Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí Huệ Là Thường Tự Thấy Lỗi Mình

09 Tháng Tư 202318:29(Xem: 1381)
Trí Huệ Là Thường Tự Thấy Lỗi Mình

Trí Huệ Là Thường Tự Thấy Lỗi Mình


Lục Tổ Huệ Năng

Nguyễn Thế Đăng

Vài Suy Nghĩ Về Thiền Phái Trúc Lâm Trong Bức Tranh Phật Giáo Việt Nam



1/ Trí huệ thường quán chiếu

Trong những bài thuyết pháp, Lục Tổ Huệ Năng nói nhiều đến thấy tánh, trí huệ Bát nhã… nhưng ngài cũng nói nhiều đến lỗi, những phiền não như ghen tỵ, tham sân, đố kỵ, ngã mạn...

Trí huệ Bát nhãbản tánh, là tự tánh của chúng sanh, “người đời vốn tự có”:

Thế nên biết rằng bản tánh tự có trí Bát nhã, bản tánh ấy tự dùng trí huệ thường quán chiếu, cho nên chẳng cần mượn đến văn tự. Cả thảy sông ngòi đều chảy vào biển cả, hợp thành một thể. Trí Bát nhãbản tánh của chúng sanh lại cũng như vậy.

Người tiểu căn nguyên có trí Bát nhã, không khác biệt với người đại trí, mà do sao nghe pháp lại chẳng tỏ ngộ? Do là sự che chướng của tà kiến còn nặng, gốc rễ phiền não ăn sâu, giống như đám mây lớn che khuất mặt trời, không có gió thổi tan thì ánh sáng mặt trời không hiện”.

(Phẩm Trí Huệ)

Hành trí huệ là không để mây vọng niệm che chướng mặt trời trí huệ:

Tất cả nơi chốn, tất cả thời gian, niệm niệm chẳng ngu, thường hành trí huệ tức là hạnh Bát nhã. Một niệm ngu tức là Bát nhã tuyệt, một niệm trí tức Bát nhã sanh.

Thiện tri thức! Trí huệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, biết bản tâm mình. Nếu rõ bản tâm tức là vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát nhã tam muội. Bát nhã tam muội tức là vô niệm.

Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy biết hết thảy pháp mà tâm chẳng nhiễm dính, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng dính bám tất cả chỗ. Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm, không tạp, đến đi tự do, thông dụng không trệ, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm”.

(Phẩm Trí Huệ)

2/ Lỗi là gì?

Lỗi là “duyên theo tâm mê”, một niệm ngu”, “tà kiến phiền não”.

Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ duyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ

Lỗi là tâm tà, phiền não, độc hại, hư vọng, trần lao, tham giận, ngu si:

Mê muội tự tánh tức là chúng sanh. Giác ngộ tự tánh tức là Phật. Từ bi tức Quan Âm, hỷ xả gọi là Thế Chí, thường tịnh tức là Thích Ca, bằng thẳng tức là Di Đà.

Nhân ngãnúi Tu di, tâm tà là nước biển, phiền não là sóng lớn, độc hại là rồng dữ, hư vọngquỷ thần, trần lao là cá mập, tham giận là địa ngục, ngu sisúc sanh.

Thiện tri thức! Thường làm mười điều thiện thì thiên đường liền đến, trừ nhân ngã thì núi Tu di sụp, bỏ tâm tà thì nước biển cạn, không phiền não thì sóng lớn diệt, độc hại trừ thì cá rồng tuyệt.

Trên đất tâm mình là tánh giác Như Lai, phóng ánh sáng lớn, ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá các cõi trời Lục dục. Tự chiếu bên trong ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tây phương. Chẳng tu như thế thì làm sao đến cõi kia được”.

(Phẩm Nghi vấn)

Trí huệ là thường quán chiếu tự tâm, dứt ác làm thiện, để tự mình khai mở cái thấy biết của Phật (Phật tri kiến):

Người đời tâm tà, ngu mê tạo tội, miệng nói thiện tâm nghĩ ác, tham giận, ghen ghét, dối nịnh, ngã mạn, lấn người hại vật, ấy là tự mình khai mở cái thấy biết của chúng sanh. Nếu có thể chánh tâm thường sanh trí huệ, quán chiếu tự tâm, dứt ác làm thiện, ấy là tự mình khai mở cái thấy biết của Phật”.

(Phẩm Cơ duyên)

Quán chiếu tự tâm, tự tánh, là thực hành trí huệ:

Ba là Huệ hương, tâm mình không bị ngăn ngại. Thường dùng trí huệ quán chiếu tự tánh, chẳng tạo ra các xấu ác. Tuy tu các điều thiện lành mà tâm không bám níu, kính người trên nghĩ đến người dưới, thương xót những kẻ côi cút nghèo cùng. Ấy là Huệ hương”.

(Phẩm Sám hối)

Chính khi quán chiếu tự tâm, tự tánh mà người ta tìm thấy lỗi mình, và cũng do ánh sáng của trí huệ quán chiếu ấy mà lỗi lầm được chuyển hóa, tiêu tan, như bóng tối gặp ánh sáng mặt trời. Trí huệ chính là pháp thân vốn có nơi mình:

Thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng. Trí huệ thường sáng, do vì bám cảnh bên ngoài nên bị đám mây vọng niệm che khuấttự tánh chẳng được sáng tỏ. Nếu gặp thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ mê vọng thì trong ngoài sáng suốt, trong tự tánh mình muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng giống như vậy. Đây gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật”.

(Phẩm Sám hối)

Thế nên chẳng lìa tự tánh, an trụ trong tự tánh trí huệ thì ánh sáng của nó sẽ làm tiêu tan những phiền não tham sân si để chuyển hóa thành giới định huệ của tự tánh:

Hãy dùng đại trí huệ mà phá tan năm uẩn, phiền não, trần lao. Tu hành như đây thì quyết định thành Phật đạo, biến ba độc tham sân si thành Giới, Định, Huệ.

Pháp môn đây từ một Bát nhã sanh ra tám vạn bốn ngàn trí huệ. Tại sao thế? Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu khôngtrần lao thì trí huệ thường hiển hiện, chẳng lìa tự tánh”.

(Phẩm Trí huệ)

 

Điều thứ hai, khi quán chiếu tự tâm, tìm thấy lỗi mình, nếu quán chiếu cho đến tận gốc rễ của những lỗi lầm phiền não thì người ta sẽ khám phá ra nền tảng của chúng mà từ đó chúng phát sanh. Nền tảng đó là tự tánh vốn có sẳn của mình.

Những lỗi lầm, phiền não, trần lao là những ý nghĩ lỗi lầm, những ý nghĩ xấu và kể cả những ý nghĩ tốt, chúng đều che lấp bản tâm, tự tánh khiến chúng ta không thể thấy bản tâm, tự tánh vốn thanh tịnh của mình:

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn sự đều từ tự tánh sanh: nghĩ lường tất cả sự ác tức sanh hạnh ác, nghĩ lường tất cả sự thiện tức sanh hạnh thiện. Như vậy các pháp ở trong tự tánh mình, như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng nhưng vì những đám mây ý nghĩ che lấp nên trên sáng dưới tối. Khi gió thổi mây tan thì trên dưới đều sáng, muôn hình tượng đều hiện”.

(Phẩm Sám hối)

Khi biết rằng mọi ý nghĩ, mọi niệm đều khởi lên từ tự tánh, người ta nhận ra tự tánh, nền tảng của mọi khởi niệm:

Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay”.

(Phẩm Định Huệ)

Biết rằng mọi ý nghĩ tốt xấu, mọi niệm đúng sai đều khởi lên từ “tự tánh chân không”, thì các niệm ấy cũng sẽ tan vào tự tánh chân không. Chứng biết như vậy, người ta có thể giải thoát khỏi sự trói buộc của các niệm bằng cách để cho các niệm tự giải thoát lấy chính chúng, tự tan biến vào nền tảng của chính chúng.

Đây là hiệu quả thứ hai của việc thường tự thấy lỗi mình.

Tóm lại, việc thấy lỗi là để không bị lỗi trói buộc và che chướng, do đó thấy cái chân thật xưa nay.

 

3/ Thấy lỗi của người khác

Lỗi lầmchấp ngã, chấp pháp, thấy có bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, từ cái thấy sai lầm ấy sanh ra tranh chấp, cải cọ, hơn thua, cao thấp, thế nên tự tánh vốn không có sanh tử lại tự tạo cho mình sanh tử khổ đau:

Nếu tâm miệng đều thiện thì trong ngoài nhất như, định huệ bình đẳng.

Hãy tự ngộ tu hành chẳng phải ở nơi tranh luận. Nếu sanh niệm người trước người sau bèn đồng với người mê. Chẳng dứt được hơn thua, cao thấp thì càng thêm chấp ngã chấp pháp, chẳng lìa được bốn tướng”.

(Phẩm Định Huệ)

Lỗi lầm căn bản là sự phân biệt khiến xa cách với người khác, với môi trường xung quanh, từ đó những phiền não sinh sôi, thương ghét, lấy bỏ, tranh cãi, cho đến chiến tranh. Cứ như thế, người ta tự đưa mình vào sanh tử:

Tông này vốn không tranh

Tranh luận mất ý đạo

Giữ pháp môn trái cãi

Tự tánh vào sanh tử.

(Phẩm Phó chúc)

Muốn đạt đến một vị bình đẳng của tự tánh, phải không thấy lỗi của người khác và cố chấp vào đó để tranh hơn thua, như thế mới đạt được sự bình đẳng của ta và người, “trong ngoài nhất như, định huệ bình đẳng”.

Nếu thật người tu đạo

Chẳng thấy lỗi thế gian

Nếu thấy người khác lỗi

Tự mình đã sai rồi

Người lỗi ta chẳng chê

Ta chê, ta có lỗi.

Chỉ dẹp tâm thấy lỗi

Phiền não thảy phá trừ

Thương ghét chẳng dính tâm

Nằm duỗi hai chân nghỉ.

(Phẩm Trí huệ)

Sở dĩ như thế bởi vì khi thấy lỗi của người thì đó chính là phiền não của mình thấy, chứ chẳng phải tự tánh định huệ bình đẳng thấy.

 

Với chính mình, lỗi lầm là lìa tự tánh, là lìa trí huệ quán chiếu, để cho phiền não lôi kéo ra khỏi sự sống động, sáng tỏ của tự tánh khiến lạc vào sanh tử:

Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không trệ ngại, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật, đó gọi là công đức.

Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài là hành theo lễ là đức. Tự tánh kiến lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm là đức.

Nếu tìm công đức Pháp thân, hãy y theo đây mà làm, đó là chân công đức”.

(Phẩm Nghi vấn)

 

4/ Thường thấy lỗi trong tự tâm

Khi dạy cho Sa di Thần Hội, Lục Tổ nói về tự thấy lỗi mình như sau:

Có một đồng tử tên là Thần Hội, con nhà họ Cao ở Tương Dương, mười ba tuổi, từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ.

Sư nói: Người tri thức khó nhọc từ xa đến, có đem theo được cái gốc chăng? Nếu có gốc thì phải biết ông chủ, nói thử xem.

Thần Hội thưa:  Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.

Sư nói: Sa di kia sao lại bắt chước lời nói của người.

Thần Hội bèn thưa: Hòa thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng thấy?

Sư lấy gậy đánh ba cái, nói: Ta đánh ngươi, đau hay chẳng đau?

Thần Hội thưa: Cũng đau cũng chẳng đau.

Sư nói: Ta thấy cũng chẳng thấy.

Thần Hội hỏi: Sao là thấy cũng chẳng thấy?

Sư nói: Ta thấy là thường thấy lỗi trong tự tâm, chẳng thấy những phải   trái tốt xấu của người, đó là cũng thấy cũng chẳng thấy. Ngươi nói đau cũng chẳng đau là thế nào? Ngươi nếu chẳng đau thì đồng với gỗ đá, còn đau thì đồng với phàm phu, liền sanh giận hờn. Trước ngươi hỏi thấy hay chẳng thấy, đó là hai bên, cũng đau cũng chẳng đau, đó là sanh diệt. Tự tánh của ngươi, ngươi còn chẳng thấy, sao dám đùa cợt người?

Thần Hội lạy tạ xin lỗi

Sư lại nói: Nếu ngươi tâm mê chẳng thấy, thì hỏi thiện tri thức tìm ra con đường. Còn nếu ngươi tâm ngộ, tức là tự thấy tánh, thì y pháp tu hành. Ngươi tự mê chẳng thấy tự tâm, lại hỏi ta thấy hay chẳng thấy. Ta thấy thì tự biết, đợi gì cái mê của ngươi? Ngươi nếu tự thấy cũng chẳng dính dáng gì cái mê của ta. Sao chẳng tự biết tự thấy, lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy.

Thần Hội làm lễ hơn trăm lạy, xin tha tội lỗi, rồi chuyên cần hầu hạ bên Tổ, chẳng khi nào rời”.

(Phẩm Đốn tiệm)

 

Khi nhờ trí huệ thường quán chiếu để những lỗi lầm trong tự tâm tiêu tan trong ánh sáng thường sáng của trí huệ, không còn bị các lỗi lầm trói buộc, ngăn ngại, người ta sẽ có được “bao nhiêu của báu hiện giờ” của đời sống chân thật. Trong lời dạy cho sư Pháp Đạt về tụng Kinh Pháp Hoa, Lục Tổ dạy (ở đây chỉ trích ra một đoạn):

“…Huống gì văn kinh đã nói rõ cho ông, chỉ có một Phật thừa, không có thừa nào khác. Nếu kinh nói hai thừa, ba thừa cho đến vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ thì các pháp ấy đều chỉ là một Phật thừa mà thôi.

Sao ông chẳng xét ba xe, ba thừa là giả, là chuyện thời trước, một thừa là thật, là chuyện bây giờ, ấy là dạy cho ông bỏ giả về thật. Đã về thật rồi thì cái thật ấy cũng không có tên nữa.

Vậy phải biết bao nhiêu của báu hiện có ấy đều thuộc về ông, tùy ông thọ dụng; lại chẳng tưởng của cha, cũng chẳng tưởng của con, cũng không có tưởng việc thọ dụng. Đó mới gọi là trì kinh Pháp Hoa, từ kiếp này sang kiếp khác tay chẳng rời cuốn kinh, từ ngày đến đêm, không lúc nào chẳng niệm”.

(Phẩm Cơ duyên)

Khi không còn bị các lỗi ràng buộc, che chướng, người ta được tự do, tự do này Lục Tổ gọi là thấy tánh:

“Nếu ngộ tự tánh thì cũng chẳng lập Bồ đề Niết bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến. Không có một pháp có thể đắc mới có thể kiến lập vạn pháp, nếu rõ ý này, cũng gọi là Phật thân, cũng gọi là Bồ đề Niết bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến.

Người thấy tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, đến đi tự do, không ngưng không ngại, ứng dụng tùy làm, ứng lời tùy đáp, hiện khắp hóa thân mà chẳng lìa tự tánh, tức là được tự tại thần thông, du hý tam muội, ấy gọi là thấy tánh”.

(Phẩm Đốn tiệm

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3924)
Vùng kia có một ông tăng Giỏi nghề họa sỹ nên thường vẽ thuê Tiền công tính đắt khỏi chê Khách hàng trả trước, khó bề thiếu ông
(Xem: 3470)
Bát quan trai giới xuất gia, Một ngày trọn đủ ngọc ngà sánh chi, Gieo duyên tu Pháp từ bi, Tám điều giới cấm tường tri rõ ràng.
(Xem: 4802)
Tu hành biếng nhác mãi thôi Cho nên vẫn bị luân hồi tử sanh, Rồi than Phật chẳng độ mình Trách luôn Phật Pháp chẳng linh, chẳng mầu!
(Xem: 6225)
Rời xa lậu nghiệp chớ làng nhàng, (*) Tham ái thêm nhiều khổ lụy mang. Việc đến luôn chăm tâm chẳng buộc, Chuyện qua mãi khuất dạ không ràng.
(Xem: 3721)
Trùng dương biển thắm gió ngàn khơi, Ánh giác rạng soi ngập đất trời. Trực nhận chơn tâm xa bể đắm, Hằng nghe diệu pháp cạn châu rơi.
(Xem: 6167)
Cảm Đức Từ Bi phước lớn Một lòng hướng Phật chuyên tu Xoá tan cuộc đời tăm tối Mở tung cánh cửa ngục tù.
(Xem: 4918)
Ngày xưa có một ông sư Ngồi thiền tinh tấn, rất ư chuyên cần Nhiều năm tu tập qua dần Một ngày trong lúc chú tâm ngồi thiền...
(Xem: 3021)
Hiểu rõ luôn vui cùng chốn ấy… Thôi thì hổng giận cả trần đây… Như làn gió mỏng, duyên đà trẩy… Cầu nguyện đường về thẳng hướng Tây…
(Xem: 3169)
Ôi ! Người Mẹ của tôi Bốn ngàn năm nổi trôi Sụt sôi lòng căm hờn Thù ngoài cùng giặc trong
(Xem: 5016)
Bóng cha xưa dưới bầu trời nắng sớm Như thiên thần đang dạo giữa cõi tiên Và quê hương rất đẹp cảnh thiên nhiên Có những cánh đồng thơm mùa lúa trổ
(Xem: 5085)
Ở trong tịnh xá Kỳ Hoàn Nơi thành Xá Vệ hương ngàn thênh thang Cỏ cây rực rỡ ánh vàng Phật ngồi thuyết pháp cho hàng chư Thiên.
(Xem: 5507)
Bát cơm chén nước mẹ trao Nuôi con khôn lớn công lao dưỡng từ Cuộc đời mẹ chẳng gì dư Bao năm khổ cực không từ gian nan .
(Xem: 3744)
Bao mùa lá rụng vẫn buồn thê, Giọt nắng lung linh gợi nhớ về. Bỏ hết xuân thời Mẹ nỡ kể, Theo cùng tuổi hạc Người còn lê.
(Xem: 3544)
Mấy thu con chưa gặp mẹ, Lòng nghe buồn mênh mông, Ở đây cuộc đời sôi động, Sầu dâng nghiêng ngã trong lòng
(Xem: 3925)
Nhớ về cha, một buổi chiều, Bôn ba thân hạc dắt dìu các con, Kỷ niệm xưa nhớ mỏi mòn, Hoa rơi nước chảy đưa con về nguồn
(Xem: 5244)
Tình yêu của Mẹ tuyệt vời Như hòn đảo giữa biển đời mênh mông Biển bao la, rộng muôn trùng.
(Xem: 4421)
Sống chỉ là tạm gởi Chết mới thật trở về Ta về nơi cửa Phật Bỏ lại đời nhiêu khê .
(Xem: 4986)
Nếu con có thể dâng lên Biếu cho Mẹ quý Mẹ hiền kim cương Đền bù mỗi giọt lệ vương Mẹ thường than khóc vì thương con mình.
(Xem: 5188)
Khỉ kia nhiều vợ, lắm con Thuở xưa tụ họp ở luôn vùng này Thật là đông đúc vui vầy Khỉ cha cai trị cả bầy từ lâu
(Xem: 4489)
Mẹ Quan Âm muôn đời cứu khổ Biết ơn Ngài ta lắng lòng nghe Dù cho gió cuốn mây che Niệm Ngài nhớ mãi thuyền ghe đến bờ .
(Xem: 4826)
Thân tướng đẹp cuộc đời Thầy lại ngắn Nét tươi cười rộng đẹp cả con tim Thế gian này đâu phải dễ kiếm tìm Bậc Thiền Đức sống tu hành tịnh vắng .
(Xem: 5197)
Tâm ta đẹp do tu mà có Trải rộng lòng đừng khó làm chi Tự mình cất bước mà đi Thoát vòng mê chấp sầu bi chẳng còn .
(Xem: 4288)
Xưa rời cung điện ra đi Giờ đây thành đạo trở về thăm cha Hai mươi năm thoáng trôi qua Quê hương Đức Phật Thích Ca đón người
(Xem: 7019)
Tu tâm hiển hiện, ánh vàng sen, Chướng nghiệp lìa xa, lặng đảo điên. Mù khử, hận tiêu, tâm định tĩnh, Đục trừ, sân hết, ý an yên.
(Xem: 9632)
Nàng thu vừa gõ cửa Chân rón rén qua thềm Đêm qua hồn hoa cúc Cựa mình tạ từ sen.
(Xem: 4566)
Tiền thân Đức Phật một thời Từng là chú khỉ sống nơi khu rừng Thân hình to lớn hào hùng Xiết bao mạnh mẽ, vô cùng thông minh,
(Xem: 3340)
Bảy mươi năm, những thăng trầm dâu bể, Thầy vẫn đi, mang đuốc tuệ sảng soi, Giáo Pháp truyền trao, mệt mỏi chẳng nàn, Để gần gũi chúng con hàng Phật Tử.
(Xem: 4604)
Mùa An Cư Tăng Ni hội tụ Hướng tâm về giới hạnh trang nghiêm Chuyển đưa giáo pháp con thuyền Y vàng thanh tịnh kết duyên thiện lành .
(Xem: 6883)
Tình cha cao vời vợi, Như núi Thái non bồng. Như trời cao thăm thẳm, Giữa vũ trụ mênh mông.
(Xem: 5765)
Ta là ai mà xem thường quả báo Ngày qua ngày tạo nghiệp bất thiện thôi Rồi vướng trong vòng cuốn của luân hồi Khổ càng khổ ôi muôn ngàn đau khổ .
(Xem: 5060)
Tôi muốn sống ở tuổi đời còn lại Nương con thuyền Bát Nhã vượt bờ mê Bao bão to sóng gió cũng chẳng hề Lòng kham nhẫn không bao giờ lùi bước .
(Xem: 4310)
Thiền sư hướng dẫn học thiền Bao nhiêu đệ tử khắp miền về đây Một anh chàng trong nhóm này Đêm thường lén dậy chuồn ngay ra ngoài
(Xem: 4698)
Thời gian lẳng lặng thoi đưa Thoắt qua thoắt lại bốn mươi năm vừa Nhớ lại ngày ấy năm xưa Một chín bảy bảy đẩy đưa xứ người
(Xem: 9031)
Lâu rồi chẳng thấy Tịnh Viên đâu. Có phải tơ duyên chuyển niệm đầu ? Nhớ thuở sum vầy nơi cửa trước, Hoài khi vắng vẻ chốn vườn sau.
(Xem: 4527)
Xin các Ngài hãy cùng nhau cứu xét Mở rộng lòng ngàn con trẻ đáng thương Đem tình yêu thắp sáng một con đường Cho các cháu cả niềm vui đoàn tụ .
(Xem: 4354)
Một lời nói thiếu lòng từ ái Đêm về nằm ngủ chẳng thấy yên Khi lòng thất niệm đảo điên Biết bao đau khổ não phiền khởi lên .
(Xem: 4628)
Bố thường ít nói: “Yêu con!” Mặc dù tình cảm sẵn luôn tràn đầy Tuy nhiên đôi chữ nhỏ này Rất là khó nói để thay tiếng lòng.
(Xem: 4026)
Cha chúng tôi rất nhọc nhằn Tay luôn làm lụng, tâm hằng lo toan Tạo cho cuộc sống chu toàn Chúng tôi được hưởng bình an vô cùng.
(Xem: 4582)
Bà kia bồng đứa con thơ Dừng chân hóng mát bên bờ hồ sen Thấy tay con trẻ lấm lem Mẹ bèn múc nước hồ đem rửa liền
(Xem: 4937)
Tôi có một dòng máu Theo suối từ triền non Luân lưu dòng Lạc Việt Xuôi chảy hòa biển Đông Tôi có một mầu da Đượm vàng đất phù sa Giải giang sơn chữ S Ơn dựng nước Ông Cha
(Xem: 9359)
Cuộc đời ai cũng như ai Ai ăn thì nấy được đầy bụng no Đừng vay thì chẳng phải lo Tháng ngày thư thái đắng đo chẳng còn .
(Xem: 4981)
Ra đi lòng vẫn muốn về Thăm ngôi chùa cũ tràn trề nắng mưa Hàng cây bụi chuối đong đưa Mẹ già ngồi ngắm ruộng dưa chín mùa .
(Xem: 4085)
Đệ tử Phật vẫn một lòng thẳng tiến Luôn bảo tồn hình tượng Phật trang nghiêm Cuộc đời Ngài bi trí đủ uy nghiêm Xin nhớ rõ đừng mang tâm phỉ báng .
(Xem: 5426)
Sơ sanh bảy đóa sen nâng Phật từ Đâu Suất giáng trần độ sinh Mười phương trời đất chuyển mình Cùng hoà âm nhạc đón trình Như Lai
(Xem: 5531)
Trang sách quý nghĩa tình thêm cao quý Từ tấm lòng dâng hiến đạo huyền sâu Tuổi đã cao mà tâm trí vẫn tiếp thâu Nguồn Phật Pháp nhiệm mầu qua tu tập .
(Xem: 5587)
Dương trần đã xuống chịu nhiều đau, Mãi lộn theo vòng chẳng biết đâu? Hiểu rõ vong tồn như bụi khói, Nom tìm được mất chỉ tằm dâu.
(Xem: 4690)
Ngày xưa có một bầy nai Cùng nhau vui sống giữa nơi non ngàn Nai già khả kính, khôn ngoan Lại thêm khéo léo, giỏi giang, làm thầy
(Xem: 10214)
Bàn tay diệu pháp Phật trao Là dòng trí tuệ khổ đau chẳng còn Thong dong trời biển nước non Như tình mây nước trăng tròn sáng trong .
(Xem: 6554)
Quê hương mưa nắng dậm trường Gánh gồng mẹ Việt trên đường nuôi con Bây chừ con đã lớn khôn Bỏ quên bà Mẹ lưng còm vai cong .
(Xem: 6354)
Quê hương tôi hai mùa mưa nắng Bao cảnh đời cách biệt quá xa Người thì giàu có xa hoa Kẻ thì rau muối cũng qua tháng ngày .
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant