Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thông điệp tình thương của Đức Phật

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15650)
Thông điệp tình thương của Đức Phật

THÔNG ÐIỆP TÌNH THƯƠNG CỦA ÐỨC PHẬT

Nguyên tác: Dr. Rajendra Prasad
Chuyển ngữ: Hoà Thượng Thích Trí Chơn

 

Giới thiệu tác giả: Dr. Rajendra prasad (1884-1963), là một học giả và chính trị gia Ấn Ðố nổi tiếng. Tiến sĩ Prasad đã tham gia rất sớm phong trào tranh đấu chống thực dân Anh để giành độc lập tự do cho xứ sở. Sau ngày Anh quốc trao trả độc lập cho Ấn Ðộ vào năm 1947, hai lần ông được bầu làm chủ tịch Quốc Hội. Năm 1947-1949, ông giữ chức Chủ Tịch Hội Ðồng Lập Hiến, và được bầu làm Tổng Thống Ấn Ðộ đầu tiên từ năm 1952-1962. Ông mất năm 1963 . (Chú thích của dịch giả - HT Thích Trí Chơn)

 

Trải qua hơn 25 thế kỷ, giáo lý đức Phật và bức thông điệp của Ngài lưu truyền cho nhân loại vẫn còn vững chắc tồn tại với thời gian. Trong những sự nghiệp vĩ đại được xem như vĩnh cửubất biến, ta phải kể trước nhất là giáo pháp của đức Phật. Bức thông điệp hòa bình và từ bi của Ngài hiện nay vẫn còn sức thu hút chúng ta, mặc dù thế giới đã trải qua nhiêu thế kỷ biến đổi xã hộilịch sử. Giáo pháp của đức Phật bao hàm những triết thuyết mà chúng đã bồi đắp khá nhiều cho nền tư tưởng hiện đại. Ðức Phật là một nhà trí tuệ, và chân lý được Ngài xem như điều tối thượng, đúng như người ta đã gọi Phật Giáotôn giáo của lý trí.

Ngài dạy mọi người hãy tự thanh tịnh hóa bản thân trong ánh sáng trí tuệ của chính mình. Ðể đạt mục đích cao cả này, đức Phật đã dạy chúng ta Bát Chánh Ðạo, bao gồm tám nguyên tắc sống chân chính, được thể hiện qua năm giới cấm, đặc biệt là không sát sanh, không trộm cấp, không vọng ngữ, không tà hạnh và không uống rượu. Theo đức Phật, người nào giữ gìn không phạm năm giới điều vừa kể, và luôn hành động sáng suốt theo lý trí, họ có thể chứng quả Niết Bàn. Thật vậy, những phương pháp sống này có một giá trị quốc tế và không một xã hội văn minh tại bất cứ quốc gia nào trên thế giới có thể đưa ra những lời chỉ trích hoặc phản đối lại chúng.

Ðặc điểm khác của giáo lý đức Phật là bất cứ điều gì Ngài dạy đều xuất phát từ kinh nghiệm bản than; và đã được Ngài chứng minh bằng hành động thực tế. Cho nên thực hànhđặc tính của Phật Giáo. Ðức Phật chỉ cho chúng ta con đường dẩn đến Niết bàn, nhưng cùng lúc Ngài dạy rằng, mỗi cá nhân phải cố gắng tu tập để đạt đến mục đích ấy. Nói khác, đức Phật chỉ là bậc Thầy hướng dẫn, và hành động đi theo hay không là tùy thuộc ở mỗi chúng ta.

Ngài cũng bảo rằng mọi người phải tự thắp lên ngọn đuốc của chính mình, và trong đêm trường dày đặc bóng tối, con người phải tìm lấy hướng đi với sự soi sáng của ngọn đèn lý trí. Ngũ giớiBát Chánh Ðạo là phương tiện giúp con người tiến trên con đường ấy. Ðức Phật xem con người là tiêu điểm giáo lý của Ngài. Và lý trí chiếm một địa vị quan trọng, bởi đó là đặc tính căn bản phân biệt con người với những loài chúng sanh khác.

Với gương sáng tu tập của đức Phật Ngài đã trình bày những phương pháp để con ngườithể đạt đến cảnh giới toàn thiện bằng cách hành động theo con đường từ bitrí tuệ. Trong những lời Ngài dạy cho các Tỳ Kheo, không bao giờ Ngài tự nhận mình là nhân vật cao hơn người. Thật vậy, đức Phật đã tuyệt đối phủ nhận Ngài là nhân vật thần thánh cũng như là thiên sứ. Ðức Phật dạy chính nhờ ở năng lực thiền định, phát triển trí tuệ mà Ngài đã giác ngộ. Nói khác, là do ở ý chí kiên trì tu theo Bát Chánh Ðạo của Ngài vậy. 

Nghiệp lực hay hành động cũng được xem như lý thuyết căn bản của Phật Giáo. Ðức Phật tin vào sự không thể tránh của nghiệp lực, cùng tính bất biến của luật nhân quả, nhưng Ngài cũng xác nhận rằng con người có thể hoàn toàn tự do để làm lành và tránh ác, nhờ hành động theo lý tríBát Chánh Ðạo. Theo đức Phật, cuộc sống không chỉ bắt đầu bằng sự sanh và kết thúc bởi sự chết. Mà mọi chúng sanh đều phải trải qua vô lượng kiếp sống, và dòng sinh tử luân hồi này chỉ chấm dứt khi nào chúng ta đã hoàn toàn giác ngộ.

Hành động thiện ác, xấu tốt luôn luôn là vấn đề quan tâm của nhân loại. Con người cần biết điều xấu để tránh, cũng như điều tốt để theo. Sau khi trình bày giáo lý Bát Chánh Ðạo, đức Phật đã khuyên nhân loại nên thực hành theo chúng, với mục đích đạt đến giác ngộgiải thoát, chứ không phải mong được sanh lên các cõi trời sung sướng sau khi chết. Nếu đức Phật dạy rằng cuộc sống là khổ đau, thì cùng lúc Ngài cũng chỉ bày cho chúng ta phương pháp diệt trừ sự đau khổ đó. Một cách tổng quát, chúng ta thấy rằng giáo lý đức Phật bao gồm những đức tính căn bản như từ bi, hỷ xả, bất bạo động và hoà bình.

Tôi nghĩ, chính nhờ những nguyên tắc xử thế tốt đẹp này mà Phật Giáo xưa kia, đã từng được bành trướng mạnh mẽ và nhiều quốc gia ham chuộng. Vô số người nam nữ đã tìm thấy sự an lạchạnh phúc chân thật nhờ biết hành động theo Phật Giáo. Những lời dạy và phương pháp sống theo Phật Giáo này, đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền tư tưởng Ấn Ðộ. Ngày nay, chúng ta thấy các truyền thống tập quán đó đã góp phần to lớn vào gia tài văn hóa của đất nước chúng ta.

Lịch sử Ấn Ðộ đã lưu lại qua giáo lý đức Phật nhiều công trình vĩ đại trong mọi lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, triết học, văn chương và tổ chức xã hội. Lý tưởng của Ngài đã giúp cho dân tộc quốc gia này thực hiện được nhiều nỗ lực xây dựng lớn lao. Biết bao nhiêu kinh điển Phật Giáo chép bằng cổ ngữ Pali và Sanskrit (Phạn) tồn tại đến ngày nay thực sự đã góp một phần lớn vào gia tài văn hóa của chúng ta. Không những thế, kho tàng kinh điển này cũng đã tô bồi phong phú cho sự phát triển văn hóa của nhiều quốc gia Á Châu khác. Lịch sử chúng ta đã từng trải qua một thời đại hoàng kim với sự xuất hiện của nhiều trường đại học danh tiếng như Takshashila (1) Vikramasila (2) Nalanda (3) v.v…..được xem nhưtrung tâm nghiên cứu nền triết họcvăn chương Á Châu.

Những quốc gia như Trung Hoa, Ðại Hàn, Tây Tạng, Hồi Quốc, Mông Cổ, Mã Lai, Nam Dương, Miến Ðiện xưa kia đều có liên hệ tinh thần chặt chẽ với các Ðại Học trên. Hiện nay, tại các quốc gia này đang còn lưu lại hàng nghìn pho kinh điển Phật Giáo chép bằng quốc ngữ của họ, trong khi tại Ấn Ðộ những bản kinh chính đó lại không còn. Suốt trong tám thế kỷ từ thời đại vua A Dục (4) đến triều đại Guptas (5) Phật Giáo đã trở nên nguồn sáng tạo chính yếu cho mọi ngành mỹ thuật của chúng ta.

Nghệ thuật Phật Giáo cũng đã gây ảnh hưởng sâu xa cho nhiều khuynh hướng nghệ thuật và văn hóa tại các quốc gia Á Châu như A Phú Hản, Ðông Á, Trung Á, Trung Hoa và Tích Lan v. v…..Ngày nay, sự phát triển nghệ thuật của Ấn Ðộ đang còn chịu ảnh hưởng nhiểu bởi nghệ thuật Ajanta (6) của Phật Giáo. Giáo pháp của đức Phật, những trào lưu tư tưởng phát triển bởi Phật Giáo trong mọi lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, văn chương, theo thời gian qua, đã chiếm một phần lớn trong đời sống, tập quán và văn hóa của Ấn Ðộ. Không riêng Ấn Ðộ mà toàn thế giới ngày nay đang khẩn thiết cần đến bức thông điệp hòa bình, tiến bộxây dựng của đức Phật.

Lòng tham theo đức Phật dạy là nguyên nhân chính của mọi khổ đau. Ngài tin rằng một khi con người biết xã bỏ tất cả những dục vọng, lúc ấy sự khổ tự nhiên sẽ chấm dứt. Ðời sống và lòng từ bi xót thương mọi chúng sanh của đức Phật sẽ vĩnh cửu tồn tại như một lý tưởng siêu việt trên thế giới. Ngài dạy rằng bạo tàn không bao giờ có thể chấm dứt bằng tàn bạo, mà chỉ có tình thương và sự thông cảm, hiểu biết mới có thể tiêu diệt được nó. A Dục Vương là người đã biện minh hùng hồn cho sự thật của lý thuyết này. Bởi cảm nhận sâu xa mọi nỗi khổ đau do nhà vua gây ra trong trận chiến Kalinga (7) mà Ngài đã cố gắng thực hiện ý nghĩa của chân lý trên. Không những vua A Dục đã áp dụngtrong đời sống cá nhân, mà ngài còn lấy lý tưởng đó làm nền tảng cho đường lối chung của quốc gia đương thời. Nhà vua đã vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh, và đã tìm thấy một cuộc chiến thắng thực sự.

Cuộc chiến tranh của chúng ta ngày nay còn khủng khiếp và tàn phá gấp ngàn lần hơn cuộc chiến Kalinga của vua A Dục thời xưa. Hiện nay con người đang đứng ở ngã tư đường lịch sử. Bằng vào những khám phá và phát minh khoa học, con người tự hào nói rằng trong mọi lãnh vực nó thể vượt qua những giới hạn của thiên nhiên. Con người đã đạt được nhiều tiện nghi vật chất, nhưng trớ trêucùng lúc, cũng chính những khả năng đó, đã khiến con người tiến gần đến sự hũy diệt hoàn toàn. Do đó mà ngày nay chúng ta thấy trên thế giới đã xảy ra không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh và xung đột.

Không thể dùng bạo lực để chấm dứt bạo lực cũng như không thể dập tắt đám cháy bằng cách đổ thêm dầu vào lửa. Chỉ khi nào con người biết thực hành theo những lời Phật dạy trên, chừng đó thế giới mới hết chiến tranh và nhân loại mới hưởng được hạnh phúc hòa bình. Chắc chắn chúng ta phải chấp nhận lý tưởng đó, mặc dù chúng ta không thể hoàn toàn hành động đúng theo nó trong hoàn cảnh hiện hữu của đất nước chúng ta. Với tất cả nhiệt thành, chúng ta phải cần sống theo những giới điều Phật dạy, lấy chúng làm châm ngôn chung cho chủ trương quốc gia và quốc tế chúng ta.

Ước vọng duy nhất của chúng ta là mong ngày ấy chóng đến để chúng ta có thể làm sống lại tinh thần đạo đức cao siêu mà vua A Dục xưa kia đã thể hiện sau trận chiến thắng Kalinga. Ðể chúng ta có thể tiếp nối được sự nghiệp vĩ đại ấy, tôi nghĩ bổn phận của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới ngày nay là cần phải chấp nhận lý tưởng đó để làm nền tảng cho chủ trương quốc gia của họ. 

Tôi thiết tha hy vọng và nguyện cầu cho những cố gắng của mọi quốc gia trong việc tán đồng chương trình hủy diệt khí cụ chiến tranh sẽ có kết quả thực sự. Ðến lúc ấy, chúng ta có thể nói rằng thế giới không thể nào không chú ý đến bức thông điệp của đức Phậtlý tưởng của vua A Dụchiện thời chúng ta đang nỗ lực theo đuổituyệt đối không dùng bạo lực. Mặc dù ngày nay lý tưởng này xem khó bề thực hiện, nhưng tôi tin chắc rằng ngày đó có thể đến, khi mà sự tận diệt đe dọa bởi chiến tranh buộc nhân loại sẽ phải chấp nhận lý tưởng ấy. Trong thời đại nguyên tử này, con người phải quyết định dứt khoát rằng nó sẽ chiến đấu với bạo lực bằng bạo lực hoặc bằng tình thương.

Ðã có một tia sáng hy vọng hiện rõ ở chân trời. Nhiều quốc gia đang hướng về thực hành theo ngũ giới của đức Phật, và một vài dân tộc đã hoàn toàn chấp nhận những lời răn dạy ấy. Nhiều lãnh tụ có uy quyền, mặc dù hiện nay họ chưa dự trù việc hũy diệt toàn bộ các dụng cụ chiến tranh, nhưng ít ra, họ cũng đã nghĩ đến vấn đề hạn chế bớt việc sản xuất những khí giới giết người ấy. Phải chăng một ngày mai huy hoàng sẽ hiện đến khi mà các lãnh tụ trên thực hiện được lý tưởng này, để mọi quốc gia có dịp sử dụng năng lực và tài nguyên của họ, không phải cho mục đích chiến tranh phá hoại, mà vì lợi ích của hạnh phúc và hòa bình.

 (Trích dịch tạp chí The Maha Bodhi,Vol. 64. No. 7, ấn hành tại Ấn Ðộ).

 

Chú thích của dịch giả:

 (1) Takshashila hay Taxila; ngày nay thuộc thị trấn Rawalpindi ở Hồi Quốc (Pakistan). Xưa kia, Taxila là thủ đô xứ Gandhara (Càng Đà La), một trong 16 tiểu quốc của miền bắc Ấn Ðộ thời cổ (năm 600 trước Tây Lịch). Vào lúc đó, đại học Taxila (Takshashila) là một trung tâm giáo dục nổi tiếng khắp Ấn Ðộ, nơi mọi người từ vua quan đến dân thường, ước mong được đến học. Hầu hết các nhà học giả của Ấn Ðộ thưở xưa đều xuất thân từ đại học này; trong đó có cả vua Prasenajit (Ba Tư Nặc), nước Kosala ( Kiều Tát La), đồng thời với đức Phật ; và hoàng tử Jivaka, con vua Bimbisara (Tần Bà Xa La): 546- 494 trước T.L.

Theo hai giáo sư sử học Ấn Ðộ, V.D. Mahajan và M.L.Bhagi, thì khó xác định rõ thời kỳ nào đại học Taxila được xây cất, chỉ biết trong thời hậu đại Phệ Ðà (Later Vedic Period), khoảng năm 1200-600 trước T.L (theo vài học giả khác: 900-600 trước T.L), là giai đoạn huy hoàng lừng danh nhứt của đại học này. Và trường đã bị tàn phá hoàn toàn trước khi Ngài Pháp Hiển (Fa-Hien), danh tăng Trung Hoa, đến viếng nơi này vào thế kỷ thế thứ 5 sau Tây Lịch.

Chương trình giáo dục tại đại học Taxila, vào lúc ấy, gồm nhiều môn học, đặc biệt nổi tiếng về y học, luật học, võ thuật v.v…Trường không tổ chức theo hệ thống đại học như bây giờ, không có những giảng đường hay phòng học to lớn. Mỗi giáo sư vào lúc dạy, chỉ nhận hướng dẫn độ 20 sinh viên. Ngoại trừ các học sinh con nhà giàu, còn hầu hết những sinh viên nghèo, không có tiền trả học phí cho thầy thì họ chỉ học về đêm, ban ngày phải lo làm việc để hầu hạ các giáo sư. Về quỷ tài trợ, trường nhận sự giúp đỡ của nhiều nhà hảo tâmgiàu có đương thời. 

(2) Vikramasila: Ngày nay ở thành phố Patharghata, trong quận Bhagalpur, tiểu bang Bihar, miền đông Ấn Ðộ, là một trong những đại học Phật Giáo danh tiếng thời xưa ; do vua Phật tử Dharmapala (770-810) triều đại PaLa (750-1150) kiến lập. Ðại học gồm có khoảng 108 ngôi chùa và sáu học viện với sáu cổng trường to lớn. Nơi mỗi cổng ra vào được canh gác bởi một nhân viên của trường gọi là “học giả gác cổng” (Gatekeeper Scholar). Theo sử sách Tây Tạng, viện trưởng của trường vào những năm 1034-1038 là Ngài Dipankara Srijnana ( 980- 1053), một học giả trứ danh người Ấn, được vua Tây Tạng mời sang thăm để hướng dẫn phong trào phục hưng Phật Giáo và về sau Ngài đã xây dựng Phật Giáo thành quốc giáo tại sứ này.

Trường có 53 phòng dành làm nơi tu học Mật Giáo và 54 phòng cho chư Tăng sử dụng công cộng. Ngoài giáo pháp Mật Tông là bộ môn đại học này đặc biệt giảng truyền, trường còn dạy các môn khác như văn pháp (grammar), triết học, luận lý học v.v…. Cấp bằng cao nhất trường cấp phát bấy giờ là văn bằng Pandita (học giả), tương đương với Cao học (Master of Arts) ngày nay. Phần lớn các học giả Tây Tạng thời đó, đã sống và tu học tại đại học này. Ngoài việc nghiên cứu kinh tạng Bát NhãMật Giáo, trường còn giúp họ trong việc phiên dịch nhiều kinh sách Phật Giáo Phạn ngữ (Sanskrit) ra tiếng Tây Tạng.

(3) Nalanda: Một thị trấn danh tiếng của vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha) thời xưa ở Ấn Ðộ, nơi đức Phật thường lui tới khi Ngài còn tại thế ở thành Vương Xá (Rajagriha). Nalanda ngày nay thuộc quận Patna, tiểu bang Bihar, miền đông Ấn Ðộ. Vào thế kỷ thứ 02 sau tây lịch, Nalanda là một trung tâm học vấn Phật Giáo, và từ thế kỷ thứ 05 đến thế kỷ 11 Nalanda trở thành một đại học Phật Giáo nổi tiếng khắp Ấn Ðộ. Ngài Huyền Trang (Hiuen Tsang), danh tăng Trung Hoa, trong thời gian đến Ấn Độ từ năm 630- 643, đã ở nghiên cứu, tu học tại đây hơn 5 năm. Ngài cho biết lúc đó, trường có khoảng 1,500 giáo sư, và số sinh viên theo học lên tới 10,000 người.  

(4) Asoka (A Dục Vương): Một vị vua Phật tử nhiệt thành, có công đức “hộ pháp” nhiều nhất đối với nhân loại, trong việc phát huy, bảo vệ chánh pháp của đức Phật. A Dục đại đế là cháu nội vua Chandragupta (trị vì: 322-298 trước T.L.), người sáng lập nên triều đại Maurya vào những năm (322-184 trước T.L.) ở Ấn Ðộ. A Dục là con vua Bindusara và hoàng hậu Subhadrangi, trị vì vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha) vào những năm 298-273 trước T.L, với kinh đô đóng tại Pataliputra (Hoa Thị Thành), nay là thị trấn Patna, thuộc tiểu bang Bihar miền đông Ấn Ðộ. Sử chép rằng, vua Bindusara lấy 16 vợ và có đến 101 người con; trong đó Sumana là con đầu, Asoka (A Dục) thứ hai, và Tishya là con út. Sau khi nghe tin vua cha băng hà, A Dục bấy giờ đang cai trị tiểu quốc Avanti (miền bắc Ấn Ðộ), cấp tốc kéo quân về vây hảm kinh thành Pataliputra, giết 99 người anh của mình, trong đó có hoàng tử Sumana là người mà vua cha Bindusara định truyền ngôi cho. 

Bấy giờ, A Dục Vương nổi danh như một hung thần bạo chúa, cai trị muôn dân bằng sắt máu. Ông dùng vũ lực xua quân đi xâm lăng các tiểu quốc lân bang để mở mang bờ cỏi. Quân của nhà vua đi tới đâu, cảnh lương dân bị chém giết, đầy ải; nhà cửa bị đốt cháy xảy ra đến đó. Sau này, nhờ sự hướng dẫn của Ðại Đức Nigrodha, nhất là sau trận chiến Kalinga, vua A Dục đã ăn năn sám hối, từ bỏ con đường xâm lược chiến tranh. Từ đó, nhà vua quyết tâm theo đuổi con đường tích cực ủng hộ, truyền bá giáo pháp của đức Phật; không những trong nước Ấn Ðộ, và các quốc gia Á Châu, mà con lan rộng cả đến Ấu và Phi Châu. Vua A Dục lên ngôi lúc Ngài 30 tuổi, và mất năm 71 tuổi: 273-232 trước T.L. 

(5) Guptas: Triều đại Guptas, do vua Chandra Gupta I sáng lập, trị vì Ấn Ðộ hơn hai thế kỷ, khoảng từ năm 320 đến 550. Dưới triều đại này, nghệ thuật Phật Giáo, đặc biệt ngành tạc tượng Phật trên đá, đã tiến đến một trình độ rất cao. Nhiều chùa, tháp Phật Giáo, tượng Phật bằng đá với nét điêu khắc, chạm trổ tinh vi nổi tiếng, còn lưu lại đến ngày nay khắp Ấn Ðộ đều được xây cất, làm ra dưới triều đại Guptas này.

(6 Ajanta): Tên một ngọn đồi hình móng ngựa (horseshoe form), ở gần làng Fardapur, trong quận Aurangabad, thuộc tiểu bang Maharashtra, miền tây Ấn Ðộ. Trên sườn ngọn đồi này, trong khoảng từ thế kỷ thứ 02 trước T.L đến thế kỷ thứ 07 sau T.L, những người Ấn thời xưa đã đục trong đá thành những cái hang (caves) tạo nên các ngôi chùa Phật Giáo với nghệ thuật kiến trúc, chạm trổ rất đẹp. Trong các chùa hang đá này, những họa sĩ Phật tử vô danh Ấn Ðộ thời cổ đã sáng tác nên những bích họa (tranh vẽ trên tường), rút đề tài ở lịch sử đức Phật, có tất cả là 29 hang. Những hang này do một nhóm người Âu Châu đi săn tình cờ khám phá ra vào năm 1829, và hiện nay vẫn còn, và là một trung tâm du lịch nổi tiếng tại Ấn Ðộ.

(7) Kalinga: Một tiểu quốc và bộ tộc ở vùng biển vịnh Bengal (Bay of Benga) vào thời vua A Dục (273- 232 trước T.L). Ngày nay, Kalinga thuộc làng Dhauli, trong quận Puri, tiểu bang Orissa, miền đông Ấn Ðộ. Sử chép rằng, sau cuộc chiến xâm lăng Kalinga, với 100,000 người chết, và 150,000 tù binh bị bắt đầy ải, vua A Dục (Asoka) nhất tâm quy y Tam Bảo, ngày đêm sám hối những tội ác của mình đã gây ra cho dân tộc Kalinga; và phát nguyện đem hết năng lực còn lại của đời mình để phụng sự Phật Giáonhân loại.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 2500 Years of Buddhism, Editor: Prof. P.V. Bapat, Publications Division, Government of India, Delhi, 1964.

2. Encycloaedia of Buddhism, Vol. II, Edited by Dr. G. P.Malalasekera, Government of Ceylon (Sri Lanka), Colombo, 1967.

3. A Guide to Taxila by John Marshall, Indological Book House, Varanasi (India), 1972.

4. The Buddhist Pilgrimage by Duncan Forbes, Motilal Banarsidass Publishers, Delhi (India) 1999.

5. Ancient Geogeaphy of India (Buddhist Period), by A. Cunningham, Indological Book House, Delhi (India), 1979.

6. History of Buddhism in India by Taranatha (Translated from the Tibetan by Lama Chimpa, K.P.Bagchi & Company, Calcutta (India) 1980).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9773)
Chúng ta là người tu thiền, trước tiên phải hiểu thiền là gì một cách căn bản, sau đó ứng dụng công phu mới không bị sai lệch.
(Xem: 11154)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai?
(Xem: 18755)
Trăm năm trong cõi người ta tuy có tới ba vạn sáu ngàn ngày nhưng thật là ngắn ngủi. Càng ngắn ngủi hơn vì mấy ai sống tới trăm năm.
(Xem: 9592)
Được làm người là một phúc duyên to lớn như vậy nên Đức Phật khuyên nhắc mọi người cần phải được trân trọng và vận dụng cái phúc duyên may mắn ấy để tu tập
(Xem: 8826)
Kế thừa gia tài Chánh pháp của Phật và thầy tổ để ứng dụng tu tập, hoằng truyền giáo pháp là việc cần làm.
(Xem: 9404)
Chúng ta nghe khá nhiều về việc phải tu tập hạnh từ bi nhưng mình cứ loay hoay mãi không biết bắt đầu từ đâu!
(Xem: 8943)
Không tranh giành, tranh cãi, tranh luận, tranh chấp, tranh chiến, tranh đoạt, tranh đua; không tranh danh, tranh lợi, tranh tài, tranh công, tranh thế, tranh quyền…
(Xem: 9246)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?”
(Xem: 8926)
Người xưa nói: “Cảnh cùng khốn phải chăng là trường thí nghiệm về nhân cách con người? Phải chăng, cùng khốn hay không cùng khốn là do hoàn cảnh.
(Xem: 9650)
Giáo lý nhà Phật nói rằng nếu ngôi nhà của tôi đẹp đẽ, ấm cúng, nhiều năng lượng, chắc chắn tôi sẽ khỏe mạnh và có bình an, nhất định tôi hạnh phúcmãn nguyện.
(Xem: 10426)
Nếu chúng ta suy ngẫm về cái chết từ trong tim ta, điều nầy có thể mang lại cho chúng ta một cái nhìn làm phong phú thêm cho cuộc sống, và cho các mối quan hệ...
(Xem: 9299)
Kinh Hoa Nghiêm chỉ dạy về pháp giới vô ngại, cho nên, ngoài những pháp quán có trong những kinh khác, đặc trưng của kinh Hoa Nghiêm là nói về ba pháp quán vô ngại.
(Xem: 9869)
Không có tự ngã nào khác hơn là phức hợp của tâm thứcthân thể bởi vì Tách rời khỏi phức hợp tâm-thân, khái niệm của nó không tồn tại.
(Xem: 10292)
Phật pháp đồi với chúng ta là một kho báu vô tận , cung cấp những chân giá trị để hướng dẫn con người có một cuộc sống tốt đẹp và hiền thiện cho chính mình .
(Xem: 9472)
Muốn chuyển hóa căn bệnh sân hận, ta phải thực tập hạnh kham nhẫn, nghĩa là nhịn chịu những điều không vừa ý, trái lòng như...
(Xem: 10806)
Cơ thể chúng ta biến đổi. Nói chung, ngay cả tinh thần hay thiền định cũng không cản nổi việc biến đổi.
(Xem: 10191)
Thế tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta . Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta .
(Xem: 9384)
nhân quả nghiệp báo giúp cho con ngườitinh thần trách nhiệm, sáng suốt, biết lựa chọn nhân tốt để làm và tránh xa nhân xấu ác.
(Xem: 10595)
Người tu là người đi tìm hạnh phúc chân thật, hạnh phúc này chỉ có khi tâm không còn bám víu, dính mắc, thèm khát mọi sự vật trên đời này.
(Xem: 12688)
Một Phật tử khôn khéo là biết học tập những gì nên học tập, không làm theo những điều chưa tốt chưa hay. Cứ theo Phật theo Pháp hành trì, vững chải mà tiến lên.
(Xem: 10288)
Có những thứ bạn nghĩ mình muốn, nhưng có thể là những thứ bạn không cần. Vì bản chất tham lam nên đôi khi mình thèm muốn rất nhiều thứ mới thỏa mãn được bản ngã của mình.
(Xem: 10191)
Tất cả cũng tàn phai Chỉ tình thương ở lại Những gì trao hôm nay Sẽ theo nhau mãi mãi.
(Xem: 13404)
Hàng người dài bất tận, im lặng, chăm chú nhìn vào ngọn nến cầm trên tay và theo dõi từng bước chân, đi tới, đi tới mãi…, dưới bầu trời đêm vắng lặng...
(Xem: 10767)
Nghĩ đến các cảnh tượng khổ đau mà chúng sinh đang phải gánh chịu là một phương pháp giúp mình thiền định về lòng từ bi.
(Xem: 10049)
Khi tâm tư lạc lõng Hãy quay lại chính mình Nương tựa vào hơi thở Chốn nghỉ ngơi an bình
(Xem: 9054)
Tôi nói đến việc đạt đến đời sống hạnh phúc như thế nào trong phạm vi thế tục. Tôi thật vui mừng có cơ hội để nói chuyện với nhiều người ở đây.
(Xem: 10196)
Tu là nghệ thuật giúp mình chuyển khổ đau thành hạnh phúc, khi hạnh phúc trở thành khổ đau thì mình có thể chuyển nó thành hạnh phúc trở lại.
(Xem: 10587)
Phật ở khắp nơi. Trên chùa có Phật, nhà ta cũng có Phật. Trong trái tim của mỗi người con đều có Phật. ta cứ làm theo lời phật dạy sẽ thành con nhà Phật,
(Xem: 17967)
Trong đời ác năm trược, con nguyện xin vào trước; Nếu có một chúng sanh nào chưa thành Phật; Thì con sẽ không vào Niết Bàn.
(Xem: 10904)
Cũng giống như bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc sống, điều quan trọng không phải là bạn giàu, hoặc nghèo, bạn khỏe mạnh, hoặc ốm đau,,,
(Xem: 10794)
Đây không phải chỉ là một sự tán dương ca ngợi, mà còn là những điều trân quý, người đời sau cần giữ gìn truyền tụng, nếu chúng ta hiểu rõ nghĩa của những chữ “ẩm thủy tư nguyên” là gì.
(Xem: 10846)
Thế Tôn dạy người tu “chuyên cần niệm Chết”, vì chết là một sự thật, ai cũng đang và sẽ chết!
(Xem: 11788)
Có bao nhiêu người trong chúng ta, khi gặp chuyện gì xảy ra không như ý muốn, thì điều đầu tiên nhất, là kiếm cớ đổ tội cho người khác, cho hoàn cảnh
(Xem: 12309)
Quán Âm hay Quán Thế Âm là tên gọi của một vị Bồ Tát nổi tiếng trong hệ thống Phật giáo Bắc Truyền (vẫn được thậm xưng là Đại Thừa) khắp các xứ Trung Hoa, Hàn quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ và cả Việt Nam.
(Xem: 17852)
Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm.
(Xem: 11885)
Công cuộc giáo hoá độ sanh của Đức Phật thành tựu viên mãn chính nhờ Ngài tu tập Tứ vô lượng tâm đạt đến vô lượng.
(Xem: 9951)
Đạo Pháp (Dhamma) cũng tương tự với ngành Y Khoa. Bạn có thể nhận thấy điều đó qua cách giảng dạy của Đức Phật.
(Xem: 9503)
Về ý nghĩa tùy duyên, thì đây là một chỗ sống, không phải là chỗ lý luận hay chỗ bắt chước, bởi vì khi chúng ta bắt chước thì nó không còn là tùy duyên nữa.
(Xem: 14669)
Tùy duyên bất biến nghĩa là tùy theo cơ duyên mà duyên với ngàn sai vạn biệt, nhưng bản thể của nó vẫn không thay đổi.
(Xem: 9602)
Đạo Phật đặc biệt hướng dẫn hành giả phải giác ngộ, không nên tin một cách mù quáng. Thông hiểu lời Phật dạy, áp dụng trong cuộc sống đạt được lợi lạc, đó là biết tu.
(Xem: 8743)
Trong đạo Phật ta phải biết dứt ác, làm lành bằng cách sửa saichuyển hoá những tâm niệm tham lam, ích kỷ, oán hờn, nóng giận, ngu si, tối tăm, ganh ghét, tật đố thành vô lượng trí tuệtừ bi.
(Xem: 8970)
Dù có gặp phải các khó khăn to lớn đến đâu, thì cũng không nên thối chí, không được tránh né, mà phải phát huy sức mạnh của tâm thức mình.
(Xem: 8926)
Hiến tặng bộ phận cơ thể là một sự thực hành rất quan trọng của Phật Pháp.
(Xem: 8033)
Sau khi Đức Phật thành đạoBồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán.
(Xem: 11856)
“Tháng cô hồn” chính là quan niệm dân gian. Phật giáo Bắc tông gọi tháng Bảy là mùa lễ hội Vu lan-Báo hiếu.
(Xem: 10205)
Người ta thường nói, làm ra tiền mới khó còn tiêu tiền thì chẳng khó chút nào. Sự thật thì không phải như vậy, làm ra tiền đã khó, tiêu tiền đúng pháp lại càng khó hơn.
(Xem: 8682)
Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ, tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng.
(Xem: 10223)
Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân.
(Xem: 10740)
Ta cần phải luôn luôn quán chiếu về lẽ vô thường, bởi ta sẽ không mãi mãi vui hưởng trạng thái hiện tại để tự do thực hiện như ta mong muốn.
(Xem: 11889)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đã giác ngộ-giải thoát hoàn toàn, biết được cách dứt trừ sinh tử khổ đau và sau đó Người đi vào đời hoằng pháp độ sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant