xem: 5654)
Nhớ Thu xưa hoa đắng trái sầu Nhìn lá phong vàng thổn thức đau Khung trời kỷ niệm còn vương vấn Xuôi ngược dòng đời lắm khổ đau…
(Xem: 5799)
Đã hết rồi tuổi già sắp đến Đốt hương lòng thắp nến soi tâm Đã đi đã đến âm thầm Tử sinh một thoáng trầm luân vạn đời
(Xem: 8306)
Quan Âm đức hạnh nguyện cao thâm, Hiện tướng đoan nghiêm giữa thế trần.
(Xem: 5402)
Anh chồng khốn khổ mới tìm thiền sư Xin thầy mở rộng tâm từ Giúp chàng thoát cảnh dây dưa đọa đày.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant