Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam

03 Tháng Mười 201000:00(Xem: 15154)
Cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam

Trên đường vào Nam, tổ tiên chúng ta đã mang theo bài hát trò chơi, trò diễn..., cùng lúc, có những sáng tạo mới về đời sống tinh thần, về công việc lao động ở vùng đất mới này.

Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn, Gọi nghé, Cù cưa cút kít.

Dừng chân ở đất Quảng Nam, người lớn sáng tác cho con nít. Con nít thay đổi, thêm bớt vốn liếng đồng dao và sáng tác, làm giàu có thêm cái kho tàng chơi hát-học-vui của mình.

Đồng dao là thể loại ca hát hồn nhiên, bình dị, mà em bé nào cũng biết và yêu thích. Con nít yêu đồng dao như yêu cảnh thiên nhiên của đồng quê, yêu ánh nắng chan hòa làm rực rỡ thêm cảnh sắc thiên nhiên. Đồng dao làm cho tâm hồn các em thêm đẹp, thêm tươi.

Mỗi người chúng ta khi nhớ lại tuổi thơ của mình với bao kỷ niệm êm đẹp, chắc hẳn không ai quên được kỷ niệm về những câu hát ấy. Ngày ấy, ta thường mượn câu hát, câu vè để diễn đạt suy nghĩ của mình.Tại sao lại như vậy nhỉ ? Có lẽ vì những câu hát ấy thật dễ hiểu, thật ngộ nghĩnh đối với tuổi thơ.

Có hai cô bé rủ nhau đi học cùng đường, ai cũng muốn cho là đi đường mình thì thích hơn. Thế là có câu hát để dọa nhau :

Tau đi ngõ ni có hương có hoa

Mi đi ngõ nớ có ma đón đường!

Cô bạn kia chẳng chịu thua kém, khi trả lời lại :

Tau đi ngõ ni có bụi tùm hum

Mi đi ngõ nớ có hùm chụp mi!

Hai đứa đi hai ngả. Chẳng đứa nào gặp ma, gặp hùm. Nhưng, nếu lần sau có diễn lại cảnh này, thì những câu hát trên vẫn được lặp lại một cách hào hứng như chưa từng hát bao giờ. Có lẽ đây cũng chính là một đặc điểm của thể loại. Các em có thể hát đi hát lại hàng trăm lần chỉ một câu đó mà không thấy nhàm chán. Cách ví von, lối nói có vần điệu đã gây được hứng thú khi các em hát những câu ấy.

Các em đứng vòng quanh, chơi - hát Phủi tóc bạn, hát nói :

Đầu đứa mô có rơm có rác

Kêu tau bằng bác, tau phủi đầu cho

Kêu tau bằng o, tau cho cái này.

Vừa vỗ tay vừa nhảy tưng tưng theo câu hát, hát đi hát lại nhiều lần. Và, "tau cho cái này", có nghĩa là cho một quả thụi đáng yêu vào mạng sườn hoặc lưng bạn. Đôi khi, muốn hát - chơi bài này, một em nào đó đã cố ý kín đáo cho một cộng rơm hoặc một chiếc lá lên đầu tóc bạn mình, để cả nhóm nhảy vòng quanh bạn vô ý đó như một trò chơi thú vị.

Mùa hè, ở rừng, nhận ra khu nào lắm ve ve, tối đến, các em rủ nhau đi bắt ve ve, rang ăn. Đợi thiệt tối, các em nhóm một đống lá khô, châm lửa, xúm xít ngồi chồm hổm quây hình vòng tròn, vỗ tay vào miệng thành tiếng oa oa òa òa, rồi hát nói từng âm.

Các em dùng vòm miệng như một hộp cộng hưởng. Những tiếng oa oa òa òa, tiếng hát rung lên dập dồn, lung linh - âm điệu và màu âm là lạ, mơ hồ. ánh sáng lôi cuốn, hấp dẫn.

Oa oa òa òa

Oa oa òa òa

Hu hu ve ve

Xuống đây mà nghe

Ăn xôi, ăn chè

Ăn mít, ăn me

Không xuống không nghe

Tau đánh mi què

Tau ví chạy re

Oa oa òa òa, oa oa òa òa

Từng đôi em một, ngồi bệt trên đất. Tay nắm tay, bàn chân chỏi vào nhau, hát - chơi :

Cù cưa kút kít

Con nít rúc ra

Ông già rúc vô

Cù cưa kút kít

Con nít may ra

Bà già may vô

Cù cưa kít kít

Ăn ít no lâu

Ăn nhiều tức bụng

Cù cưa kút kít

Con nít nhà ai

Thì về nhà nấy.

Nhưng, chưa ai vội về nhà nấy được. Có bạn nào đó, do bụng bị ép vào đẩy ra đã té tủm. Một em vừa hát vừa chỉ vào từng bạn :

Xù xì xụt xịt

ốc mít lùi tro

Ăn no té tủm

Ba ông quan chánh

Xúm đánh phèn la

Biểu phải chỉ ra

Đứa mô té tủm ?

Đứa mô té tủm ?

Đồng dao thế giới không có câu hát này.

ở nhà quê, trẻ em yêu thương con nghé. Từ Bắc vào Nam, nhiều câu hát gọi nghé. Con nít Quảng Nam gọi nghé :

Huê...huê...

Huê con nghé nhỏ

Lạc đàn theo chó

Lạc ngõ theo trâu

Nghe mẹ rống đâu

Đâm đầu mà nhảy

Huê...huê...

Huê...huê...

Huê con nghé nhỏ

Ham cỏ bỏ bầy

Huê con nghé nhỏ

Ham chơi xa đàn lạc mẹ

Huê...huê...

Có thể nghe thấy ở đồng dao chất liệu hò khoan trộn chút ít vè hơi oán, hô thai và cái chất của lý tươi sáng, hóm hỉnh ở sắc bùa.

Con nít ở nhà quê chơi- hát-học-vui nhiều.

Còn gì thú vị bằng một buổi sáng đẹp trời, các em vắt vẻo trên lưng trâu, dong chúng ra đồng. Đàn trâu được thả trên một bãi cỏ xanh mượt, mải mê gặm cỏ. Còn các em, lúc này hoàn toàn thảnh thơi, tụ tập nhau lại một góc bãi cỏ, chơi trò chưng cộ.

Trò chơi-hát này như sau : một lớp ngồi dưới cầm tay nhau xếp thành vòng tròn, rối nhiều lớp nữa cũng cầm tay nhau, ngồi chồng lên vai lớp dưới, cùng hô "dố dậy", tất cả đều đứng lên thành trụ cao, vừa đi vòng tròn, vừa hát.

Đồng dao này có hai khúc : một khúc thiết thực nói về trẻ chăn trâu với mùa màng, một khúc kể những vật thường thức ở nông thôn.

Khúc I :

Dố dậy, dố dậy

Cây gậy bốn phương

Ra đường mạnh mẽ

Bầy trẻ chăn trâu

Bay lâu thẳng cánh

Nó mạnh như sên

Đi trên mặt nước

Đi trước đón rồng

ông đi có cồng

Bà đi có mõ

Trên trời nghe rõ

Làm gió làm mưa

Làm mùa bát ngoạt

Dố dậy, dố dậy!

Khúc II :

Trời mưa lâm dâm

Cây trâm có trái

Con gái có duyên

Đồng tiền có lỗ

Bánh tổ thì ngon

Bánh hòn thì béo

Cái kéo thợ may

Cái cày làm ruộng

Cái xuồng đắp bờ

Cái lờ thả cá

Cái ná bắn chim

Cây kim may áo

Cái giáo đi săn

Cái khăn bịt đầu.

Hát hết khúc này, trở lại đoạn đầu, bắt vào câu "bầy trẻ chăn trâu...". Cứ như thế mà hát mà quay tít vòng tròn cho đến khi nào cộ đổ

Đồng dao "hỏi tuổi" về 12 con giáp diễn ra như một hoạt cảnh. Các em ngồi vòng tròn, mỗi em sẽ là một con vật trong đồng dao, khi được hỏi đến, phải bắt chước động tác của con vật ấy, đi, bò, hoặc nhảy vòng quanh về chỗ cũ của mình.

Một em chỉ vào một bạn, hỏi : - Tuổi Tí con chi?

Trả lời : - Tuổi Tí cho chuột.

Các em hỏi : - Con chuột nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu chút chít

(đóng vai con chuột, vừa bò vừa kêu chút chít).

Các em nói :

- Chút chít chi mày

Tau chặt khúc đầu

Tau thầu khúc giữa

Tau bửa lấy xương

Làm rường làm cột

Tau lột lấy da

Bỏ sông Ngân Hà

Còn chi chút chít !

Các em hỏi một bạn khác : - Tuổi Sửu con chi ?

Trả lời : - Tuổi Sửu con trâu.

Các em hỏi : - Con trâu nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu ngá ngạ.

(đóng vai con trâu, khệnh khạng đi, dương đôi sừng).

Các em nói : - Ngá ngạ chi mày...

Cứ như thế, hát-nói hỏi, trả lời đóng vai con vật, cho đến con heo, mỗi con phải có tiếng kêu riêng. Con rồng kêu "rống rộng" con rắn kêu "rắn rặn" thì thật lạ và rõ là con nít !

Câu hát đố nói đúng, phát âm đúng, cho dẻo miệng :

- Ông ống nồi lội qua sông

Đóng cáí gông vào mông đít

Tròng trà tròng trành

Trâu trèo trâu trợt

Thậm thà thậm thụt

Trò trụt trò trìa

Trâu tra làm trúc bụi tre

Trách trời trơn trợt, xa trò mấy trăng

Ăn ngày ba bữa

Tắm rửa ba lần

Sạch sẽ toàn thân

mà răng ngứa xót, ngứa xót

-Nhà bà Đỏ có nuôi con gà mái đen nhảy ổ

Bà Đỏ sao không lót ổ cho con gà mái đen bà Đó đẻ.

- Cầm cây rựa quéo trèo lên hòn núi quẹo

đốn cây củi queo

đem vềnấu cám heo.

Sinh hoạt vui chơi là môi trường của trẻ em. Trong dạng sinh hoạt chơi-hát-học-vui, đồng dao luôn gắn với các trò chơi, các lối chơi. Chỉ thông qua trò chơi, đồng dao mới có điều kiện phổ biếnlưu truyền.

Nhưng, ngay trong sinh hoạt vui chơi ấy của các em, chúng ta vẫn thấy hiện lên cái bản chất xã hội của nó. Nói một cách khác, mỗi đồng dao "bài hát-trò chơi" của các em đều nhằm mục đích rèn luyệngiáo dục các em trở thành những thành viên xã hội thật sự trong tương lai.

Chọn ngõ, Phủi tóc bạn, Xù xì xụt xịt thể hiện tình bạn, Hu hu ve ve, Họa bù rầy đùng là trò chơi có ích, ông trùm Dé ơi, Đố tuổi rèn luyện trí thông minh, Cù cưa kút kít, Dố dậy, dố dậy rèn luyện thể lực tính nhanh nhẹn, Tau đố bay ăn, ăn cháo quỵt phê phán chế nhạo cái chướng tai gai mắt; Hò nghé ngơ, Người và trâu ở đợ, Dỗ sáo ăn mồi giáo dục lòng thương yêu con vật gắn bó với cuộc sống của thế giới trẻ thơ : con sáo, con gà, con mèo...,những gia súc gần gũi: con nghé, con trâu..., lòng bác ái trong con người Việt Nam.

Qua cái dễ thương của đồng dao đất Quảng Nam, chúng ta nhận ra, trong chơi-hát-học-vui cho con nít, cha ông ta đã dành một khoảng lớn cho sự tự sáng tạo của con nít, sáng tạo theo suy nghĩ, nhận thứcphương pháp của chúng. Chúng ta thấy con nít thích thú những bài, câu, đoạn, mà theo lôgíc của chúng là linh tinh, hay chí ít, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng, chính những bài ta có khi theo lôgíc "nhảy cóc" như vậy lại đáp ứng yêu cầu tập cho dẻo miệng như kiểu "tròng trà tròng trành trâu trèo trâu trụt", đáp ứng yêu cầu "đặt vè bẻ vần" , "bẻ làn nắn điệu" của các em.

Đồng dao cổ truyền bao giờ cũng mang tải một cơ chế nhạc đậm đà màu sắc và tính chất dân tộc. Con nít tiếp nhận và hát-múa-chơi-học đồng dao như một bộ mã di truyền của dân tộc.

Cơ chế âm nhạc này lại được đưa vào một kết cấu phức tạp với các yếu tố cũng mang bản sắc dân tộc, như trò chơi, điệu nhảy, trò vui, đố học, khiến con nít rất thích thú, và lại còn dành cơ hội cho trẻ em, kích thích chúng sáng tạo thêm.

Trong xã hội xưa, đồng dao là bài học vỡ lòng về âm nhạc, vỡ lòng với ý nghĩa là những bài học đầu tiên trong cuộc đời, nhưng cũng là những bài tập sáng tạo âm nhạc dân tộc đầu tiên. Từ tuổi sơ sinh tới lúc lên ba, lên năm, con nít chỉ được tiếp thụ âm nhạc dân tộc một cách thụ động qua hát ru của người lớn. Chỉ với đồng dao, trẻ em mới bắt đầu tự mình ca hát, nhảy múa, chơi, học và sáng tạo. Nên hiểu rằng, khái niệm "âm nhạc cho trẻ em" bao gồm cả hai thể loại bài hát là hát ru và hát tré em.

Một nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa cho rằng : "Mỗi dân tộc mang vào trò chơi những đặc tính trong cách suy nghĩ mà dân tộc đó vốn có. Có biết bao nhiêu trò chơi mà con người đã nghĩ ra, đếm không xuể. Cũng như dân ca, truyện cổ tích, chúng rất nhiều, rất nhiều. Các trò chơi, cũng như con người, sống, yêu và chết. Rồi chúng tái sinh".

Dạy đồng dao cho trẻ là dạy các em chơi-hát-múa-học, dạy tiếng Việt cho trẻ. Riêng vốn từ, trẻ em có dịp nắm vững những từ thuần Việt, nghĩa là những từ làm nên bộ phận nòng cốt của tiếng Việt, chúng vốn có từ lâu đời, và có sức sống mãnh liệt. Cho nên, dù đời sống hôm nay đổi mới thế nào, con cháu chúng ta cũng cần biết để góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như NQ TW5 (khóa VIII) đã xác định rõ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 999)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1143)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1244)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1751)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1289)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant