Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cảm niệm Đản Sanh

03 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13675)
Cảm niệm Đản Sanh

Mỗi năm cứ đến ngày trăng tròn tháng tư là mọi người con Phật khắp năm châu bốn bể chuẩn bị bằng nhiều hình thức khác nhau để đón mừng ngày Thị Hiện của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Điều ấy đã nói lên được sự ngưỡng mộ và quy hướng về đấng toàn giác. Mặc dầu thời gian hơn 2.500 năm lịch sử đó đã làm phai mờ không biết bao nhiêu dấu tích phế hưng của bao triều đại trên quả địa cầu nầy.

Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật". Chỉ chừng ấy nguyên nhân thôi; nhưng đã bao trùm khắp vũ trụ hoàn vũnhân sinh quan của Phật Giáo.

Lần lại những trang sử ngày xưa ta thấy rõ được điều đó. Cách đây 1.358 năm, Pháp Sư Huyền Trang, Người đã ra đi vào đời nhà Đường, nhằm năm Trinh Quán thứ 3 (628). Lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Sau 17 năm lặn lội với gió sương nơi đất Phật. Ngài đã về lại kinh đô Trường An với 657 bộ kinh điển bằng chữ Phạn vào năm 646. Sau đó chính tay Ngài đã viết một quyển tương đối quan trọng vào năm Trinh Quán thứ 20 (646). Đó là quyển "Đại Đường Tây Vức Ký" nhằm ghi lại cuộc hành trình khó nhọc của Ngài trong khi Ngài ở tại Ấn Độ. Khi Ngài đến Ấn Độ, đã cách Phật nhập diệt 1.172 năm (2548 - 1376 năm) và cách chúng ta ngày nay là 1.358 năm (2004 - 646 năm). Như vậy những gì mà Ngài đã mắt thấy tai nghe, tương đối có thể tin tưởng được và chính nhờ vào tập hồi ký nầy mà các nhà khảo cổ học người Anh, người Đức vào cuối thế kỷ thứ 19 đã căn cứ vào đây để tìm lại những thánh tích như: Đản Sanh, Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên, Nhập Đại Bát Niết Bàn v.v... Cuối cùng đã được chứng minh Đức Thích Ca là một nhân vật lịch sử có thật và Ngài Huyền Trang cũng là con người có thật, rất vĩ đại, đã được thế giới tôn thờ.

Nhân ngày Đản Sanh lần thứ 2548 của Ngài, ta thử trở về với những sự ghi chép của Ngài Huyền Trang thuở ấy, để tìm lại cái thấy biết của người xưa. "Tiếp đến ở phía đông có một Bảo Tháp do vua A Dục dựng nên. Nơi đây có 2 con rồng phun nước tắm Thái Tử. Sau khi Bồ Tát sanh, liền tự đi không cần nâng đỡ. Ngài đi bốn hướng, mỗi hướng bảy bước và tự nói rằng: "Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn. Đây là lần sanh cuối cùng của ta". Tự nhiên dưới chân mọc lên những đóa hoa lớn, rồi hai con rồng bỗng nhiên xuất hiện từ hư không cùng phun nước xuống, một vòi nước lạnh, một vòi nước ấm để tắm cho Thái Tử...". (Trích Đại Đường Tây Vức Ký, trang 205 - sắp xuất bản).

Ở đây chúng ta có thể phân tích từng sự kiện một, để nhận chân được lịch sử nầy. Vua A Dục (270 trước Thiên Chúa) đã thống nhất giang sơn Ấn Độ và sau đó quy y với Đạo Phật, trở thành một vị Phật Tử hộ pháp rất thuần thành, so ra cổ kim ít ai sánh kịp. Ông sanh cách Phật độ 300 năm và ông đã phát nguyện dựng 84.000 chùa tháp để ghi lại những Thánh Tích nơi Phật và thánh chúng đã trải qua cuộc đời tu luyện của mình. Nhờ thế khi Ngài Huyền Trang sang chiêm bái Ấn Độ vào năm 628. Nghĩa là cách vua A Dục hơn 900 năm; những thánh tích ấy vẫn còn. Nhờ vậy mà Ngài mới có thể viết được tác phẩm "Đại Đường Tây Vức Ký" rõ ràng như thế.

Khi sanh ra, Thái Tử được tắm bởi 2 con rồng từ hư không xuất hiện. Một vòi nước nóng và một vòi nước lạnh. Đây là sự cảm hóa của Thái Tử với chư ThiênThiên Đế Thích mới có sự cảm động và tạo nên những nghĩa cử như vậy. Rồi tự dưng những đóa sen mọc lên dưới chân của Thái Tử. Điều ấy cũng dễ hiểu thôi. Vì Địa Thần đã hoan hỷ, vì có một bậc giác ngộ đã ra đời. Do vậy Địa Thần cũng cúng dường những gì trân quý nhất mà mình đang có. Bồ Tát khi sanh ra tự đi, vì có Tứ Thiên Vương nâng chân, đỡ tay và Ngài đã đi bốn hướng, đông, tây, nam, bắc. Chứ không phải chỉ một hướng, như lâu nay chúng ta vẫn thường biết và mỗi hướng như vậy đi bảy bước trên bảy đóa sen và tự nói rằng: "Trên trời dưới đất chỉ có cái ta là đáng nói hơn cả. Đây là lần sanh cuối cùng của ta". Quả thật chỉ có những bậc giác ngộ mới có thể thốt ra điều đó. Vì các Ngài đã biết mình là ai; nên khi nói ra điều gì là đảm bảo điều đó, ít có bị thay đổi bởi thời gian và năm tháng.

Khi Thái Tử sanh ra thì nhạc trời chúc tụng, quả đất rung động. Vì lẽ một bậc vĩ nhân, một đấng toàn giác, khác người thường là vậy. Ta sinh ra đời vì bị vô minhnghiệp lực chi phối. Còn Bồ Tát và những vĩ nhân của nhân loại khi sinh ra đời vì tự chọn nghiệp mà đầu thai vào để thay thế cái khổ của chúng sanh. Sự khác nhau nằm ở chỗ nầy và Bồ Tát cũng như chúng sanh mặc dầuPhật tánhbình đẳng; nhưng một bên là do nguyện lựcthành tựu; còn một bên là do nghiệp lực dẫn dắt, thì kết quả dĩ nhiên nó chẳng hoàn toàn giống nhau được.

Cũng trong "Đại Đường Tây Vức Ký" trang 131 quyển thứ 4 có đoạn Ngài Huyền Trang tường thuật rằng:

"Lấy tâm để cứu người tức là được việc, đừng quên vấn đề ấy. Đừng lấy vật để cứu tâm.

Lấy tâm mà cứu vật thì được mất đều quên; còn lấy vật để cứu tâm thì buồn vui lại hiện đến".

Quả đúng như thế - Làm Vua là bậc nhân chủ của thiên hạ. Nếu nhà Vua lấy cái tâm đại từ để ban vui cứu khổ cho muôn loài thì muôn họ được nhờ, mà cái đức ấy sẽ cảm hóa đến đất trời vạn vật. Còn nếu cậy thế ỷ quyền là Vua để đi sát phạt kẻ khác; chẳng khác nào lấy vật, vốn nó vô tri để đi cứu cái tâm cống cao ngã mạn của mình, quả là buồn vui sẽ đến. Khi Bồ Tát cứu người, dùng cái tâm Đại Bi để cứu thì được mất đều quên. Vì Bồ Tát làm với cái tâm vô vụ lợi. Còn đại đa số quần sanh muốn củng cố quyền hành địa vị của mình nên đã dùng tài sản của cải để đi bảo vệ sự hư hỏng của tâm mình. Cũng là hai việc làm mà kết quả của 2 việc lại khá khác nhau. Do vậy khi Bồ Tát móng tâm, tất cả đều vì sự lợi ích của chúng sanh. Còn khi chúng sanh móng tâm, hầu như bị sân siphiền não chi phối. Cho nên kết quả của 2 việc làm kia không bao giờ giống nhau. Vì Bồ Tát bao giờ cũng sợ nhân. Còn chúng sanh thì luôn luôn sợ quả. Còn nhân không bao giờ lưu ý đến.

Ngày Đức Phật ra đời mang lại không biết bao nhiêu niềm vui cho nhân thế. Trời người đều hoan lạc và cây cỏ cũng được nhờ. Côn trùng cũng có cơ hội trỗi lên những bản nhạc thanh tao nhằm cúng dường một bậc Đại Giác. Loài người lúc ấy nơi cõi Nam Diêm Phù Đề nầy cũng đã hớn hở mừng vui. Vì có một bậc Thầy của nhân loại đã xuất hiện. Cho nên Đạo sĩ A Tư Đà vốn thần thức đã nhập Thiên Cung mà còn phải trở lại chốn hoàng triều để ra mắt và đoán tướng cho Thái Tử.

Ở về phía Đông của Ấn Độ; nơi xứ Trung Quốc lúc bấy giờ có Khổng Phu Tử là một nhà hiền triết của Trung Hoa, sanh cùng thời với Đức Phật đã thốt lên rằng: "Ta nghe như phương Tây mặt đất đang chuyển động". Tất cả những sự kiện ấy báo hiệu một bậc giác ngộ đã ra đời và các bậc Đạo sĩ, Vĩ nhân trên thế gian nầy đều cảm nhận được.

Phật, Bồ Tát đang ngự nơi chín phẩm liên hoa. Còn chúng ta vẫn mãi chìm đắm nơi luân hồi sanh tử. Nếu chúng ta không hạ thủ công phu, trau giồi giới định tuệ thì bản hoài của chư Phật khi thị hiện ra đời vẫn còn xa xôi dịu vợi lắm. Biết bao giờ chúng ta mới nắm bắt và tắm gội được trong tri kiến Phật ấy. Do đó ngày Phật Đản về cũng là ngày nhắc nhở chúng ta phải hành trì nhiều hơn nữa, nhằm làm sáng tỏ trí giác ngộ ấy vốn sẵn có nơi tự tâm của mỗi người.

Mỗi một sát na đều luôn luôn biến diệt, đổi thay, không có gì đứng yên một chỗ. Cho nên Ngài Long Thọ đã nói trong Nhân Minh Luận rằng: "Quá khứ là những gì đã qua, vị lai là những gì chưa đến. Còn hiện tại đang biến đổi sinh diệt trong từng sát na". Cho nên chúng ta phải ý niệm vấn đề nầy để phải tôi luyện cái tâm của mình nhiều hơn nữa. Kẻo bị vô thường sanh diệt chi phối thì chúng ta khó có cơ hội để biết mình là ai.

Cầu Phật gia hộ cho tất cả chúng ta.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 50)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 139)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 163)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 154)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 250)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 267)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 294)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 270)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 283)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 369)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 333)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 327)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 312)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 348)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 351)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 280)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 229)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 263)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 279)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 369)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 425)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 434)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 424)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 409)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 418)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 689)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 650)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 931)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 522)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 759)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 582)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 579)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 464)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 580)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 551)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 733)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 522)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 904)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 648)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 647)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1075)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 746)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 639)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 950)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 604)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 726)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 704)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 681)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 702)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 697)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant